Tác giả: Dan Brown
--56--
Bốn chiếc xe Alfa Romeo 155 T-Sparks rú ga lao như bay dọc con đường Via Dei Coronari chẳng khác gì máy bay phản lực đang cất cánh từ đường băng. Trên xe là hơn chục lính gác Thuỵ Sĩ mặc thường phục được trang bị súng lục bán tự động Cherchi-Pardini, hộp hơi cay, súng gây mê nòng dài. Ba xạ thủ mang súng laze.
Từ ghế của mình cạnh người lái xe trên chiếc xe dẫn đầu, Olivetti quay lại nhìn Langdon và Vittoria, ánh mắt đầy giận dữ.
- Các vị hứa hẹn với tôi là sẽ giải thích rõ ràng cặn kẽ, vậy mà chỉ có thế?
Trong chiếc xe chật chội, Langdon cảm tưởng như bị bỏ tù:
- Tôi hiểu là ông đang…
- Này làm sao mà ông hiểu nổi cơ chứ! - Olivetti không bao giờ cao giọng, nhưng lúc này ông ta đang gằn từng lời nói - Ngay trong đêm diễn ra Mật nghị Hồng y, thế mà tôi phải cử những người lính được việc nhất đi ra khỏi phạm vi thành Vatican. Và giờ tôi lại còn phải bao vây điện Pantheon chỉ vì những lời phỏng đoán của một tay người Mỹ lạ hoắc sau khi gã đọc một bài thơ được sáng tác từ 400 năm trước. Đã thế tôi lại còn phải giao việc tìm kiếm phản vật chất cho những sĩ quan hạng hai nữa chứ!
Langdon phải hết sức kìm chế mới ngăn được ý định lôi tờ giấy trong túi áo ra và dúi vào tận mặt Olivetti.
- Tôi chỉ biết là những thông tin tôi tìm được nhắc đến mộ của Raphael, mà mộ của Raphael thì ở trong Pantheon.
Người sĩ quan đang lái xe gật đầu:
- Anh ấy nói đúng đấy, thưa chỉ huy. Tôi đã cùng với vợ…
- Lái xe đi. - Olivetti cộc cằn. Ông ta lại quay về phía Langdon - Làm sao tên sát thủ có thể giết người rồi tẩu thoát ở một địa điểm đông đúc như thế được cơ chứ?
- Tôi không biết. - Langdon đáp - Nhưng rõ ràng là hội Illuminati vô cùng cao tay. Họ đã đột nhập được vào CERN và Vatican. Phải nhờ vận may chúng ta mới được biết địa điểm hành quyết đầu tiên. Điện Pantheon là cơ hội duy nhất để ông có thể tóm được kẻ sát nhân.
- Lại càng thêm mâu thuẫn. - Olivetti lớn tiếng. - Cơ hội duy nhất là sao? Ông vừa mới nói là có hẳn một con đường kia mà. Hàng loạt tín hiệu chỉ đường cơ mà. Nếu điện Pantheon là đúng thì chúng ta có thể lần theo các dấu hiệu đó. Chúng ta có bốn cơ hội để tóm cổ hắn.
- Ban nãy tôi cũng có hi vọng đó. - Langdon đáp. - Và cách đây một thế kỷ thì… chúng ta cũng đã có cơ hội đó.
Phát hiện ra bàn thờ khoa học đầu tiên chính là Pantheon là một sự kiện buồn vui lẫn lộn. Lịch sử quả là có lắm trò ma mãnh để trêu ngươi những người đeo đuổi nó. Khả năng những tác phẩm điêu khắc phong phú trong điện Pantheon còn y nguyên như cũ sau bao thế kỷ thật là mong manh. Bao lâu nay, Langdon vẫn khát khao được tìm thấy con đường này và được đặt chân đến thánh địa của hội Illuminati. Nhưng buồn thay, điều này giờ đây là không thể.
- Cuối thế kỷ XVII, Vatican đã di chuyển và phá huỷ hầu hết các tác phầm điêu khắc trong điện Pantheon.
Vittoria kinh ngạc:
- Tại sao?
- Vì chúng là tượng các vị thần Olympia. Đáng tiếc là đầu mối đầu tiên cũng đã bị mất… cùng với nó là…
- Liệu còn có hi vọng tìm được con đường ánh sáng và những đầu mối khác hay không? - Vittoria hỏi.
Langdon lắc đầu:
- Chúng ta chỉ có một vận may duy nhất: điện Pantheon. Sau đó thì con đường ánh sáng bị mất dấu hoàn toàn.
Olivetti trừng trừng nhìn hai người một hồi, rồi quay lên phía trước.
- Quay lại! - ông ta gắt gỏng bảo người lái xe.
Anh lái xe đánh xe sang vệ đường và nhấn phanh. Ba chiếc Alfa Romeo sau lưng họ cũng lập tức dừng lại. Cuộc truy lùng của đội lính gác Thuỵ Sĩ bỗng nhiên ngừng lại.
- Ông làm cái gì thế? - Vittoria chất vấn.
- Việc của tôi chứ còn cái gì. - Olivetti đáp, vẫn ngồi nguyên trên ghế, giọng ông ta lạnh như băng:
- Thưa ông Langdon, khi ông hứa hẹn sẽ giải thích trên đường đến điện Pantheon, tôi tưởng là sẽ có một lời giải thích rõ ràng vì sao đội lính gác của chúng tôi phải có mặt ở đó. Nhưng sự thật không phải vậy. Vì để đến đây, tôi đã phải bỏ dở những công việc khác vô cùng quan trọng, và cũng vì những lời giải thích của ông về những vật hiến tế trinh tiết cũng như bài thơ cổ kia không hề rõ ràng, tôi không thể tiếp tục làm việc này được nữa. Tôi sẽ cho đừng điệp vụ này ngay lập tức.
Ông ta rút máy bộ đàm, nhấn nút bật máy.
Vittoria chộp lấy cánh tay Olivetti:
- Ông không được làm thế.
Olivetti dập máy bộ đàm, trợn cặp mắt vằn đỏ và nhìn Vittoria chòng chọc:
- Cô đã bao giờ đến điện Pantheon chưa, thưa cô Vetra?
