Tác giả: Dan Brown
--62--
Người hướng dẫn viên vẫn bám theo sát gót khiến Langdon phải hết sức vất vả mới kiểm tra hết được phần bên phải của cung điện. Anh đang chuẩn bị kiểm tra nốt hốc tường cuối cùng thì ông già lại bắt đầu thao thao bất tuyệt.
- Anh có vẻ thích mấy cái hốc tường này ghê nhỉ! - Ông ta nói đầy hào hứng. - Anh biết không, tường ở đây khá dày, cho nên mới không cần cột đỡ cái mái vòm trên kia đấy.
Langdon gật đầu, chẳng buồn nghe, và tiếp tục xem xét cái hốc tường tiếp theo. Đội nhiên có ai đó ở đằng sau túm chặt lấy anh. Đó là Vittoria. Thở không ra hơi, cô gái đang túm chặt lấy cánh tay Langdon. Ánh mắt hoảng sợ của Vittoria khiến cho anh không thể nghĩ đến bất kỳ tình huống nào khác. Đã tìm thấy thi thể của nạn nhân. Langdon chợt cảm thấy sợ hãi.
- A… vợ anh đây rồi! - Ông già hướng dẫn viên reo lên, sung sướng vì có thêm một vị khách nữa. Ông ta chỉ đôi giày đi bộ và chiếc quần soóc của Vittoria:
- Nhìn thì biết ngay cô là người Mỹ!
Vittoria nheo mắt:
- Tôi là người Ý.
Nụ cười của ông ta tắt ngấm:
- Thế à?
- Robert này, - Vittoria thì thào, cố quay lưng về phía ông già hướng dẫn viên. - Diagramma của Galileo đâu. Đưa tôi xem cái nào.
- Diagramma à? - Ông già hỏi, giọng lấy lòng. - Chà chà, hai vị chắc hẳn rất am hiểu lịch sử đây! Tiếc thay, không thể xem tài liệu đó được đâu. Nó được bí mật cất giữ trong Nhà mái vòm…
- Xin lỗi ông một chút. - Langdon nói, lúng túng trước sự sợ hãi của Vittoria. Kéo cô sang một bên, anh cẩn thận rút tờ giấy từ trong túi áo ra. - Chuyện gì thế?
- Ngày tháng ghi ở đây là bao giờ? - Vittoria vừa săm soi tờ giấy vừa hỏi.
Ông già hướng dẫn viên đã đứng ngay cạnh họ, mắt chăm chăm nhìn tờ giấy, miệng há hốc:
- Này, đây… không phải là…
- Bản sao dành cho khách du lịch thôi mà. - Langdon nói chặn trước. - Cảm ơn ông đã giúp đỡ, hai vợ chồng chúng tôi muốn nói chuyện riêng một lúc.
Ông già lùi lại một chút, mắt vẫn không rời tờ giấy.
- Ngày... tháng? - Vittoria nhắc lại. - Galileo xuất bản cuốn này bao giờ.
Langdon chỉ tay vào những chữ số La Mã ở cuối trang giấy:
Ngày xuất bản đây. Chuyện gì thế?
Vittoria đọc con số.
- 1639 à?
- Ừ. Sao thế?
Ánh mắt Vittoria đầy vẻ lo lắng:
- Lôi thôi rồi, Robert ạ. Tôi thôi to rồi. Ngày tháng không khớp nhau.
- Ngày tháng nào không khớp nhau?
Ngày trên mộ phần của Raphael. Mãi đến năm 1759 ông ấy mới được đưa về chôn cất ở đây. Một thế kỷ sau khi Diagramma được xuất bản.
Langdon trợn tròn mắt, không hiểu cô gái vừa nói gì.
- Không. Raphael mất năm 1520, trước Diagramma rất lâu đấy chứ.
- Đúng thế, nhưng mà mãi sau này ông ấy mới được đưa về an táng tại đây.
Langdon lại không hiểu gì.
- Cô vừa nói cái gì thế?
- Tôi vừa đọc thấy mà. Di hài của Raphael được chuyển về Pantheon năm 1758, trong một dự án tôn vinh các nhân vật kiệt xuất của nước Ý.
Hiểu ra những lời ấy, Langdon thấy đất dưới chân như sụp xuống.
