Thiên Thần Và Ác Quỷ: SỐ 12

http://truyenhiepsi.blogspot.com

Tác giả: Dan Brown


--52--

Cách sắp xếp bên trong vòm kính số 10 không giống như Langdon nghĩ, và cũng chẳng thấy cuốn Diagramma ở chỗ những cuốn sách cùng loại của Galileo. Không thể truy cập vào chương trình Biblion và danh mục tra cứu, Vittoria và Langdon lúc này đang lâm vào thế bế tắc.

Có chắc là Diagramma ở trong thư viện này không? - Vittoria hỏi.

Chắc mà. Tên cuốn sách còn có cả trong danh mục Uficcio delta Propaganda delle Fede(1)

- Được rồi. Chỉ cần anh khẳng định chắc chắn. - Vittoria tìm bên phải, Langdon tìm bên trái.

Langdon bắt đầu tìm theo cách thủ công. Anh phải cố nén lòng để không dừng lại và đọc tất cả những báu vật đang hiện ra trước mắt. Quả là một bộ sưu tập quý giá. Nhà phân tích… Người đưa tin Những bức thư… Bức thư của nữ công tước Christina… Lời xin lỗi gửi Galileo.

Cuối cùng thì chính Vittoria lại là người tìm thấy vật báu ở gần cuối vòm. Cô kêu to:

- Diagramma della Verita! (2)

Từ đầu kia của vòm kính Langdon chạy ngay lại:

- Đâu?

Vittoria đưa tay chỉ, và ngay lập tức Langdon hiểu vì sao trước đó họ không tên thấy cuốn sách. Bản thảo này được đựng trong một cái hộp chứ không nằm trên kệ. Những tài liệu không được đóng thành quyển vẫn thường được cất giữ trong hộp. Không còn chút nghi ngờ nào về tài liệu bên trong hộp nữa, bên ngoài hộp in dán nhãn đàng hoàng:

DIAGRAMMA DELLA VERITA.

Galileo Galilei, 1639

Langdon quỳ xuống, tim đập thình thịch.

- Diagramma. - Anh tươi cười nhìn Vittoria - Cừ lắm. Nào, giúp tôi lôi cái hộp ra!

Vittoria cũng quỳ xuống cạnh Langdon, cả hai cùng lấy đà.

Chiếc khay kim loại đỡ cái hộp lập tức quay hướng về phía họ, nắp hộp lộ hẳn ra ngoài.

- Không có khoá sao? - Vittoria ngạc nhiên trước cái chết được thiết kế quá đơn giản.

- Không bao giờ. Đôi khi cần phải sơ tán tài liệu một cách nhanh chóng. Do lụt lội hoặc hoả hoạn.

- Thế thì mở ra thôi.

Langdon không đợi phải giục đến lần thứ hai. Một phần vì giấc mơ khoa học bao lâu nay đang ở ngay trước mắt, phần vì không khí trong vòm rất loãng, anh không còn lòng dạ nào mà chần chừ. Langdon tháo chốt và nhấc nắp hộp ra. Có một cái túi nhỏ màu đen bằng vải thô nằm dưới đáy hộp. Độ thoáng khí của loại vải này là vô cùng quan trọng trong việc bảo quản cuốn sách. Dùng cả hai tay, Langdon nhẹ nhàng nâng cái túi vải lên theo đúng phương ngang, rồi nhấc ra khỏi hộp.

- Cứ tưởng phải tìm được cả một hòm châu báu, hoá ra lại được một vật giống như cái vỏ gối bé tí hin thế này. - Vittoria nói.

- Theo tôi!

Langdon bảo cô gái. Hai tay nâng cái túi vải như thể trong đó là một lễ vật hiến tế linh thiêng nào đó. Langdon bước lại bên bàn kiểm tra bằng kính trong vòm. Chiếc bàn được để chính giữa vòm chủ yếu là để hạn chế việc di chuyển tài liệu lưu trữ, tuy nhiên hầu hết các học giả đều yêu thích vị trí kín đáo giữa các kệ sách này. Những phát kiến làm nên sự nghiệp đều được thực hiện tại những vòm kính lưu trữ hàng đầu thế giới kiểu này, và trong khi làm việc, không một học giả nào muốn để cho đối thủ nhòm qua kính và biết chính xác họ đang làm gì.

Langdon đặt cái túi lên bàn và mở cúc cài. Vittoria đứng sát cạnh anh. Lục thùng dụng cụ ngay cạnh bàn, Langdon lấy ra một cái kẹp mà cánh nhân viên lưu trữ vẫn gọi đùa là chũm choẹ con một loại nhíp kẹp lớn có gắn những miếng kim loại mỏng hình tròn ở đầu hai tay kẹp. Vừa cảm thấy vô cùng phấn khích,

Langdon vừa lo sợ, biết đâu đây chỉ là một giấc mơ và khi bất thình lình tỉnh dậy tại Cambridge, anh lập tức trông thấy một đống bài vở của sinh viên cần phải chấm ngay. Hít một hơi thật sâu Langdon mở túi. Tay run run, anh lùa kẹp vào trong túi.

- Bình tĩnh nào. - Vittoria lên tiếng. - Giấy thôi, không phải bạch kim đâu.

Langdon đưa kẹp vào cạnh xấp giấy, thận trọng dùng lực kẹp lại Sau đó, thay vì rút tập tài liệu ra, anh giữ yên nó tại chỗ rồi từ từ gỡ chiếc túi vải - một thủ tục bắt buộc đối với các nhân viên lưu trữ để giảm tối đa lực ma sát tác động lên tài liệu. Rút túi vải ra, bật đèn bàn lên xong, Langdon mới thôi không nín thở nữa.

Luồng sáng từ chiếc đèn bàn dưới tấm kính hắt ngược lên, khiến cho Vittoria trông hao hao giống bóng ma.