- Chưa bao giờ, nhưng mà…
Thế thì để tôi nói cho mà nghe, Pantheon là một căn phòng duy nhất. Căn phòng hình tròn xây bằng đá và xi măng. Chỉ có một lối vào. Không cửa sổ, chỉ có một lối vào duy nhất rất hẹp.
Và lúc nào cũng có ít nhất bốn lính gác La Mã đứng canh ở đó để giữ cho điện thờ khỏi bị phá hoại bởi những kẻ khủng bố ngoại đạo và đám khách du lịch Gypsy láu cá.
- Kết luận? - Vittoria lạnh lùng hỏi.
Kết luận à? - Những ngón tay của Olivetti ghì chặt nệm ghế. - Kết luận là không thể có những chuyện như cô vừa nói! Cô có thể cho tôi ví dụ về khả năng có một Hồng y Giáo chủ bị sát hại ngay trong Pantheon được không? Làm thế nào mà kẻ xấu có thể qua mặt lính gác để đưa con tin vào bên trong điện? Olivetti nhoài hẳn người về phía sau, hơi thở sực mùi cà phê của ông ta lúc này phả thẳng vào mặt Langdon:
- Bằng cách nào hả ông Langdon? Cho tôi một kịch bản xem nào.
Langdon cảm tưởng như chiếc xe chật chội đang thu hẹp lại.
- Làm sao mà biết được! Tôi có phải là kẻ sát nhân đâu mà biết hắn ta sẽ hành động kiểu nào! Tôi chỉ biết là…
- Một kịch bản à?
Vittoria đốp lại, giọng vô cùng điềm tĩnh:
- Ông nghe thử nhé. Hắn dùng máy bay trực thăng, thả vị Hồng y Giáo chủ đã bị khắc dấu nung đỏ trên người qua lỗ tròn trên mái vòm. Nạn nhân thét lên thất thanh, rồi rơi xuống sàn đá cẩm thạch và chết.
Tất cả mọi người trong xe đều quay đầu lại nhìn Vittoria chằm chằm. Langdon chẳng còn biết nói gì. Trí tưởng tượng của cô đáng sợ thật, cô gái ạ, lại còn nhanh nữa chứ.
Olivetti nhíu mày:
- Có thể, tôi thừa nhận… nhưng khó có thể…
- Hay kẻ sát nhân cho Hồng y Giáo chủ uống thuốc, rồi đặt ông ấy lên xe lăn, đầy vào như kiểu người ta đẩy một vị khách du lịch cao tuổi. Vào đến bên trong, hắn dùng dao cắt cổ nạn nhân, rồi bước ra ngoài.
Giả thuyết này khiến Olivetti thay đổi thái độ.
Không tồi chút nào! Langdon thầm nghĩ.
- Hoặc là kẻ sát nhân có thể… - Vittoria nói tiếp.
- Tôi nghe rồi. - Olivetti ngắt lời. - Đủ rồi.
Ông ta thở một hơi thật sâu. Có tiếng gõ côm cốp vào cửa sổ xe khiến mọi người giật nảy mình. Hoá ra là một sĩ quan ngồi trên chiếc xe theo sau.
Olivetti hạ kính cửa sổ xuống.
- Ổn cả chứ, thưa chỉ huy? - Người lính gác này mặc thường phục.
Anh ta vén tay áo lên, để lộ ra chiếc đồng hồ nhà binh màu đen đeo trên cổ tay. - 7 giờ 40 rồi sếp ạ, chúng ta cần thời gian để vào đúng vị trí
Olivetti trầm ngâm gật đầu, im lặng một hồi. Ông ta đi đi ngón tay trên kính cửa sổ, vẽ thành một vệt dài trên tấm kính phủ đầy bụi, mắt chăm chú nhìn hình ảnh của Langdon phản chiếu trong gương xe. Langdon thấy mình bị săm soi tỉ mỉ.
Cuối cùng ông ta quay lại nói với người lính bên ngoài cửa sổ, giọng đầy miễn cưỡng:
- Chia cả đội thành các nhóm độc lập. Các xe theo thứ tự đi về Piazza Della Rotunda, Via Degli Orfani, Piazza Sant Ignazio, và Sant Eustachio. Cự li là hai toà nhà tính từ mục tiêu. Vào đúng vị trí, nổ máy sẵn sàng và đợi lệnh tôi. Ba phút.
- Tốt lắm, thưa chỉ huy. - Anh lính nói và quay về xe của mình.
Langdon gật đầu nhìn Vittoria đầy tán thưởng. Cô gái cũng mỉm cười với anh. Trong thoáng chốc, Langdon cảm nhận thấy một sức hút mạnh mẽ, như thể một thỏi nam châm nào đó đang hút hai người lại gần nhau.
Vẫn ngồi nguyên trên ghế, viên chỉ huy quay lại nhìn Langdon chòng chọc:
- Thưa ông Langdon, mong rằng những phỏng đoán của ông là chính xác.
Langdon mỉm cười, không được thoải mái lắm. sao mà sai được cơ chứ?
--58--
17 giờ 46 phút… và 30 giây.
Mặc dù đang nói chuyện qua máy bộ đàm, Olivetti cũng chỉ nói rất khẽ.
Mặc chiếc áo khoác vải tuýt, ngồi ở ghế sau của chiếc xe Alfa Romeo đang đỗ tại quảng trường Concorde, cách điện Pantheon ba toà nhà, Langdon toát mồ hôi. Cạnh anh, Vittoria đang chăm chú theo dõi Olivetti ra những mệnh lệnh cuối cùng cho đội lính gác Thuỵ Sĩ.
- Dàn quân thành vòng vây tám điểm. - Ông ta nói - Bao vây kín lối vào. Đối tượng có thể đã biết mặt các anh, nên phải nấp kín. Chỉ dùng vũ khí không sát thương. Bố trí một người cảnh giới mái vòm. Ưu tiên một là mục tiêu. Ưu tiên hai là tài sản.
Lạy chúa tôi, Langdon cảm thấy ớn lạnh khi nghe Olivetti nói đến khả năng vị Hồng y Giáo chủ có thể bị hại. Ưu tiên hai là tài sản.
- Nhắc lại. Vũ khí không sát thương. Bắt sống đối tượng. Bắt đầu hành động. - Olivetti ngắt máy bộ đàm.