- Khi bài thơ này được sáng tác thì phần mộ của Raphael được đặt ở một địa điểm khác. - Vittoria tuyên bố. - Vào thời đó, Pantheon chẳng liên quan gì đến Raphael cả!
Langdon như nghẹt thở.
- Nhưng điều đó… có nghĩa là…
- Đúng vậy! Có nghĩa là chúng ta đến nhầm địa điểm rồi!
Langdon thấy đầu óc quay cuồng. Không thể nào…rõ ràng là…
Vittoria chạy lại và túm tay ông già hướng dẫn viên, kéo lại:
- Thưa ông, xin hãy cho chúng tôi biết, vào thế kỷ 17 thì mộ phần của Raphael được đặt ở đâu?
- Ở Urb… Urbrino, - Ông ta lắp bắp vẻ bối rối. - Ở quê hương của ông ấy.
- Không thể nào! - Langdon lầm bầm nói một mình. - Bàn thờ khoa học của hội Illuminati ở Rome, chắc chắn là thế!
- Illuminati à? - Ông già há hốc miệng lại một lần nữa đưa mắt nhìn tờ giấy Langdon đang cầm trên tay. - Các vị là ai thế?
Vittoria lại hỏi tiếp:
- Chúng tôi đang tìm một địa danh được gọi là lăng mộ trần tục của Santi. Ở Rome. Ông có biết nó ở đâu không?
Ông ta có vẻ băn khoăn:
- Đây chính là lăng mộ duy nhất của Raphael ở Rome.
Langdon cố tập trung suy nghĩ, nhưng đầu óc cứ đờ ra. Nếu vào năm 1655, mộ phần của Raphael không được đặt tại Rome thì bài thơ nói đến nơi nào nhỉ? Từ nấm mồ trần tục của Santi, lăng mộ hang quỷ? Nghĩa là sao nhỉ? Nghĩ đi nào!
- Thế có nghệ sĩ nào khác tên là Santi không? - Vittoria hỏi.
Ông hướng dẫn viên nhún vai:
- Theo tôi biết thì không có.
- Thế có bất kỳ ai nổi tiếng có tên như thế không? Ví dụ một nhà thơ, nhà thiên văn học, hay nhà khoa học nào đó tên là Santi, có không?
Lúc này thì hình như ông già hướng dẫn viên lại muốn bỏ đi.
- Không có đâu cô ạ. Santi duy nhất mà tôi biết chính là kiến trúc sư Raphael.
- Kiến trúc sư à? - Vittoria hỏi vặn. - Tôi tưởng ông ấy là hoạ sĩ chứ!
- Ông ấy là cả hai chứ. Tất cả họ đều thế cả, Michelangelo, Da Vinci, Raphael.
Không hiểu là nhờ có những lời nói của ông già, hay vì những mộ phần trang trí cầu kỳ xung quanh khiến cho Langdon nghĩ ra, nhưng điều đó không quan trọng, anh bỗng nảy ra ý ấy. Santi là kiến trúc sư. Từ ý tưởng, những ý nghĩ khác lần lượt hiện ra như trong một thế cờ đô-mi-nô. Các kiến trúc sư thời Phục Hưng sống chỉ để làm hai việc: tôn vinh chúa trong các nhà thờ lớn, và tôn vinh những nhân vật đức cao vọng trọng bằng những mộ phần lộng lẫy. Mộ phần của Santi. Lẽ nào lại là thế? Những suy nghĩ lúc này nảy ra nhanh hơn nữa…
Mona Lisa của Da Vinci
Hoa huệ nước của Monet
David của Michelangelo.
Lăng mộ trần tục của Santi…
- Santi đã thiết kế lăng mộ đó. - Langdon lên tiếng.
Vittoria quay phắt lại:
- Gì cơ?
- Bài thơ không nhắc đến mộ phần của Santi, mà một mộ phần do ông ấy thiết kế.
- Anh nói gì cơ?
- Tôi đã nhầm. Không phải là phần mộ nơi Santi được chôn cất mà là mộ phần Santi thiết kế cho người khác cơ. Một nửa các công trình kiến trúc ở Rome thời Phục Hưng và Ba-rốc là các mộ phần. - Langdon vừa nói vừa mỉm cười - Chắc Raphael phải thiết kế đến hàng trăm lăng mộ!