- Giấy cỡ nhỏ. - Cô gái nhận xét, giọng đầy thành kính.

Langdon gật đầu. Xấp giấy trước mặt họ trông rất giống một cuốn tiểu thuyết bìa mềm đã bị long gáy. Có thể thấy rằng trang giấy được trang trí cầu kỳ trên cùng chính là bìa tác phầm, có tiêu đề ngày hoàn thành, và tên tác giả do chính tay Galileo tự viết.

Trong khoảnh khắc này, Langdon hoàn toàn không còn nhớ đến khu chung cư chật chội của anh, sự mệt mỏi của bản thân, cũng như lình huống cấp bách và ngặt nghèo đã khiến anh có mặt ở nơi này. Langdon ngẩn ngơ ngắm nhìn cuốn sách. Trong những khoảnh khắc được chạm tay vào lịch sử như thế này,

Langdon thường mụ mị đi vì một niềm thành kính đến tột cùng… giống như khi được ngắm nhìn những nét vẽ tài hoa trên khuôn mặt của nàng Mona Lisa.

Xấp giấy nến màu vàng câm lặng trước mặt Langdon lúc này đúng là bản thảo viết tay của tác giả và đúng với niên đại giả định của nó. Nếu không kể đến độ bạc màu không thể tránh khỏi, cuốn sách rõ ràng đã được bảo quản một cách hoàn hảo. Có những vết rạn màu không đáng kể, độ mịn của giấy nến cũng không còn được hoàn hảo lắm. Nhưng nhìn một cách tổng quan thì quả là được bảo quản rất tốt. Langdon quan sát kỹ đường viền trang trí bằng tay quanh trang bìa, mắt anh bắt đầu mờ đi do độ ẩm quá thấp. Vittoria không thốt nên lời.

- Đưa cho tôi con dao nhỏ nào. - Langdon chỉ cho Vittoria cái khay đựng đầy những dụng cụ dùng cho công tác lưu trữ làm bằng thép không rỉ. Vittoria lấy con dao cho anh. Langdon đưa tay đón lấy. Con dao thuộc loại tốt. Langdon dùng tay kiểm tra bề mặt của dao để đảm bảo rằng không có dị vật cứng nào mắc ở đó. Rất thận trọng, anh lách lưỡi dao dưới vỏ hộp rồi nậy nhẹ, chiếc nắp bật tung.

Trang đầu tiên đầy những dòng chữ bay bướm cầu kỳ đến mức gần như không thể đọc nổi. Langdon nhận thấy ngay lập tức không có sơ đồ hay con số nào hết. Đây là một bài luận.

- Thuyết nhật tâm. - Vittoria dịch tiêu đề trên tờ giấy đôi. Cô nhìn lướt khắp trang giấy. - Hình như Galileo muốn phàn đối bằng được thuyết địa tâm. Tiếng Ý cổ, cho nên tôi không thể dịch được.

- Quên chuyện đó đi, chúng ta đang tìm kiếm toán học. Langdon đáp. - Ngôn ngữ thuần khiết.

Anh lại dùng con dao giở sang trang tiếp theo. Một bài luận nữa. Không thấy toán học và sơ đồ Bàn tay đeo găng của Langdon bắt đầu nhơm nhớp mồ hôi.

- Chuyển động của các hành tinh. - Vittoria lại tiếp tục dịch tiêu đề bài luận.

Langdon nhíu mày. Giờ mà là một thời điểm nào khác thì Langdon đã say sưa dọc kỹ bài này; không thể tin được là mô hình chuyển động của các hành tinh mà NASA đang sử dụng, kết quả của quá trình quan sát bằng các loại kính thiên văn hiện đại nhất, lại giống y xì những phán đoán ban đầu của Galileo.

- Không có toán học. - Vittoria nói - Bài này nói về chuyển động lùi và quỹ đạo hình e-líp hay cái gì đó tương tự.

Quỹ đạo e-líp. Langdon nghĩ đến vô số những rắc rối mà Galileo đã phải đương đầu khi ông miêu tả rằng các hành tinh chuyển động theo quỹ đạo hình e-líp. Vatican ưa thích sự hoàn hảo của quỹ đạo hình tròn và khăng khăng cho rằng quỹ đạo di chuyển chuẩn xác phải là hình tròn. Trái lại, hội Illuminati của Galileo lại cho rằng hình e-líp cũng rất hoàn hảo, và tôn sùng đặc điểm đối ngẫu và nhị tâm của nó. Đến tận thời hiện đại, hình e- líp vẫn còn rất phố biến trong các phù điêu và biểu tượng của hội Tam Điểm.

- Trang tiếp đi. - Vittoria nói.

Langdon lật trang giấy.

- Chu kỳ của mặt trăng và thuỷ triều. - Vittoria nói - Không có chữ số không thấy sơ đồ.

Langdon lại giở tiếp. Không thấy gì. Anh tiếp tục lật thêm hơn chục trang nữa. Không thấy gì. Không thấy gì. Không thấy gì.

- Tôì cứ tưởng ông ấy là nhà toán học chứ. - Vittoria nói - Ở đây thấy toàn chữ là chữ.

Langdon thấy không khỉ bắt đầu loãng dần. Hi vọng cũng đang tiêu tan dần. Xấp giấy thì đang mỏng dần đi.

- Trang này không có gì. - Vittoria nói - Không toán học. Có mấy ngày tháng, vài chữ số, nhưng không thấy gì có hơi hướng đóng vai trò đầu mối cả.

Langdon lật nốt trang giấy cuối cùng và thở dài. Cũng vẫn chỉ là một bài luận.

- Cuốn sách mỏng thật. - Vittoria nhíu mày.

Langdon gật đầu.

- Merdra. - Dân thành Rome vẫn thường nói thế.