Vittoria có vẻ ngạc nhiên và giận dữ.
- Thưa chỉ huy, không có ai vào bên trong à?
Olivetti quay lại:
- Vào trong à?
- Vào trong Pantheon chứ sao! Vào địa điểm hành quyết ấy!
- Cô nghe đây. - Olivetti nói, ánh mắt sắc lạnh. - Nếu trong đội lính của tôi đã có người bị mua chuộc thì chắc chắn hung thủ đã biết mặt tất cả đội. Đồng nghiệp của cô vừa cảnh báo với tôi rằng đây là cơ hội duy nhất để tóm cổ đối tượng. Tôi không có ý định cho người của tôi vào trong để đánh động hung thủ.
- Thế nhỡ hắn đã có mặt ở trong đó sẵn rồi thì sao?
Olivetti xem đồng hồ:
- Hắn đã báo hiệu thời điểm: 8 giờ. Chúng ta còn 15 phút.
- Hắn nói là sẽ sát hại vị Hồng y đầu tiên vào lúc 8 giờ. Nhưng rất có thể hắn đã đưa nạn nhân vào trong đó trước rồi. Nhỡ người của ông thấy hắn đi ra nhưng không biết hắn là hung thủ thì sao? Phải có người vào đó để chắc chắn là trong điện không có gì chứ.
- Thế thì quá mạo hiểm!
- Không hề, nếu người vào trong đó không bị nhận ra.
- Cải trang lúc này sẽ là quá mất thì giờ và…
- Tức là tôi đây này. - Vittoria nói.
Langdon quay lại, chằm chằm nhìn cô gái. Olivetti lắc đầu:
- Không thể được.
- Hắn đã giết cha tôi.
- Chính xác. Hắn có thể nhận ra cô.
- Ông đã nghe hắn nói trên điện thoại rồi đấy. Hắn không hề biết rằng Leonardo Vetra có một cô con gái. Chắc chắn hắn không biết tôi là ai. Tôi có thể giả làm khách du lịch và vào trong. Nếu thấy có gì khả nghi thì tôi sẽ bước ra giữa quảng trường và ra hiệu cho người của ông vào ngay.
- Tôi rất tiếc, nhưng làm thế là không được.
- Báo cáo. - Máy bộ đàm của Olivetti kêu khọt khẹt. - Chúng tôi đã vào vị trí ở hướng Bắc, nhưng bị đài phun nước chặn mất tầm nhìn. Chúng tôi chỉ nhìn thấy lối vào nếu chuyển đến đứng nấp ở quảng trường. Ý chỉ huy thế nào? Chấp nhận không nhìn thấy gì hay là mạo hiểm ạ?
Rõ ràng là Vittoria không thể chịu đựng thêm được nữa.
- Thấy chưa? Để tôi vào! - Cô gái mở cửa xe và lao ra ngoài.
Olivetti vứt ngay máy bộ đàm xuống ghế, chạy vòng ra trước đón đầu cô gái.
Langdon cũng lao ra khỏi xe. Vittoria định làm cái quái gì thế không biết!
Olivetti chặn Vittoria lại:
- Cô Vetra, cô có trực giác rất tốt, nhưng tôi không thể để thường dân can thiệp vào chuyện này được.
- Can thiệp à? Ông đang chơi trò mạo hiểm. Hãy để tôi giúp ông.
- Tôi cũng muốn bố trí trinh sát bên trong, nhưng mà…
- Nhưng mà làm sao? - Vittoria căn vặn nhưng mà tôi là đàn bà phải không?
Olivetti làm thinh.
- Tốt nhất là ông đừng bao giờ nói ra điều đó, ông chỉ huy ạ.
- Ông biết quá rõ rằng ý kiến đó là đúng, và nếu ông để những quan điểm kỳ quặc cổ xưa…
- Hãy để yên cho chúng tôi làm việc.
- Hãy để tôi giúp các ông một tay.
- Quá nguy hiểm. Chúng tôi sẽ không thể giữ liên lạc với cô. Không thể để cô cầm theo máy bộ đàm được. Lộ ngay.
Vittoria thò tay vào túi áo, lôi ra chiếc điện thoại cầm tay:
- Vô số khách du lịch vẫn mang theo cái này đấy.
Olivetti nhíu mày.
Vittoria mở máy điện thoại và giả gọi một cuộc:
- Chào anh yêu. Em đã ở trong Pantheon rồi. Anh cũng nên vào ngay đi. - Cô dập máy và nhìn thẳng vào Olivetti - Ai mà biết được nào? Tinh huống này thì nguy hiểm thế nào được? Để tôi làm trinh sát cho các ông!
Cô gái đưa tay chỉ chiếc máy bộ đàm giắt trên thắt lưng Olivetti:
- Số của ông là gì?
Olivetti không trả lời.
Trong lúc hai người đang tranh luận, anh lái xe chăm chú quan sát và dường như có những suy nghĩ riêng. Anh ta ra khỏi xe và kéo viên chỉ huy sang một góc. Họ thì thào trao đổi khoảng mười giây, rồi Olivetti gật đầu và quay lại bên Vittoria:
- Cô hãy ghi số này vào máy. - Rồi ông ta bắt đầu đọc số.
Vittoria ghi số vào máy của mình.
- Giờ thì gọi thử xem!
Vittoria bấm nút gọi tự động. Điện thoại của Olivetti đổ chuông. Ông ta mở máy, nói dõng dạc:
- Hãy vào trong toà nhà, cô Vetra, nhìn quanh, rồi ra khỏi đó và gọi về báo lại nhúng gì cô trông thấy.
Vittoria dập mạnh điện thoại:
- Rõ, thưa chỉ huy.
Langdon chợt thấy lo cho sự an toàn của cô gái.
- Từ từ đã.
Anh nói với Olivetti:
- Ông định cử cô ấy vào trong đó một mình hay sao?
Vittoria từ mắt nhìn anh:
- Robert, tôi sẽ không sao đâu mà.
Người lái xe của đội lính gác Thuỵ Sĩ lại kéo Olivetti sang một góc.
- Làm thế quá nguy hiểm. - Langdon bảo Vittoria.