Vittoria có vẻ khổ sở:
- Hàng trăm cơ à?
Nụ cười của Langdon tắt ngấm:
- Ối trời đất ơi.
- Có cái nào trong số đó trần tục không, thưa giáo sư?
Langdon chợt thấy rối bời. Anh biết quá ít về các tác phẩm của Raphael. Michelangelo thì còn đỡ, chứ anh đã bao giờ để ý đến các tác phẩm của Raphael đâu. Anh nhớ tên một vài lăng mộ nổi tiếng nhất của Raphael, nhưng không biết hình dạng chúng thế nào.
Thấy Langdon lúng túng, Vittoria quay sang hỏi ông hướng dẫn viên, khi ông ta đang định bỏ đi. Cô gái túm tay ông ta lôi lại:
- Tôi cần tìm một lăng mộ do Raphael thiết kế. Một lăng mộ có thể coi là trần tục.
Ông già lúc này cũng lúng túng:
- Một lăng mộ của Raphael à? Tôi cũng không biết đâu. Ông ấy thiết kế nhiều lắm. À, có thể các vị cũng biết một nhà nguyện nhỏ do ông ấy thiết kế, nhà nguyện chứ không phải lăng mộ. Các kiến trúc sư thường thiết kế các nhà nguyện thông với lăng mộ.
Langdon chợt nhận ra điều đó.
- Thế có lăng mộ hay nhà nguyện nào của Raphael mà trần tục không?
Ông già nhún vai:
- Tiếc quá. Cái đó thì tôi không hiểu gì cả. Tôi chẳng thấy cái nào có thể coi là trần tục hết. Có lẽ tôi phải đi đây.
Vittoria túm tay ông ta, rồi đọc dòng đầu tiên của bài thơ. "Từ nấm mồ trần tục của Santi, lăng mộ hang quỷ". Ông có hiểu thế là sao không?
- Tôi chẳng hiểu gì cả.
Đột nhiên Langdon ngẩng phắt lên. Vừa rồi anh quên biến mất phần sau của câu thơ. Hang quỷ?
- Đúng rồi! - Langdon hỏi ông già hướng dẫn viên - Đúng rồi! Có nhà nguyện nào của Raphael có giếng trời hình tròn không?
Ông ta lại lắc đầu lần nữa:
- Theo như tôi biết thì chỉ có ở mỗi điện Pantheon này thôi. - Ngừng một lát. - Nhưng mà…
- Nhưng sao? - cả Vittoria lẫn Langdon cùng đồng thanh.
Lúc này ông già lại ngẩng cao đầu và tiến lại bên họ.
- Hang quỷ… - ông ta tự lẩm bẩm một mình. - Hang quỷ… thì là… buco diavolo phải không nhỉ?
Vittoria gật đầu:
- Hiểu theo nghĩa đen thì đúng là thế.
Ông già khẽ mỉm cười:
- Có một thuật ngữ mà lâu rồi không thấy ai nhắc đến. Nếu tôi không nhầm, thì buco diavolo nghĩa là cái hầm.
- Cái hầm à? - Langdon hỏi lại. - Giống như hầm mộ phải không?
- Đúng, nhưng là một dạng hầm mộ đặc biệt. Chắc hang quỷ là một từ cổ để nói đến một hầm mộ lớn đặt trong nhà nguyện, bên dưới một mộ phần khác.
- Một cái hầm mộ đào thêm à? - Langdon hỏi ngay, anh đã hiểu ông già định nói đến cái gì.
Người hướng dẫn viên già có vẻ rất nể phục:
- Đúng rồi, tôi định dùng từ ấy đấy.