Chết tiệt, Langdon rủa thầm. Hình của anh phản chiếu trong lớp kính trông đầy mai mỉa, chẳng khác gì hình ảnh phản chiếu sáng nay nhìn anh từ bên ngoài cửa sổ máy bay. Con ma già khú đế.

- Chắc chắn phải có cái gì chứ. - Langdon lên tiếng, chính anh cũng bị giật mình vì giọng nói khàn đặc của bản thân. - Segno chỉ ở quanh đâu đây thôi. Tôi biết mà.

- Hay suy đoán của anh về DIII không chính xác?

Langdon quay lại, chằm chằm nhìn cô gái.

- Thôi được - Vittoria nhượng bộ. - Suy luận đó rất lôgíc. Hay đầu mối không phải dưới dạng toán học?

- Ngôn ngữ thuần khiết. Còn là cái gì khác được đây?

- Nghệ thuật thì sao?

- Cả cuốn sách không có sơ đồ hay tranh minh hoạ nào.

- Tôi chỉ biết là ngôn ngữ thuần khiết tức là không phải tiếng Ý.

- Lôgíc nhất vẫn là toán học.

- Tôi cũng thấy thế.

Langdon không thể chấp nhận thất bại nhanh chóng đến vậy.

- Chắc các con số được viết bằng chữ. Toán học được diễn tả bằng lời thay vì bằng các phương trình.

- Tôi sẽ dành thời gian đọc tất cả các trang vậy.

- Chúng ta làm gì có thời gian. Phải chia đôi việc ra. - Langdon lật xấp giấy lại trang đầu. - Tôi biết chút ít tiếng Ý nên đọc được các con số. - Anh dùng dao gạt xấp giấy ra làm hai, kiểu như những người chơi bạc chia đôi xấp bài, rồi đặt gần chục trang trước mặt Vittoria. - Chắc chắn ở trong này. Tôi biết mà.

Vittoria cúi xuống và dùng tay lật trang giấy đầu tiên.

- Dùng dao! - Langdon nói ngay: Anh lấy một con dao nữa trong khay và đưa cho cô gái. - Phải dùng dao!

- Tôi đeo găng rồi còn gì. - Vittoria làu bàu. - Làm sao mà hỏng được cơ chứ!

- Thì cô cứ dùng dao đi.

Vittoria cầm lấy con dao.

- Anh có đang cảm thấy giống tôi không?

- Căng thẳng á?

- Không. Thiếu không khí.

Rõ ràng là Langdon cũng đã bắt đầu cảm nhận thấy điều đó.

Không khí hết nhanh hơn anh tưởng. Họ phải khẩn trương lên.

Những vấn đề hóc búa thuộc lĩnh vực lưu trữ kiểu này không có gì xa lạ đối với anh, nhưng vẫn cần phải có thời gian. Không nói thêm một lời, Langdon cúi xuống dịch trang giấy đầu tiên.

Hiện ra đi quỷ tặc, hiện ra đi nào.

Chú thích

(1) Uficcio delta Propaganda delle Fede: Văn phòng quảng cáo.

(2) Diagramma della Verita: Biểu đồ chân lý


--53--

Ở một địa điểm trong thành Rome, có một bóng đen lảng vảng quanh một con dốc lát đá dẫn xuống ga tàu điện ngầm. Lối đi cổ được thắp sáng bằng đuốc, khiến cho bầu không khí càng nóng nực và ngột ngạt. Từ trên đỉnh dốc vang lên tiếng nói hoảng hốt của những người đã có tuổi, vang vọng trong không gian chật hẹp tù túng.

Vào đến trong ngách nhỏ, hắn nhìn thấy họ vẫn y nguyên như lúc hắn bỏ họ lại đó - bốn ông già trong trạng thái khiếp đảm, bị giam phía sau những song sắt rỉ ngoét của một căn phòng nhỏ.

- Ngươi là ai? - Một người hỏi bằng tiếng Pháp. - Ngươi muốn gì ở chúng ta?

- Này! - Một người khác nói tiếng Đức. - Thả chúng ta ra!

- Ngươi có biết chúng ta là ai không? - Một người nữa hỏi bằng tiếng Anh, chất giọng Tây Ban Nha.

- Tất cả im mồm! - Hắn ra lệnh, giọng rít lên đầy đã tâm.

Một trong bốn ông già ấy, ông già người Ý nhìn sâu vào khoảng trống đen ngòm trong mắt hắn và quả quyết rằng vừa trông thấy địa ngục. Chúa hãy cứu giúp chúng con, ông cầu nguyện.

Tên sát thủ xem đồng hồ một lần nữa và quay lại nhìn những nạn nhân của hắn.

- Đến lúc rồi. - Hắn tuyên bố. - Lão nào đầu tiên đây?


--54--

Trong vòm lưu trữ số 10, Robert Langdon đang săm soi từng chữ trên trang giấy trước mật, miệng lẩm nhẩm các số đếm bằng tiếng Ý. Ngàn… trăm… một hai, ba… năm mươi.. Anh cần những gì liên quan đến các con số. Bất kì thứ gì!

Dò đến hết trang, anh dùng con dao lật trang giấy qua một bên.

Trong khi gài sẵn lưỡi dao vào trang giấy tiếp theo, Langdon luống cuống, không cầm vững nổi con đao nữa. Mấy phút sau, anh cúi xuống và thấy con dao trong tay đã bị quẳng sang một bên từ lúc nào, anh đang dùng tay để lật các trang giấy. Ôi! Langdon kêu thầm, cảm thấy mình thật không phải phép chút nào. Khả năng kiểm soát bản thân của anh đang giảm đi nhanh chóng do thiếu ôxi. Sau khi chết chắc mình sẽ bị thiêu trong hoả ngục dành riêng cho các nhân viên lưu trữ mật thôi.