- Đúng thế đấy. - Olivetti nói - Thậm chí nhân viên cừ nhất của tôi cũng không bao giờ tác chiến một mình. Anh trung uý này vừa mới thuyết phục tôi rằng để cả hai người cùng vào vai thì sẽ thích hợp hơn.
- Cả hai chúng tôi à? - Langdon do dự. - Thực ra ý tôi là…
- Cả hai người hãy vào cùng nhau, - Olivetti đề nghị. - Như thế các vị sẽ giống như một đôi uyên ương đang đi du lịch. Và như thế thì người nọ sẽ hỗ trợ cho người kia. Được thế thì tôi yên tâm hơn.
Vittoria nhún vai:
- Được thôi, nhưng chúng ta phải nhanh chân lên.
Langdon rên lên. Ý tưởng hay ho lắm, thưa các vị.
Olivetti chỉ tay xuống cuối đường:
- Đi hết phố này là đến Via Degli Orfani. Rẽ trái. Đi thẳng là đến Pantheon. Hai phút đi bộ là đến nơi. Tôi sẽ ở đây để bao quát chung và đợi tin của hai người.
- Các vị cũng cần có vũ khí để tự vệ. - Ông ta rút ra một khẩu súng lục - Có ai biết bắn không?
Tim Langdon đập thình thịch. Chúng tôi không cần đến súng đâu.
Vittoria chìa tay ra:
- Từ cách xa 40 mét, trên boong tàu đang lắc lư tôi có thể bắn trúng một con cá heo đang nhảy nước.
- Tốt lắm. - Olivetti đưa khẩu súng cho cô gái. - Giấu đi.
Vittoria liếc nhìn chiếc quần soóc cô đang mặc. Rồi quay sang nhìn chiếc áo khoác của Langdon.
- Ồ xin đừng! Langdon thầm nghĩ, nhưng nhanh như cắt, Vittoria mở nắp túi áo ngực của Langdon rồi cất khẩu súng vào đó. Ý như có người vừa thả tảng đá vào trong áo. Niềm an ủi duy nhất của Langdon là Diagramma được cất ở túi áo kia.
- Thế này trông hoàn toàn vô hại. Chúng tôi đi luôn đây.
Vittoria nói rồi khoác tay Langdon đi xuống cuối phố.
Người lái xe gọi với theo:
- Cầm tay nhau được thì càng tốt. Nhớ rằng các vị là khách du lịch. Thậm chí còn đang hưởng tuần trăng mật cơ đấy. Hãy thử cầm tay nhau xem nào?
Đi đến cuối phố, Langdon thấy rõ ràng Vittoria đang cố giấu nụ cười trên mặt.
--59--
Phòng tác chiến của đội lính gác Thuỵ Sĩ cạnh doanh trại Corpo Di Vigilanza thường là nơi sắp xếp lực lượng an ninh để bảo vệ Đức Thánh Cha khi người xuất hiện trước công chúng trong các sự kiện quan trọng của Vatican. Nhưng hôm nay, căn phòng này được dùng vào một mục đích khác.
Người đang đứng trước mặt đội lính tác chiến lúc này là đại tá Elias Rocher, sĩ quan chỉ huy số hai của đội lính gác Thuỵ Sĩ.
Rocher có khuôn ngực rộng, dáng khoan thai. Ông ta mặc bộ quân phục màu xanh lam truyền thống của sĩ quan cấp tá, trên đầu là chiếc mũ bê-rê đỏ chói đội lệch. Giọng nói của ông ta nghe thanh thoát và du dương lạ lùng so với vẻ ngoài to lớn. Dù ăn nói lưu loát và mạch lạc, ánh mắt của Rocher lúc nào cũng mờ đục y như mắt những loài thú ăn đêm. Lính của Rocher vẫn gọi đùa ông ta là "Orso" - chàng gấu mít ướt. Đôi khi họ còn nói đùa rằng Rocher là "chú gấu lặc lè mượn oai rắn độc". Chỉ huy trưởng Olivetti chính là rắn độc. Rocher cũng có nọc độc chết người y như con rắn kia, nhưng ít ra còn nghe tiếng bước chân mỗi khi ông ta đến gần.
Tất cả binh lính của Rocher đều đang đứng nghiêm, mọi cơ bắp trên cơ thể họ đều im phắc, mặc dù những tin tức họ đang được cập nhật khiến cho huyết áp của toàn đội đang tăng dần lên.
Đứng tận cuối hàng thiếu uý tân binh Chartrand thầm ước giá như anh được là một trong 99% những người đã nộp đơn nhưng không đủ điều kiện để được nhận vào đội ngũ này. Mới 20 tuổi đầu, Chartrand là người ít tuổi nhất trong đội lính gác Thuỵ Sĩ. Anh mới phục vụ ở Vatican được ba tháng. Giống như tất cả các thành viên khác của đội, Chartrand được quân đội Thuỵ Sĩ huấn luyện, rồi phục vụ hai năm tại Bern, sau đó mới được tham gia vào các cuộc sàng lọc cửa Vatican tại các căn cứ bí mật đặt ở ngoại vi thành Rome. Tuy nhiên, không một bài huấn luyện nào trong suốt quá trình dài đó đế cập đến một tình huống nguy kịch đến mức này.
Lúc đầu, Chartrand tưởng những gì đang được thông báo chỉ là một bài tập huấn luyện mà thôi. Vũ khí của tương lai? Giáo phái cổ xưa? Các vị Hồng y Giáo chủ bị bắt cóc? Sau đó Rocher cho cả đội xem thứ vũ khí đó do camera truyền về. Rõ ràng đây không phải là tập dượt.
- Chúng ta sẽ buộc phải cắt điện ở một số khu vực để loại trừ những sóng từ nhiểu không cần thiết. Cả đội chia thành các nhóm bốn người, đeo kính hồng ngoại để nhìn trong đêm tối. Tiến hành rà soát bằng máy dò thiết bị nghe lén truyền thống, hiệu chỉnh đối với những từ trường dưới 3Ω (Omega). Có ai thắc mắc gì không?
Không.
Thần kinh Chartrand căng như sợi dây đàn.
- Lỡ chúng ta không tìm thấy kịp thời thì sao? - Anh lên tiếng, và ngay lập tức thấy hối tiếc vì đã hỏi câu đó.