Langdon phân vân. Hầm mộ đào thêm là một giải pháp rẻ tiền của nhà thờ trong một số tình huống rất khó xử. Khi nhà thờ muốn thể hiện sự tôn vinh với một thành viên của mình bằng cách đặt mộ phần của người đó trong nhà nguyện, những người còn lại trong gia tộc thường yêu cầu phải chôn các thành viên khác của gia đình họ chung vào một chỗ… để đảm bảo rằng họ cũng sẽ được mai táng trong nhà thờ. Tuy nhiên, nhiều nhà thờ không có đủ tiền bạc và diện tích để xây mộ phần cho cả một gia tộc như thế, nên họ cho đào những hầm mộ đào thêm - một cái hố để chôn những thành viên khác của hoàng tộc nhưng không phải là những người thực sự kiệt xuất - gần mộ phần ban đầu. Sau đó, người ta đặt lên trên miệng hố một cái nắp mà các nghệ sĩ thời Phục Hưng gọi là cái nắp cống, không hơn. Tuy tiện lợi, nhưng trào lưu xây hầm mộ đào thêm nhanh chóng hết thời vì người ta rất hay ngửi thấy mùi thối trong nhà thờ. Hang quỷ, Langdon thầm nghĩ. Anh chưa bao giờ nghe thấy thuật ngữ này. Nhưng nó phù hợp đến mức lạ lùng.
Lúc này thì trống ngực Langdon đập thình thịch. Từ nấm mồ trần tục của Santi, lăng mộ hang quỷ. Chỉ còn một chi tiết duy nhất cần phải hỏi cho rõ.
- Raphael có thiết kế lăng mộ nào có hang quỷ loại này không?
Người hướng dẫn viên gãi gãi đầu:
- Thực ra thì… tiếc quá… tôi chỉ nghĩ ra được có một thôi.
Chỉ một? Langdon không mong ước gì hơn.
- Ở đâu? - Vittoria gần như hét lên.
Ông già hướng dẫn viên ngạc nhiên nhìn họ:
- Đó là nhà nguyện Chigi. Lăng của Agostino Chigi và anh trai ông ấy, nhà Mạnh Thường Quân giàu có của khoa học và nghệ thuật.
- Khoa học à? - Langdon vừa đưa mắt sang Vittoria vừa hỏi lại.
- Ở đâu? - Vittoria lại hỏi.
Ông già phớt lờ câu hỏi đó, lại sung sướng được làm nhiệm vụ hướng dẫn. - Cũng không thể khẳng định chắc chắn là nó có trần tục hay không, nhưng chắc chắn là rất khác biệt.
- Khác biệt à? - Langdon hỏi. - Khác thế nào?
Khác biệt trong cách kiến trúc. Một nghệ sĩ khác đảm nhiệm phần trang trí nội thất, tôi không nhớ rõ người đó là ai.
Langdon lúc này đã sốt sắng lắm rồi. Một nghệ sĩ vô danh của hội Illuminati à? Có thể lắm.
- Nhưng dù người đó là ai đi nữa thì phần nội thất cũng không được xuất sắc lắm. - Ông già nói tiếp - Làm gì có ai muốn bị chôn dưới một cái Kim tự tháp cơ chứ!
Langdon gần như không dám tin vào tai mình:
- Kim tự tháp à? Trong nhà nguyện có cả Kim tự tháp à?
- Tôi biết, thật chẳng hợp chút nào. - Ông già đáp.
Vittoria túm chặt cánh tay ông ta:
- Thưa ông, nhà nguyện Chigi ở chỗ nào?
- Cách đây một dặm về hướng Bắc. Ở thánh đường Santa Maria Del Popolo.
Vittoria thở phào:
- Cảm ơn ông. Nào…
- Này, tôi vừa nghĩ ra, đúng là tôi ngốc thật.
Vittoria đứng phắt lại:
- Xin đừng nói là ông lại nhầm nữa nhé.
Ông ta lắc đầu:
- Không đâu, nhưng đáng ra tôi phải nghĩ ra sớm hơn mới phải. Nhà nguyện Chigi còn có một cái tên nữa, trước đây người ta gọi nó là Capella Della Tera.
- Nhà thờ Đất à? - Langdon hỏi.
- Không. - Vittoria vừa trả lời vừa lao ra cửa. - Nhà thờ Trái Đất.
Vừa lao ra khỏi Piazza Della Rotunda, Vittoria Vetra vừa lôi điện thoại di động ra.
- Chỉ huy Olivetti, không phải ở đây rồi!
Olivetti có vẻ ngỡ ngàng:
- Sao? Cô nói gì?
- Bàn thờ khoa học đầu tiên là nhà nguyện Chigi cơ!