- Thế có phải tiện hơn hẳn không. - Vittoria thốt lên khi thấy Langdon dùng tay để lật tài liệu. Cô cũng quẳng con dao sang một bên và làm hệt như vậy.

- Thấy gì không?

Vittoria lắc đầu:

- Chẳng có dấu vết nào của toán học cả. Tôi đang đọc lướt đây… nhưng chẳng tìm thấy gì giống đầu mối cả.

Langdon tiếp tục đọc xấp tài liệu, cảm thấy mỗi lúc một khó khăn hơn. Khả năng đọc tiếng Ý của anh vốn đã kém, lại thêm chữ viết nhỏ, ngôn ngữ cổ nên rất chậm. Vittoria đọc xong trước, đang lật trang cuối cùng với vẻ thất vọng. Rồi đột nhiên lại đặt tờ giấy xuống để xem xét một cách kỹ lưỡng. Xem xong trang cuối cùng, Langdon vừa rủa thầm trong bụng vừa ngước mắt lên nhìn Vittoria. Cô gái đang nheo mắt, chăm chú nhìn vào một điểm trên trang giấy.

- Gì thế? - Anh hỏi.

Vittoria không ngẩng lên:

- Các trang của anh có chú thích ở dưới không?

- Không thấy có. Sao?

- Trang này có chú thích. Rất mờ, lại đúng vào chỗ giấy nhàu.

Langdon nhìn sang xem cô gái thấy cái gì, nhưng chỉ thấy mỗi số trang ghi ở góc trên bên phải của tờ giấy. Trang 5. Phải sau giây lát anh mới nhận ra sự trùng lặp ngẫu nhiên của con số 5.

Trang số 5. Năm, môn đồ của thuyên Pitago, sao năm cánh, hội Illuminati. Langdon băn khoăn không hiểu có phải hội Illuminati đã chọn đúng trang 5 để gài đầu mối vào hay không. Trong ánh sáng màu đỏ sẫm mờ mờ ảo ảo đang phủ trùm lên cả hai người,

Langdon chợt thấy lóe lên một tia hi vọng mong manh.

- Chú thích đó có phải toán học không?

Vittoria lắc đầu:

- Chữ viết. Chỉ có một dòng. Khổ chữ nhỏ vô cùng. Gần như không đọc nổi.

Hi vọng tiêu tan.

- Đáng ra phải là toán học chứ. Ngôn ngữ thuần khiết cơ mà.

- Đúng thế, tôi cũng biết thế. - Cô gái lưỡng lự - Nhưng mà rất có thể anh muốn nghe nội dung chú thích này đấy.

Vittoria có vẻ khá hào hứng.

- Đọc đi!

Dí sát mặt vào tờ giấy, Vittoria đọc lo:

- Con đường ánh sáng, thử thách linh thiêng.

- Con đường ánh sáng à? - Langdon thấy các cơ bắp căng lên. - Lại xem nào?

- Con đường ánh sáng, thử thách linh thiêng.

Nghe xong, Langdon lại thấy tràn trề hi vọng. Con đường ánh sáng, thử thách linh thiêng. Chưa thể biết ngay dòng chữ này sẽ giúp gì cho họ, nhưng rõ ràng là nó đề cập trực tiếp đến Con đường ánh sáng. Con đường ánh sáng. Thử thách linh thiêng. Đầu óc anh như một cỗ máy phải hoạt động hết tốc lực nhưng lại không được cấp đủ năng lượng.

- Dịch chính xác chưa đấy?

Vittoria chần chừ:

- Thật ra thì… - Cô gái ngước lên nhìn anh,

Ánh mắt là lạ:

- Thực ra thì tôi không hề dịch. Dòng này viết bằng tiếng Anh.

Trong thoáng chốc, Langdon tưởng vòm kính quá kín đã ảnh hưởng đến thính lực của mình.

- Tiếng Anh à?

Vittoria đẩy tờ giấy tới trước mặt anh, Langdon đọc dòng chữ nhỏ xíu ở lề dưới.

Con đường ánh sáng thử thách linh thiêng.

- Tiếng Anh à? Tiếng Anh đóng vai trò gì trong một cuốn sách viết bằng tiếng Ý nhỉ?

Vittoria nhún vai. Có vẻ như cả cô gái cũng đang cảm thấy choáng váng.

- Hay chính tiếng Anh là cái mà họ cho là ngôn ngữ thuần khiết? Nó là ngôn ngữ quốc tế của khoa học mà. Ở CERN chúng tôi chỉ sử dụng mỗi thứ tiếng này thôi.

- Nhưng đây là từ thế kỷ 17 cơ mà. - Langdon phản bác. - ở Ý hồi đó làm gì có ai nói tiếng Anh, thậm chí cả… -. Chợt nhận ra điều mình sắp nói, anh ngừng lời. - Thậm chí cả…giới tăng lữ nữa.

Trí não Langdon căng ra như sợi dây đàn, và những lời nói của anh mỗi lúc một gấp gấp hơn.

- Vào thế kỷ 17, tiếng Anh chính là ngôn ngữ mà Vatican chưa để mắt tới. Họ giao tiếp với nhau bằng tiếng Ý, tiếng La-tinh, tiếng Đức, thậm chí cả tiếng Pháp và tiếng Tây Ban Nha, nhưng trong toà thánh không một ai biết tiếng Anh. Họ coi đó là thứ ngôn ngữ uế tạp nên chỉ phù hợp với những kẻ phàm phu tục tử như Chaucer và Shakespeare.

Langdon chợt nghĩ tới bốn phân nhóm của hội Illuminati: Đất, Nước, Khí và Lửa. Truyền thuyết về những cái tên bằng tiếng Anh của các nhóm này bất giác trở nên sáng rõ lạ kỳ. Anh cho rằng tiếng Anh được Galileo coi là ngôn ngữ thuần khiết là vì Vatican không sử dụng ngôn ngữ này à?