Gấu mít ướt đội mũ bê-rê đỏ nhìn anh chằm chằm, sau đó ông ta buồn bã ra lệnh giải tán:
- Nhanh chân lên, các bạn.
--60--
Cách điện Pantheon hai khu phố, Vittoria và Langdon đi lướt qua hàng dãy xe tải đang đỗ, cánh lái xe đa số đang gà gật ngủ.
Trong thành phố Vĩnh Cửu này, thời gian ngủ trưa dường như dài vô tận. Đâu đâu cũng thấy cảnh người ta gà gật ngủ giữa nơi công cộng, một tập quán có từ xa xưa ở Tây Ban Nha.
Langdon cố tập trung tư tưởng, nhưng tình huống này kỳ quặc ngoài sức tưởng tượng. Cách đây có sáu giờ đồng hồ, anh còn đang ngon giấc ở Cambridge. Nhưng lúc này đây, anh đang ở châu Âu và bất đắc dĩ phải tham gia vào một cuộc tỉ thí giữa những gã khổng lồ, mang một khẩu súng lục bán tự động trong túi áo ngực, nắm tay một cô gái mà anh chỉ vừa mới gặp.
Langdon quay sang nhìn Vittoria. Cô gái đang tập trung quan sát phía trước. Vittoria siết tay anh rất chặt, biểu hiện của một phụ nữ độc lập và kiên quyết. Những ngón tay của cô gái đan trong tay anh một cách tự nhiên và thân mật. Không một chút do dự. Langdon mỗi lúc một cảm thấy bị cuốn hút. Phải thật tỉnh táo, anh tự nhắc nhở bản thân.
Dường như Vittoria đọc được suy nghĩ của anh:
- Hãy thư giãn đi nào. - Cô gái nói với anh, nhưng mặt vẫn hướng thẳng ra phía trước Chúng ta phải đóng giả làm một đôi uyên ương đấy.
- Tôi vẫn thư giãn đấy chứ.
- Anh bóp nát tay tôi đến nơi rồi đây này.
Langdon đỏ mặt, anh nới lỏng các ngón tay.
- Anh hãy thở qua mắt đi. - Cô gái khuyên.
- Gì cơ?
- Để giúp cơ bắp được thư giãn. Tên gọi của bài tập này là Pranayama.
- Piranha hả?
- Không phải loài cá ăn thịt đó. Pranayama cơ. Nhưng cái đó không quan trọng.
Họ băng qua góc phố và rẽ vào Piazza Della Rotunda, điện Pantheon đã hiện ra trước mắt. Như bao lần trước, Langdon chiêm ngưỡng cung điện với nỗi kinh sợ. Pantheon. Đền thờ tất cả các vị chúa. Các vị chúa của người vô thần. Chúa của tự nhiên và trái đất. Nhìn từ bên ngoài, cấu trúc của toà nhà có vẻ vuông và thấp.
Phần lớn mái vòm hình tròn bị những cây cột cao và những mảng trang trí lớn hình tam giác che khuất. Tuy nhiên, hàng chữ phô trương và kiêu ngạo khắc trên lối vào khẳng định rằng họ đã đến đúng chỗ. M. AGRIPPA L F COS TERTIUM FECIT. Langdon thầm dịch hàng chữ sang tiếng Anh, như bao nhiêu lần trước, lòng đầy hứng khởi. Marcus Agrippa, quan tổng trấn nhiệm kỳ 3, đã cho xây ngôi đền này.
Thật là khiêm tốn, Langdon thầm nhận xét và đưa mắt ngắm khu vực xung quanh. Lác đác có mấy người khách du lịch vai đeo máy ảnh đang đi tha thẩn trong điện. Mấy người khác đang ngồi thưởng thức cà phê đá tại quầy cà phê ngoài trời La Tazza di D oro s. Ngay ngoài lối vào điện Pantheon có bốn người lính đang đứng gác, đúng như Olivetti dự đoán.
- Trông có vẻ yên tĩnh. - Vittoria nhận xét.
Langdon gật đầu, nhưng lòng cảm thấy vô cùng bất ổn. Giờ đây anh đã đến tận nơi, anh mới thấy tình huống này quả là không thực tế. Bất chấp thái độ tin tưởng tuyệt đối của Vittoria, anh cảm thấy tất thảy mọi người đã bị anh đặt vào một tình huống thật bấp bênh. Bài thơ của hội Illuminati vang lên trong tâm trí. Từ nấm mồ trần tục của Santi, lăng mộ hang quỷ. ĐÚNG RỒI, Langdon tự nhủ. Đây chính là chỗ đó. Nấm mồ của Santi. Đã rất nhiều lần anh đến nơi này, đứng dưới mái vòm hình tròn có lỗ trổ ở chính giữa, và ngắm nhìn nấm mồ của Raphael vĩ đại.
- Mấy giờ rồi? - Vittoria hỏi.
Langdon xem đồng hố:
- 7 giờ 55. Còn 10 phút nữa.
- Hi vọng mấy anh chàng kia bắn chuẩn xác. - Vittoria vừa nói vừa đưa mắt nhìn những du khách đứng rải rác trong điện. - Nếu xảy ra chuyện trong điện này thì chúng ta dễ bị bắn chéo cánh sẻ lắm.
Đến gần lối vào, Langdon thở một cách nặng nhọc. Khẩu súng trong túi áo khoác nặng trĩu xuống. Anh thầm e ngại nhỡ những người lính gác này chặn hai người lại và lục soát rồi phát hiện ra khẩu súng thì không biết sẽ thế nào. Nhưng những người lính nây chẳng buồn nhìn họ đến lần thứ hai. Rõ ràng là cả hai đang đóng giả rất đạt.
Langdon thì thào bảo Vittoria:
- Chắc cô cũng chưa bao giờ dùng súng trừ trường hợp bắn chỉ thiên, đúng thế không?
- Anh không tin tôi à?
- Tin á? Tôi đã biết cô là ai đâu!
Vittoria nhíu mày:
- Thế mà tôi lại nghĩ rằng chúng ta là một cặp uyên ương cơ đấy!