- Ở đâu? - Olivetti bắt đầu cáu. - Nhưng mà ông Langdon nói là…
- Santa Maria Del Popolo! Một dặm về phía Bắc! Đưa người của ông sang đấy ngay. Còn 4 phút nữa!
Nhưng người của tôi vào vị trí ở đây hết rồi! Làm sao có thể…
- Đi ngay đi! - Vittoria dập điện thoại.
Sau lưng cô gái, Langdon cũng vừa hổn hển lao ra khỏi điện Pantheon.
Cô gái túm tay Langdon, kéo anh chạy ra dãy xe tải trông như không người lái đang đợi san. Vittoria đấm ầm ầm vào mui chiếc xe đầu tiên. Người lái xe đang ngủ gật giật bắn người, và ngồi thẳng dậy, đầy sợ hãi. Vittoria mở ngay cửa sau, ấn Langdon vào trong xe, rồi cô cũng nhảy nốt vào.
- Santa Maria Del Popolo. - Cô hô to. - Nhanh lên!
Nửa sợ hãi, nửa thụ động, người lái xe gạt cần số, chiếc xe trườn ra giữa đường.
--63--
Gunther Glick đã giằng con chuột máy tính từ tay Chinita Macri, và giờ chị ta đang đứng lom khom ở cuối chiếc xe hòm chật chội của BBC, nhìn qua vai Glick.
- Thấy chưa. - Glick vừa nói vừa gõ thêm vài ký tự vào bàn phím.
- Có phải mỗi British Tattler cho đăng bài về những gã này đâu?
Macri cúi xuống gần hơn. Glick nói đúng. Cơ sở dữ liệu của BBC cho thấy rằng họ đã cho đăng sáu bài báo cả thảy trong vòng 10 năm qua về một hội kín tên là Illuminati. Trời ơi không thể tin nổi, Macri thầm nghĩ.
- Tay nào viết những bài đó thế? Mấy tay ba hoa chích chòe chứ gì?
- BBC đâu có thuê những đồ rác rưởi đó.
- Họ thuê anh đấy thôi.
Glick gầm gừ:
- Sao cô lại đa nghi thế không biết! Có rất nhiều tài liệu chứng minh sự tồn tại của Illuminati trong một giai đoạn lịch sử dài đấy.
- Thì mấy mụ phù thuỷ vật thể bay không xác định, rồi cả thuỷ quái hồ Loch Ness nữa chứ.
Glick đọc tên những bài báo được liệt kê.
- Cô đã bao giờ biết có người tên là Winston Churchill chưa?
- Tên kêu gớm nhỉ.
- BBC đã từng đăng một loạt phóng sự về cuộc đời của ông ta. Mà là tín đố Cơ đốc giáo trung thành đấy nhé. Cô có biết là năm 1920, Churchill cũng đã lên án hội Illuminati và cảnh báo người dân Anh về một âm mưu toàn cầu chống lại lương tri không?
Macri vẫn chưa tin:
- Báo nào đăng tuyên bố đó? British Tattler à?
Glick cười mỉm:
- London Herald. Ngày 8 tháng 2 năm 1920.
- Không thể nào.
- Cô nhìn cho kỹ đi!
Macri nhìn chằm chằm vào màn hình máy tính. London Herald, ngày 8 tháng 2 năm 1920. Sao mình lại không biết nhỉ?
- Thế thì chắc Churchill bị bệnh hoang tưởng rồi.
- Không phải mỗi mình ông ấy đâu. - Glick vừa đọc tiếp vừa nói - Có vẻ như năm 1921 thì Woodrow Wilson cũng đã cho phát đi ba lời cảnh báo trên đài phát thanh về nguy cơ hội Illuminati khống chế hệ thống ngân hàng của Mỹ. Có cần tải nguyên văn những lời đó xuống cho cô xem không?
- Thôi khỏi cần.
Nhưng Glick vẫn tải về một bản phát thanh.
- Ông ấy nói đây nhé: "Có một thế lực được tổ chức rất chặt chẽ, rất tinh vi, rất hoàn hảo. Nó có mặt ở hầu hết mọi nơi, đến nỗi người ta chỉ dám thì thầm thật khẽ mỗi khi cả gan chỉ trích nó".