- Đúng thế. Hoặc là bằng cách dùng tiếng Anh để chỉ đầu mối, Galileo muốn bịt mắt Vatican một cách kín đáo.

- Nhưng có thấy đầu mối nào đâu. - Vittoria không đồng tình. - Con đường ánh sáng, thử thách linh thiêng. Câu này có ý nghĩa quái quỷ gì vậy?

Đúng thế thật, Langdon ngẫm nghĩ. Dù sao thì dòng chữ này cũng chẳng mang lại lợi ích gì. Nhưng rồi anh chợt nhận ra một chi tiết kỳ lạ khi lặp đi lặp lại những từ ngữ ấy trong đầu. Lạ thật, Langdon nghĩ. Nếu thế thật thì sao đây?

- Phải ra khỏi đây ngay. - Vittoria nói, giọng hổn hển.

Langdon chẳng nghe thấy gì. Con đường ánh sáng, thử thách linh thiêng.

- Đây là một dòng thơ ngũ âm viết theo nhịp Iambic(1). Bất thình lình anh nói lớn. - Năm cặp gồm những âm có trọng âm và không có trọng âm.

Vittoria không hiểu:

- Iambic là thế nào?

Trong thoáng chốc, tâm trí Langdon chợt trở về với những buổi sáng chủ nhật ngồi trong lớp học Anh ngữ tại Học viện Phillips Exeter. Địa ngục trần gian. Hôm đó ngôi sao bóng rổ của trường Peter Greer không thể nào nhớ được những cặp âm cần thiết trong một dòng thơ viết theo thể Iambic của Shakespeare.

Thầy Bissel, một giáo viên rất nhiệt tình và sôi nổi, đã nhảy lên bàn và gào to lên:

- Greer, năm âm tiết! Hãy nghĩ đến những cái đĩa trong chạn bát nhà em mà xem! Lầu Năm góc! Năm cạnh! Năm! Năm! Năm! Thế!

Năm cặp âm, Langdon nhớ lại. Theo định nghĩa thì mỗi cặp có hai âm tiết. Không ngờ sự nghiệp của anh lại dựa trên những liên tưởng kỳ lạ đến vậy. Iambic là một thể thơ rất cân đối dựa trên hai con số thiêng của hội Illuminati: số 5 và số 2!

Tìm thấy rồi! Langdon muốn gạt ý nghĩ ấy ra khỏi tâm trí. Chỉ là sự trùng lặp ngẫu nhiên thôi mà! Nhưng nó vẫn cứ bám lấy anh. Năm… liên quan đến Pitago và ngôi sao năm cánh. Hai… chỉ sự tồn tại song song của mọi hiện tượng.

Trong thoáng chốc, một ý nghĩ nữa khiến Langdon sững sờ.

Thể thơ Iambic, do sự đơn giản của nó, vẫn được mệnh danh là thể thơ thuần khiết. Ngôn ngữ thuần khiết? Không lẽ đây chính là ngôn ngữ thuần khiết mà hội Illuminati vẫn nhắc đến? Con đường ánh sáng, thử thách linh thiêng…

- Chà chà. - Vittoria thét lên.

Langdon quay lại và thấy cô gái đang xoay ngược tờ giấy.

Langdon chột dạ. Lại nữa à?

- Câu thơ này không thể là biểu tượng đối xứng hai chiếu được đâu!

- Không, không phải biểu tượng đối xứng hai chiều… nhưng mà… - Cô gái tiếp tục xoay xoay tờ giấy theo những góc vuông.

- Cái gì thế!

Vittoria ngẩng lên:

- Đó không phải là dòng thơ duy nhất.

- Còn dòng nữa à?

Mỗi lề có một dòng. Trên, dưới, phải, trái. Có vẻ là một bài thơ.

- Bốn dòng à? - Langdon xúc động đến nỗi nổi cả gai ốc. Galileo là nhà thơ ư? - Để tôi xem nào.

Vittoria không chịu rời tờ giấy. Cô vẫn tiếp tục xoay tờ giấy theo những góc 90 độ.

- Ban nãy tôi không nhìn thấy là vì chúng được in ở ngoài lề. - Cô gái dí sát mặt xuống tờ giấy - Chà, anh biết không, Galileo không tự viết những vần thơ này đâu.

- Cái gì?

- Thấy có chữ ký của John Milton.

- John Milton à?

Nhà thơ nổi tiếng người Anh, người đã viết tuyệt tác Thiên đường đã mất là người cùng thời với Galileo, và là người đầu tiên trong danh sách những người bị tình nghi có dính líu đến Illuminati. Từ lâu Langdon đã cho rằng những giai thoại về mối liên hệ giữa Milton và hội Illuminati của Galileo là đúng.

Milton không những đã hành hương đến Rome năm 1638 để "tiếp kiến những người khai sáng", một chuyến đi được rất nhiều người biết tới mà ông còn có những buổi gặp gỡ với Galileo trong suốt thời gian nhà khoa học vĩ đại này bị giam lỏng tại gia. Những cuộc gặp này đã được ghi lại trong các bức hoạ Phục Hưng, đặc biệt là bức Galileo và Milton của Annibale Gatti hiện vẫn được trưng bày tại bảo tàng IMSS ở Florence.

- Milton có biết Galileo, phải thế không? - cuối cùng thì Vittoria cũng chịu đưa cho Langdon tờ giấy. - Biết đâu vì lòng ái mộ mà ông ấy đã viết tặng Galileo bài thơ này.