--61--
Đặc quánh chất lịch sử, bầu không khí trong điện Pantheon có vẻ lạnh lẽo và ẩm ướt. Trên đầu họ, khoảng trần đồ sộ thoải rộng như thể không trọng lượng - với vòm thoải dài tới 42 mét không có cột đỡ trần cung điện này còn rộng hơn cả mái vòm của nhà thờ St. Peter. Như bao lần khác, Langdon thấy rờn rợn khi bước vào căn phòng thênh thang này. Tại đây, kỹ thuật và nghệ thuật hoà quyện vào nhau thật tuyệt vời. Từ trên cao, những tia nắng hoàng hôn đang chiếu xuyên qua giếng trời hình tròn trứ danh. Oculus, Langdon thầm nghĩ, hang quỷ.
Họ đã vào đến nơi.
Langdon dõi mắt theo nhịp cuốn của trần nhà thoải dần xuống những mảng tường rất nhiều cột, thoải xuống đến tận nền đá hoa cương dưới chân họ. Thấy có tiếng nói chuyện rì rầm hoà lẫn với tiếng chân bước của các du khách, Langdon đưa mắt nhìn một lượt khoảng hơn chục người khách du lịch đang tha thẩn trong toà nhà chạng vạng tối. Hắn đã đến chưa nhỉ?
- Có vẻ khá yên ắng. - Vẫn cầm tay Langdon, Vittoria nhận xét.
Langdon gật đầu.
- Mộ của Raphael ở đâu?
Langdon cố xác định phương hướng. Anh đưa mắt nhìn khắp gian điện hình tròn. Những ngôi mộ. Những bàn thờ. Những cây cột. Các hốc tường. Anh đưa tay chỉ mộ phần được trang trí lộng lẫy bên tay trái.
- Tôi nghĩ mộ của Raphael nằm ở góc kia kìa.
Vittoria nhìn một lượt khắp gian phòng lớn.
- Tôi chả thấy có kẻ nào giống một tên sát thủ sắp hành quyết vị Hồng y Giáo chủ ở đây cả! Hay chúng ta đi một vòng xem thế nào?
Langdon gật đầu.
- Trong điện này thì hắn chỉ có thể trốn ở một nơi duy nhất. Chúng ta nên kiểm tra các hốc tường.
- Các hốc tường à?
- Đúng thế. - Langdon chỉ tay. - Các hốc xây lõm vào trong tường kia kìa.
Rải rác khắp căn phòng tròn, xen giữa những ngôi mộ là những hốc được xây lõm vào trong tường. Dù không lớn lắm, nhưng những hốc này đủ để một người có thể nấp kín bên trong.
Những hốc này một thời từng là nơi đặt tượng các vị thánh Olympia, nhưng buồn thay, chúng đã bị phá huỷ khi Vatican quyết định biến Pantheon thành nhà thờ Thiên Chúa. Langdon cảm thấy công phẫn, anh đang đứng ngay tại bàn thờ khoa học đầu tiên, nhưng tất cả các đầu mối đều đã biến mất. Không hiểu xưa kia bức tượng đó được đặt ở đâu, và không hiểu nó chỉ tay về hướng nào. Đối với Langdon, không gì tuyệt vời bằng tìm được pho tượng với cánh tay kín đáo chỉ về hướng con đường ánh sáng - manh mối của hội Illuminati. Và không hiểu người nghệ sĩ vô danh của hội Illuminati là ai nhỉ?
- Tôi sẽ đi về mạn trái, - Vittoria chỉ tay sang bên trái. - Anh đi về bên phải nhé. Hẹn gặp nhau sau 180 độ.
Langdon gật đầu đồng ý.
Vittoria đi về bên trái, và lập tức tính chất cấp thiết và mức độ nguy hiểm của thực tại choán lấy tâm trí của anh. Anh quay người, đi về bên phải. Giọng nói của kẻ sát nhân như văng vẳng khắp đại diện lạnh lẽo. Đúng 8 giờ. Những vật tế trinh tiết sẽ được dâng trước bàn thờ khoa học. Vào những thời điểm hết sức chính xác. Tám, chín, mười, mười một giờ, rồi nửa đêm. Langdon xem đồng hồ: 7 giở 52 phút. Còn 8 phút.
Hướng đến hốc tường đầu tiên, Langdon phải băng qua mộ một vị vua theo đạo Thiên Chúa của ý. Nhưng giống như nhiều ngôi mộ khác ở Rome, chiếc quan tài bằng đá này không nằm thẳng bức tường, mà tạo thành những góc xiên lệch kì dị. Một nhóm du khách có vẻ như đang thắc mắc về điều này. Nhưng Langdon không thể dừng lại để giải thích cho họ. Quan quách của nhiều người theo đạo Thiên Chúa chính thống không được đặt ngay ngắn so với kiến trúc chung, và mục đích là để đảm bảo rằng người quá cố được đặt quay đầu về hướng Đông. Vừa mới tháng trước, Langdon đã thảo luận về tập tục mang đậm màu sắc mê tín này với các sinh viên ở lớp biểu tượng học khoá 212.
- Thật là phi lý hết sức! - Một nữ sinh ngồi bàn đầu đã thốt lên sau khi nghe Langdon thuyết giảng về những ngôi mộ quay về hướng Đông. - Tại sao những người theo đạo Thiên Chúa lại phải bố trí ngôi mộ quay đầu về phía mặt trời mọc cơ chứ? Chúng ta đang bàn về đạo Thiên Chúa cơ mà… có phải những giáo phái thờ mặt trời đâu?
Langdon mỉm cười, vừa đi đi lại lại trên bục giảng vừa ăn một trái táo.
- Mời anh Hitzrot! - Anh nói lớn.
Một chàng thanh niên đang gà gật ở bàn cuối giật nảy mình:
- Sao? Em ạ?
Langdon chỉ tay vào một bức tranh Phục Hưng dán trên tường:
- Ai đang quỳ trước chúa kia?
- Dạ… một vị thánh ạ.
- Tốt lắm. Làm sao anh biết đó là thánh?
- Vì có một vầng hào quang ạ.
- Tốt. Và vầng hào quang có gợi cho anh nghĩ tới cái gì không?
- Hitzrot cười toét miệng:
- Có ạ. Những đồ tạo tác của người Ai Cập học từ kỳ trước. Những… những… đĩa mặt trời!