- Tôi chưa bao giờ nghe nói đến chương trình phát thanh đó.
- Chắc là vì năm 1921 thì cô còn vắt mũi chưa sạch.
- Hay đấy. - Macri lại thấy thích lời châm chọc này. Cô biết tuổi tác đang ngày một hiện rõ trên khuôn mặt của mình. Ở tuổi 43, những lọn tóc đen dày của cô đã bắt đầu ngả sang màu muối tiêu. Nhưng quá kiêu hãnh, Macri không bao giờ nhuộm tóc. Mẹ của Macri, một tín đồ Baptist ở miền Nam, đã dạy cô biết tự bằng lòng và tôn trọng bản thân. Vì con là một phụ nữ da đen, mẹ cô dặn dò, đừng bao giờ cố che giấu bản thân. Ngày con làm điều đó cũng là ngày con chết. Hãy đứng thật thẳng, mỉm cười rạng rỡ, và để mọi người phải băn khoăn không hiểu điều bí mật nào đã khiến con cười rạng rỡ đến thế.
- Đã nghe nói đến Cecil Rhodes bao giờ chưa? - Glick hỏi.
Macri nhìn lên:
- Nhà tài chính người Anh đó hả?
- Đúng rồi. Người thành lập quỹ học bổng Rhodes đấy. Đừng nói với tôi là…
- Người của Illuminati.
- Báo nào?
- BBC, thật đấy. Ngày 16 tháng 11 năm 1984.
- Báo mình đăng tin Rhodes là người của Illuminati á?
- Chứ sao. Và theo thông tin của chúng ta thì quỹ học bổng Rhodes được thành lập từ nhiều thế kỷ nay để tuyển mộ những bộ óc lỗi lạc nhất cho hội Illuminati.
- Thật lố bịch! Bác tôi ngày xưa cũng nhận học bổng Rhodes đây!
Glick nháy mắt:
- Cả Bill Clinton cũng thế.
Macri lúc này đã thật sự phát điên. Chưa bao giờ chị chấp nhận những bài báo nhăng nhít kiểu này. Nhưng Macri cũng biết rằng BBC luôn cho thẩm định kỹ lưỡng tất cả những thông tin mà hãng công bố.
- Sự kiện này thì chắc cô biết. - Glick đọc - BBC, ngày 5 tháng 3 năm 1998. Chủ tịch Uỷ ban hạ viện, Chris Mullin, yêu cầu tất cả các nghị sĩ Anh là thành viên hội Tam Điểm phải công khai mối quan hệ đó.
Macri còn nhớ sự kiện này. Rốt cuộc thì hội kín đó hoá ra lại có liên quan đến các nhận viên cảnh sát, thậm chí cả quan toà.
- Nhưng để làm gì thế?
Glick đọc tiếp:
- Lo lắng rằng có thể những chi nhánh bí mật của hội Tam Điểm sẽ khống chế toàn bộ thể chế chính trị và hệ thống tài chính.
- Đúng thế.
- Gây ra bao nhiêu là ầm ĩ. Hội Tam Điểm trong nghị viện đã tỏ ra công phẫn. Mà thế là phải thôi. Hoá ra đa số họ chỉ là những người ngây thơ gia nhập hội Tam Điểm để làm các công việc từ thiện. Họ không hề biết gì về những mối liên hệ trong quá khứ của hội đó.
- Những liên hệ chưa được chứng minh rõ ràng.
- Thế cả thôi - Glick đọc lướt các bài báo. - Xem đây này. Thông tin cho thấy Illuminati liên quan đến cả Galileo, hội Guerenets ở Pháp, hội Alumbrados ở Tây Ban Nha. Thậm chí cả Karl Max và cách mạng Nga.
- Rất có thể lịch sử bị bóp méo lắm chứ.
- Được rồi. Cô muốn những sự kiện gần đây chứ gì? Xem đi. Đây là bài trên tờ Wall Street Journal nhắc đến Illuminati nhé.
Tên tờ báo khiến Macri chú ý.
- Journal à?
- Đoán xem trò chơi điện tử được ưa thích nhất ở Mỹ hiện nay là gì nào?
- Sex với Pamela Anderson chứ gì?
- Gần đúng. Tên của nó là Illuminati: trật tự thế giới mới.