Môi bặm lại, Langdon đón lấy tờ giấy. Đặt trang giấy phầng phiu trên mặt đất, anh bắt đầu đọc dòng thơ ở lề trên. Rồi quay tờ giấy 90 độ, anh đọc hàng chữ in dọc theo lề phải. Xoay một lần nữa, anh đọc hàng chữ ở lề dưới, và cuối cùng là lề trái. Tất cả có bốn dòng. Dòng đầu tiên Vittoria phát hiện được thực ra là dòng thứ ba của bài thơ. Kinh ngạc đến sững sờ, anh đọc đi đọc lại bốn dòng chữ, xoay theo chiều kim đồng hồ: trên, phải, dưới, trái. Đọc xong, Langdon thở phào. Không còn nghi ngờ gì nữa.

- Cô đã tìm ra, thưa cô Vetra.

Cô gái khẽ cười:

- Bây giờ chúng ta ra ngoài được chưa?

- Tôi phải chép lại những dòng này cái đã. Cần phải tìm một cái bút chì và một tờ giấy.

Vittoria lắc đầu:

- Quên ý nghĩ đó đi thôi, thưa giáo sư. Làm gì có thời gian mà chép. Chuột Mickey đang kêu tích tắc kia kìa. - Cô gái giằng lấy tờ giấy trên tay Langdon và lao ra ngoài.

Langdon đứng phắt dậy:

- Không được mang tờ giấy ra ngoài! Làm thế thì…

Nhưng Vittoria đã ra khỏi vòm kính.

Chú thích

(1) Iambic: Một kiểu nhịp điệu trong văn vắn tiếng Anh gồm có sự xen kẽ giữa những âm tiết có trọng âm và không có trọng âm trong một dòng thơ.

--55--

Langdon và Vittoria chạy như bay ra khoảng sân trước cửa Nhà mái vòm bí mật. Không khí trong lành ùa mạnh vào hai lá phổi Langdon. Cảm giác hoa mắt nhanh chóng biến mất. Tuy nhiên, cảm giác tội lỗi thì không. Anh vừa đồng loã với hành động lấy cắp một thứ tài sản vô giá vốn được bảo vệ trong những vòm kính tốt nhất trên thế giới. Giáo chủ Thị thần vừa mới nói ban nãy, ta hoàn toàn tin tưởng ở con.

- Nhanh chân lên. - Vittoria vừa nói vừa đi như chạy qua Via Borgia để về văn phòng của Tổng Tư lệnh Olivetti, tay vẫn cầm tờ giấy.

- Nếu không khí ẩm bám vào tờ giấy nến đó thì…

- Bình tĩnh nào. Khi nào giải mã xong, chúng ta sẽ trả tờ giấy thiêng số 5 này về vòm kính ngay lập tức.

Langdon sải bước thật nhanh để theo cho kịp. Vượt qua cảm giác tội lỗi, anh vẫn thấy vô cùng kinh ngạc về những thông tin vừa có được. Hoá ra John Milton là thành viên của hội Illuminati. Chính ông ấy đã sáng tác bài thơ trong trang sách thiêng số 5 của Galileo mà Vatican không hề hay biết.

Đi hết khoảng sân rộng, Vittoria đưa cho Langdon tờ giấy.

- Có chắc là anh sẽ giải mã được bài thơ này không? Hay chúng ta vừa mất toi mấy nơ-ron thần kinh trong cái vòm kính ấy rồi?

Langdon cẩn thận đón lấy tờ giấy rồi nhanh chóng đút vào túi áo khoác rộng nhất của mình, để tránh ánh mặt trời và hơi ẩm.

- Tôi giải mã xong rồi.

Vittoria dừng phắt lại:

- Anh làm sao?

Langdon vẫn đi tiếp. Vittoria hối hả bước theo:

- Anh mới đọc có một lần mà! Tôi tưởng giải mã phải kỳ công lắm chứ!

Langdon biết cô gái nói không sai, nhưng chỉ đọc một lần duy nhất là anh đã giải mã segno được ngay. Một khổ thơ viết theo nhịp Iambic vô cùng hoàn hảo, và bàn thờ đầu tiên của khoa học đã hiện ra rõ mồn một. Thật lòng mà nói thì thành công quá dễ dàng này khiến Langdon cảm thấy hơi bất ổn. Từ bé anh đã được giáo dục đức tính chăm chỉ lao động của người Thanh giáo.

Trong tâm trí anh vẫn còn vang lên câu cách ngôn vùng New England mà cha anh rất hay đọc: Không khó khăn gian khổ mà vẫn đạt được tức là đã sai đường. Hi vọng câu nói này không phải lúc nào cũng đúng.

- Tôi đã giải mã xong. - Anh vừa nói vừa rảo bước. - Tôi biết vụ hành quyết đầu tiên sẽ diễn ra ở đâu. Chúng ta phải cảnh báo cho Olivetti ngay lập tức.

Vittoria gạn hỏi:

- Làm thế nào mà anh biết ngay được thế? Cho tôi xem lại tờ giấy cái nào? - Cô gái nhanh nhẹn thò cánh tay mềm mại vào túi áo của Langdon rồi lôi tờ giấy ra ngoài.

- Cẩn thận! Đừng có… - Langdon phản ứng.

Vittoria mặc kệ. Tay mở rộng tờ giấy, cô nhẹ nhàng bước đi bên anh, cố tận dụng ánh sáng để xem cho kỹ. Cô gái bắt đầu ngâm nga đọc, Langdon giơ tay định lấy lại tờ giấy, nhưng lập tức bị cuốn hút bởi chất giọng trầm trầm êm ái đến không ngờ của Vittoria.