- Cảm ơn Hitzrot. Mời anh ngủ tiếp. - Langdon quay lại nói với cả lớp - Những vầng hào quang này giống như hầu hết các biểu tượng khác của Thiên Chúa giáo, được du nhập từ tín ngưỡng thờ mặt trời của người Ai Cập cổ đại. Chúng ta thấy rất nhiều ví dụ của tín ngưỡng thờ mặt trời trong Thiên Chúa giáo.
- Nhưng thưa thầy, - cô gái ngồi bàn đầu lên tiếng - Tuần nào em cũng đi nhà thờ, nhưng có thấy thờ thần mặt trời đâu?
- Thế à? Thế ngày 25 tháng 12 hàng năm là ngày gì thế?
- Lễ giáng sinh ạ. Ngày sinh của chúa Giê-su.
- Nhưng theo kinh thánh, chúa sinh vào tháng 3, vậy ta kỷ niệm cái gì vào cuối tháng 12 đây?
Im lặng.
Langdon mỉm cười:
- Thưa các bạn, ngày 25 tháng 12 là ngày những người ngoại đạo cổ xưa thờ Mặt trời Bất khuất, trùng với ngày đông chí. Đó là một thời khắc rất tuyệt diệu trong năm, khi mặt trời trở lại, và ngày bắt đầu dài ra.
Langdon gặm thêm một miếng táo nữa.
- Các tôn giáo trên con đường chinh phục các giáo phái khác, thường duy trì những ngày lễ cũ để đỡ gây sốc. Hiện tượng này được gọi là sự chuyển hoá. - Langdon giảng giải. - Điều này giúp người ta nhanh quen với đức tin mới. Họ vẫn kỷ niệm những ngày lễ thánh như trước, vẫn cầu nguyện ở những thánh địa cũ, vẫn giữ nguyên các biểu tượng… và người ta chỉ đơn giản thay các vị chúa khác vào.
Lúc này cô sinh viên ngồi bàn đầu có vẻ đã phát cáu:
- Thầy nói rằng đạo Thiên Chúa chỉ là một hình thức tân trang lại tín ngưỡng thờ mặt trời hay sao?
- Không phải thế. Thiên Chúa không chỉ vay mượn các biểu tượng từ độc nhất tín ngưỡng thờ mặt trời. Nghi lễ phong thánh của chúng ta cũng bắt nguồn từ nghi lễ "tôn thánh" của người Euhemerus cổ xưa. Nghi lễ "bữa ăn thánh" - tức Lễ ban Thánh thể cũng có nguồn gốc từ nền văn minh của người Aztecs. Thậm chí cả khái niệm chúa hi sinh thân mình để chịu tội thay cho loài người cũng không phải là thuần tuý cơ đốc giáo; sự hi sinh của một chàng trai trẻ vì tội lỗi của những người khác trong tộc của mình là tập tục cổ xưa của người Quetzacoatl.
Cô gái trợn tròn mắt:
- Thế thì có bất cứ cái gì thực sự xuất phát từ đạo Thiên Chúa không?
- Trong bất kỳ tôn giáo lớn có tổ chức nào, rất ít nghi lễ thực sự được sinh ra bởi chính tôn giáo ấy. Chẳng có tôn giáo nào bắt đầu từ vạch xuất phát cả. Mỗi tôn giáo đều kế thừa các tôn giáo khác. Những tôn giáo hiện nay đều là một tập hợp những nỗ lực của loài người trong nỗ lực chung nhằm tìm hiểu về đấng tối linh.
- Nhưng mà… thưa thầy, - Hitzrot đánh bạo lên tiếng, có vẻ đã tỉnh ngủ. - Em biết có một thứ chắc chắn là có nguồn gốc Thiên Chúa giáo. Đó là hình tượng Chúa, đúng không ạ? Các nghệ sĩ theo đạo Thiên Chúa không bao giờ vẽ đức Chúa giống như hình tượng con chim ưng cửa người Aztec, hay bất kỳ hình tượng kỳ quặc nào khác. Chúa luôn được vẽ trong hình hài một ông già có chòm râu trắng. Vậy hình tượng đức Chúa của chúng ta có phải là sản phẩm của chính Thiên Chúa giáo không ạ?
Langdon mỉm cười. Những người mới chuyển sang đạo Thiên Chúa từ bỏ những vị thần mà trước đây họ tôn thờ như các vị chúa vô thần, Chúa của người La Mã, người Hi Lạp, Thần mặt trời, Mithraic… Họ hỏi nhà thờ rằng đức Chúa trời mới trông như thế nào. Một cách rất khôn ngoan, nhà thờ đã chọn khuôn mặt quen thuộc nhất, uy lực nhất và đáng sợ nhất trong lịch sử.
Hitzrot có vẻ hoài nghi:
- Là một ông già có chòm râu dài bạc trắng ạ?
Langdon đưa tay chỉ một loạt ảnh những vị thần cổ đại dán trên tường. Trên cùng là bức vẽ một ông già có chòm râu dài bạc trắng trong tư thế ngồi.
- Thần Zeus trông có quen không nào?
Đúng lúc đó giờ học kết thúc.
o O o
- Xin chào. - Một người đàn ông nói.
Langdon giật bắn người. Tâm trí anh trở lại với điện Pantheon.
Quay lại, Langdon thấy một ông già mặc áo khoác màu xanh lam có chữ thập đỏ trước ngực. Ông già mỉm cười, phô ra hàm răng xám xịt.
- Anh chắc là người Anh? - Ông ta nói đặc giọng vùng Tuscan.
Langdon chớp mắt, một lúc mới hiểu được câu hỏi của ông già:
- À… không. Tôi là người Mỹ.
Ông ta có vẻ hơi ngượng:
- Lạy chúa, anh ăn mặc lịch sự quá, tôi cứ tưởng… xin được lượng thứ.
- Tôi giúp gì được cho ông? - Langdon hỏi, trống ngực đập thình thịch.
- Thực ra thì tôi đang nghĩ rằng có thể giúp anh được chút gì đó. Tôi là hướng dẫn viên ở đây. - Ông ta kiêu hãnh chỉ tay vào tấm phù hiệu gắn trên ngực. - Công việc của tôi là làm cho chuyến thăm quan thành Rome của anh trở nên hấp dẫn hơn.