Trong thoáng chốc, những vần điệu nhịp nhàng như đưa Langdon ngược về quá khứ… tưởng chừng như mình trở thành người cùng thời với Galileo, và đang nghe bài thơ lần đầu trong đời. biết rằng đây là một bước kiểm tra, là sơ đố, là đầu mối dẫn đến những bàn thờ khoa học… bốn cột mốc đánh dấu con đường. bí mật xuyên qua thành Rome. Những vần thơ đang được ngân lên từ đôi môi của Vittoria:

Từ nấm mồ trần tục của Santi, lăng mộ hang quỷ

Nguyên tố huyền bí hiển nhiên khắp thành Rome

Con đường ánh sáng, thử thách linh thiêng

Thiên thần dẫn lối trên hành trình cao cả.

Vittoria đọc bài thơ hai lần, như thể muốn để cho những câu chữ kia tự ngân vang trong tĩnh lặng.

Từ nấm mồ trần tục của Santi, lăng mộ hang quỷ

Nguyên tố huyền bí hiển nhiên khắp thành Rome

Nguyên tố huyền bí. Rõ quá rồi. Đất, Khí, Lửa, Gió. Các thành tố của khoa học, bốn mốc chỉ đường của hội Illuminati được nguỵ trang thành những tượng đài tôn giáo.

- Mốc đầu tiên dường như là lăng mộ của Santi. - Vittoria nói.

Langdon mỉm cười:

- Tôi đã bảo là không đến nỗi quá khó mà lại!

- Santi là ai? - Vittoria hào hứng hỏi. - Và mộ của ông ấy nằm ở đâu?

Langdon cười một mình. Thật lạ, rất ít người biết đến Santi, họ của một trong những nghệ sĩ Phục Hưng nổi tiếng nhất. Tên riêng của ông thì cả thế giới đều biết đến… mới 25 tuổi, người nghệ sĩ có tài năng thiên bầm này đã được Giáo hoàng Julius đệ nhị tin cậy, và đến khi từ giã cõi đời ở tuổi 38, ông đã để lại cho hậu thế một di sản độc nhất vô nhị gồm những bức hoạ tuyệt tác trên tường. Santi là một vĩ nhân trong giới nghệ sĩ, và chỉ những nhân vật thật tầm cỡ mới được biết đến bằng tên riêng: Napoleon, Galileo, Jesus… và dĩ nhiên là những vị á thánh mà tên tuổi luôn được nhắc đến trong khuôn viên đại học Harvard như Sting, Madonna, Jewel, và cả một nghệ sĩ vốn tên là Prince, sau đổi thành XXX - biểu tượng mà Langdon đặt tên là "Hình chữ thập chìa khoá lưỡng tính".

Langdon nói:

- Santi là họ của nghệ sĩ Phục Hưng bậc thầy Raphael.

Vittoria có vẻ ngạc nhiên:

- Raphael à? Có thật là Raphael không?

- Không thể có người nào khác. - Langdon tiếp tục sải bước về phía văn phòng của đội lính gác Thuỵ Sĩ.

- Tức là con đường bắt đầu từ lăng mộ của Raphael à?

- Hoàn toàn hợp lý. - Langdon vẫn bước tiếp. - Hội Illuminati vẫn thường coi các hoạ sĩ và nghệ sĩ điêu khắc vĩ đại là những thành viên danh dự của phong trào Khai sáng. Rất có thể họ đã chọn lăng mộ của Raphael như một cách để tôn vinh người nghệ sĩ này.

Langdon còn biết rằng, cũng giống như nhiều nghệ sĩ bậc thầy khác, Raphael đã từng bị nghi ngờ có liên quan đến chủ nghĩa vô thần.

Vittoria cẩn thận trả tờ giấy vào trong túi áo khoác của Langdon.

- Raphael được chôn cất ở đâu?

Langdon hít một hơi thật sâu:

- Nghe có vẻ khó tin, nhưng ông ấy được an táng trong điện Pantheon.

Vittoria hoài nghi:

- Điện Pantheon à?

- Raphael được chôn cất lại điện Pantheon.

Quả thật Langdon hơi thất vọng, không ngờ điểm đầu tiên của con đường ánh sáng lại chính là điện Pantheon. Anh những tưởng bàn thờ số một của khoa học phải là một nơi nào đó yên tĩnh, khác hẳn các nhà thờ, nó phải là một nơi nào đó rất thanh tịnh. Ngay từ thế kỷ XVII, điện Pantheon được thiết kế với một mái vòm cực lớn có lỗ ở giữa, đã trở thành một trong những địa danh nổi tiếng nhất ở thành Rome.

- Mà Pantheon có phải là nhà thờ không nhỉ? - Vittoria thắc mắc.

- Nhà thờ Thiên Chúa cổ kính nhất ở Rome đấy.

Vittoria lắc đầu:

- Anh có thực sự tin rằng vị Hồng y Giáo chủ đầu tiên sẽ bị hành quyết ở điện Pantheon không? Đó đâu phải là một trong những điểm du lịch đông đúc nhất ở Rome.

Langdon nhún vai:

- Illuminati đã tuyên bố là họ muốn cả thế giới phải trông thấy. Hành quyết một vị Hồng y Giáo chủ ở Pantheon thì dĩ nhiên sẽ gây chú ý rồi.

- Nhưng làm gì có kẻ nào dám táo tợn giết người ở điện Pantheon rồi tẩu thoát trót lọt được cơ chứ? Không thể có chuyện đó.

- Không thể giống như việc bắt cóc bốn vị Hồng y Giáo chủ ngay tại Vatican chứ gì? Bài thơ này đã nêu chính xác địa điểm đó.

- Và anh tin chắc là Raphael được an táng tại Pantheon à?

- Tôi đã trông thấy mộ của ông ấy nhiều lần rồi.

Vittoria gật đầu, nhưng có vẻ vẫn chưa tin tưởng lắm:

- Mấy giờ rồi?

Langdon xem đồng hồ:

- 7 giờ 30 phút.

- Điện Pantheon có xa không?

- Khoảng độ một dặm. Còn kịp.

- Bài thơ nói đến nấm mồ trần tục của Santi. Anh nghĩ xem còn có ý nghĩa gì khác nữa không?

Langdon phăm phăm băng qua khoảng sân rộng của thánh đường Sentinel:

- Trần lục à? Thực ra thì khắp thành Rome chẳng có nơi nào trần tục hơn điện Pantheon. Cái tên của nó bắt nguồn từ tên của một giáo phái vốn vẫn tiến hành các nghi lễ của họ tại đó: Pantheism, họ thờ tất cả các thần, đặc biệt là Mẹ Đất.

Hồi còn học kiến trúc ở trường đại học, Langdon đã vô cùng kinh ngạc khi biết rằng kích thước của gian chính trong cung điện này liên quan đến nữ thần đất Gaia. Kích thước chính xác đến mức mái vòm hình cầu khống lồ vừa khít với cung điện, không lệch một li.

- Được rồi. - Vittoria nói, có vẻ đã bị thuyết phục. - Thế còn cái hang quỷ? Từ nấm mồ trần tục của Santi, lăng mộ hang quỷ?

Về điều này thì Langdon không được rõ lắm.

- Rất có thể hang quỷ chính là oculus, - anh phỏng đoán - Là cái giếng trời hình tròn nổi tiếng trên mái điện Pantheon.

Nhưng đấy là nhà thờ cơ mà. - Vittoria vừa nói vừa bước thoăn thoắt. - Sao họ lại gọi nó là hang quỷ?

Chính bản thân Langdon cũng đã đắn đo về chi tiết này. Anh chưa bao giờ nghe nói tới cái tên hang quỷ, nhưng đã từng đọc một bài luận viết từ thế kỷ thứ VI, nội dung của nó lúc này bỗng trở nên thích hợp kỳ lạ. Thiên tài Bede đã từng viết rằng cái lỗ tròn trên mái điện Pantheon là do một con quỷ đã đục ra để thoát khỏi toà nhà sau khi được đức thánh cha Baniface đệ tử phong thánh.

- Tại sao hội Illuminati lại dùng cái tên Santi trong khi hoạ sĩ này nổi tiếng khắp nơi với cái tên Raphael? - Vittoria hỏi khi hai người đi đến một khoảng sân nhỏ.

- Cô hỏi nhiều thật đấy.

- Cha tôi vẫn thường bảo thế.

- Có thể là vì hai lí do. Thứ nhất, Raphael có quá nhiều âm tiết, và không hợp với nhịp thơ Iambic.

- Có vẻ hơi suy diễn.

Langdon đồng ý:

- Thôi được, rất có thể dùng tên "Santi" là để cho đầu mối trở nên khó hiểu hơn, để đảm bảo rằng chỉ có người của phong trào Khai sáng mới hiểu được.

Cách giải thích này cũng không thuyết phục được Vittoria:

- Chắc chắn cả cái tên Santi cũng rất nổi tiếng khi Raphael còn sống.

- Không nổi tiếng mới hay chứ. Phải rất danh giá mới được gọi bằng tên riêng. Raphael không thích người ta nhắc đến họ của mình, giống hệt các ca sĩ nhạc pop thời nay. Như Madonna chẳng hạn, cô ta có bao giờ dùng cái họ Ciccone của mình đâu.

Vittoria có vẻ khoái trá:

- Hoá ra anh biết họ của Madonna.

Langdon hơi ngượng. Khi phải chung sống với 10. 000 đứa trẻ vị thành niên, đầu óc con người ta rất dễ trở thành một mớ hổ lốn.

Khi Langdon và Vittoria đang vượt qua cánh cổng cuối cùng để vào Văn phòng của đội lính gác Thuỵ Sĩ thì họ bất thần bị chặn lại.

- Fennatevi! (1) Tiếng hô dõng dạc vang lên ngay sau lưng họ.

Langdon và Vittoria quay lại, một khẩu súng trường đang chĩa thẳng vào cả hai.

- Attento(2)! - Vittoria vừa lùi lại vừa thét lên. - Cẩn thận…

- Non spostatevi(3) - Người lính gác ngắt lời, lách cách lên cò súng.

- Soldato(4)! - Từ bên kia khoảng sân có người lên tiếng. Olivetti xuất hiện trước cửa trung tâm an ninh. - Để họ vào!

Người lính gác có vẻ bối rối:

- Ma, Signore, è una donna…

- Cho vào! - Olivetti quát.

- Signore, non posso(5)…

- Ngay lập tức! Anh vừa được lệnh mới rồi đấy. Hai phút nữa đại tá Rocher sẽ thông báo tình hình với cả đội. Chúng ta phải tổ chức truy lùng.

Với vẻ bối rối, người lính gác sải bước vào trung tâm an ninh.

Olivetti từ từ tiến lại bên Langdon và Vittoria, vẻ rất nóng nảy:

- Vào tận Nhà mái vòm bí mật của chúng tôi cơ à? Tôi muốn có một lời giải thích.

- Chúng tôi có một tin tốt đây. - Langdon đáp.

Olivetti nhíu mày:

- Còn chưa biết có tốt thật hay không.

Chú thích

(1) Fennatevi: Đứng lại.

(2) Attento: Cấn thận.

(3) Non spostatevi: Đứng im.

(4) Soldato: Người lính.

(5) Signore, non posso: Thưa ngài, không thể…
XEM TIEP CHUONG http://truyenhiepsi.blogspot.com

Blog Truyện Hiệp Sĩ

truyenhiepsi

Truyện được sưu tầm chia sẻ trên các web miễn phí...

Tìm Kiếm Truyện

Theo dõi blog!

Nhận bài viết mới qua email. Chỉ cần nhập địa chỉ email của bạn dưới đây nếu bạn muốn đăng ký!