Hấp dẫn hơn! Chắc chắn là bản thân chuyến thăm này đã đủ hấp dẫn lắm rồi.
- Trông anh có vẻ rất đặc biệt, - người hướng dẫn viên đưa đẩy. - Chắc là anh rất quan tâm đến lĩnh vực văn hoá. Cho phép tôi giới thiệu với anh lịch sử của cung điện này.
Langdon lịch sự mỉm cười:
- Ông tử tế quá. Nhưng tôi là một giáo sư về lịch sử nghệ thuật, và…
- Thế thì tuyệt! - Mắt ông già sáng lên như thể vừa vớ được món hời. - Chắc chắn anh sẽ rất thích nơi này!
- Có lẽ tôi thích được…
Ông già bắt đầu thao thao bài diễn văn đã học thuộc sẵn:
- Điện Pantheon được Marcus Agrippa cho xây dựng từ năm 27 trước công nguyên.
- Đúng thế! - Langdon ngắt lời. - Và được Hadrian cho xây dựng lại năm 119 sau công nguyên.
- Cho đến tận năm 1960, nó là toà nhà mái vòm không cột đỡ lớn nhất thế giới. Nhưng toà nhà vòm Superdome ở New Orleans giờ đã chiếm mất kỷ lục đó.
Langdon rên lên. Không thể làm thế nào cho ông ta im đi được.
- Và vào thế kỷ thứ 5, một nhà thần học đã gọi điện Pantheon là Ngôi nhà của Quỷ dữ, ông ta cảnh báo rằng lỗ trổ hình tròn trên nóc vòm sẽ là lối để quỷ dữ nhập vào cung điện!
Langdon cố không nghe. Anh hướng mắt lên lỗ tròn lớn trên nóc vòm, và nhớ lại giả thuyết lạnh sống lưng mà Vittoria đưa ra lúc nãy. Một vị Hồng y bị đóng dấu sắt nung, rồi bị thả cho rơi qua lỗ vòm, rơi xuống sàn đá cẩm thạch. Nếu thế thì quỷ là một sự kiện để giới truyền thông đổ xô đến. Langdon nhìn quanh tìm cánh nhà báo. Không thấy ai. Anh hít một hơi thật sâu. Thật là một ý tưởng kỳ quặc. Khâu hậu kỳ cho sự kiện động trời này quả là không chu đáo chút nào.
Langdon bước đi, tiếp tục cuộc tìm kiếm, và hướng dẫn viên kia vẫn tiếp tục thao thao bất tuyệt bên tai anh. y như một kẻ gàn dở. Khiếp thật, Langdon thầm nghĩ trong bụng, không gì đáng sợ hơn một sử gia sốt sắng đến mức thái quá.
Phía bên kia cung điện, Vittoria cũng đang ra sức tìm kiếm. Lần đầu tiên kể từ khi nghe tin cha mất, cô gái ở một mình. Những sự kiện ảm đạm dồn dập trong 8 tiếng đồng hồ vừa qua giờ đây đang tái hiện lại trong tâm trí cô gái trẻ. Cha cô mới bị sát hại bất thình lình, vô cùng dã man. Một điều không kém phần đau đớn là phát minh của cha cô đã bị phá hỏng - giờ thì nó đã trở thành một loại phương tiện của bọn khủng bố. Nỗi ân hận dâng đầy trong tâm trí Vittoria - chính phát minh của cô đã tạo ra khả năng đưa phản vật chất ra khỏi phòng thí nghiệm… lúc này cái hộp của cô đang chờ nổ ở một góc nào đó trong toà thánh. Vì sốt sắng muốn giúp cha chứng minh bằng được một chân lý giản đơn, cô gái đã vô tình gây ra tai hoạ.
Nhưng cũng thật kỳ lạ, sự có mặt của một người hoàn toàn xa lạ lại đang khiến cho cô gái cảm thấy vô cùng yên tâm. Robert Langdon. Trong đôi mắt của anh, cô gái cảm nhận được sự bình yên… y như mặt biển hiền hoà mà cô vừa phải rời bỏ sáng sớm hôm nay. Thật hạnh phúc vì Langdon đang ở đây. Anh không chỉ là nguồn sức mạnh, là tia hi vọng của cô, mà còn dùng bộ óc sắc bén của mình để vạch ra phương án truy bắt kẻ sát nhân.
Hít thở thật sâu, Vittoria tiếp tục tìm kiếm dọc theo bức tường uốn tròn. Chính bản thân cô gái cũng phải kinh ngạc khi nhận thấy niềm khát khao muốn báo thù đang dâng lên ngùn ngụt trong lòng mình suốt từ sáng đến giờ. Dù đã nguyện một lòng yêu thương tất cả mọi chúng sinh… cô vẫn muốn kẻ sát nhân phải chết. Không một lời giáo huấn nào về nghiệp báo có thể khiến Vittoria chìa nốt bên má kia ra để nhận thêm một cái tát nữa. Bị kích động, đầy cảnh giác, lần đầu tiên trong đời Vittoria cảm nhận một luồng ý chí ngùn ngụt trong dòng máu Italy của mình… lời thề sẽ dùng sức mạnh công lý để bảo vệ danh dự gia đình của tổ tiên Sicili. Báo thù. Vittoria thầm nhắc nhở bản thân, và lần đầu tiên trong đời, cô thật sự hiểu ý nghĩa của hai âm tiết ấy. Ý nghĩ về sự báo thù khiến cô gái trở nên mạnh mẽ hơn.
Vittoria đến bên ngôi mộ của Raphael Santi. Từ đằng xa đã thấy ngay đây là mộ phần của một nhân vật đặc biệt. Khác với những mộ phần khác, quan tài của ông được đặt thụt vào trong tường và có một tấm chắn Plexiglas bảo vệ đằng trước. Đứng bên ngoài lan can, Vittoria có thể trông thấy đòng chữ ở mặt trước của chiếc quan tài đá. Cô xem xét mộ phần, rồi đọc những dòng chữ khắc trên một tấm biển cạnh quan tài của Raphael.
RAPHAEL SANTI, 1483-1520.
Vittoria đọc lại lần nữa.
Rồi lại đọc lại.
Một tích tắc sau, Vittoria lao vụt đi như tên bắn.
- Robert! Robert!