Macri nhìn qua vai Glick để đọc phần giới thiệu trò chơi: "Steve Jackson Games đã thành công ngoài sức tưởng tượng… một cuộc thám hiểm có tính lịch sử. Trong đó một hội kín xấu xa ở Bavaria rắp tâm muốn thông trị cả thế giới. Hãy lên mạng để tham gia…"
Macri ngước mắt lên như sắp sửa phát ốm đến nơi:
- Mấy gã hội viên Illuminati này thì có liên quan gì đến Thiên Chúa giáo đây?
- Không chỉ mỗi Thiên Chúa giáo đâu nhé. - Glick nói - Mà là mọi tôn giáo nói chung! - Glick ngẩng mặt lên, cười toe toét. - Nhưng qua cuộc gọi ban nãy thì có thể đoán rằng họ quan tâm đặc biệt tới Vatican đấy.
- Ồ thôi đi! Anh không thật sự tin vào những lời tự giới thiệu của gã đó đấy chứ?
- Rằng gã là sứ giả của Illuminati ư? Chuẩn bị hành quyết bốn Hồng y Giáo chủ ư? - Glick mỉm cười. - Tôi hi vọng đó là sự thật.
--64--
Chiếc taxi đưa Vittoria và Langdon chạy hết một vòng qua Via Della Scrofa chỉ trong một phút. Xe dừng lại ở phía Nam của Piazza Del Popolo, sát 8 giờ. Không có đồng lia nào trong túi, Langdon trả người lái xe bằng tiền đô la một cách hết sức hậu hĩnh. Cả hai lao vội ra khỏi xe. Quảng trường khá yên ắng, chỉ nghe thấy tiếng nói cười của mấy người dân địa phương vọng ra từ một quán cà phê Rosati gần đó vốn rất được giới trí thức Ý ưa chuộng. Không khí thoảng mùi cà phê và bánh ngọt.
Langdon vẫn chưa hết choáng váng vì những phán đoán sai lầm của mình ở Pantheon. Tuy nhiên, chỉ cần nhìn lướt qua quảng trường một lượt là giác quan thứ sáu của anh đã cảm nhận được ngay. Quảng trường này được thiết kế với khá nhiều biểu tượng quan trọng của Illuminati. Không những được xây hình e-líp, mà ở chính tâm của nó còn có một cột tháp kiểu Ai Cập - một cây cột bằng đá hình Kim tự tháp. Những cột tháp kiểu này, vốn là chiến lợi phẩm thu được sau những chuyến viễn chinh của đế chế Rome, ngày nay vẫn còn nằm rải rác khắp thành Rome, và được các nhà biểu tượng học gọi là Kim tự tháp cao quý - luôn luôn vươn thẳng lên trời.
Ngước mắt nhìn lên đỉnh cây cột tháp bằng đá nguyên khối, Langdon nhận ra một thứ khác nữa, một thứ rất đặc biệt.
- Chỗ này đúng rồi đấy. - Anh nói khẽ, cảm thấy mọi lo lắng vừa tiêu tan hết. - Cô nhìn xem. - Langdon đưa tay chỉ Porta Del Popolo - cổng vòm bằng đá phía cuối quảng trường. Suốt bao thế kỷ nay, nó vẫn đứng đó. Trên đỉnh vòm có một biểu tượng được khắc vào đá. - Có thấy quen không?
Vittoria ngước lên nhìn.
- Một ngôi sao toả sáng trên đỉnh cột đá hình tam giác phải không?
Langdon lắc đầu:
- Một luồng ánh sáng toả xuống từ đỉnh Kim tự tháp.
Vittoria quay lại, tròn mắt kinh ngạc:
- Giống hệt như… hình quốc huy của nước Mỹ kìa.
- Chính xác. Biểu tượng của hội Tam Điểm trên tờ bạc một đô la.
Vittoria hít thở thật sâu và đưa mắt nhìn khắp quảng trường một lượt. - Thế cái nhà thờ quái quỷ ấy đâu?
Thánh đường Santa Maria Del Popolo trông như một chiến thuyền bị đặt sai chỗ, đứng xiên xẹo dưới chân một ngọn đồi ở phía Đông Nam của quảng trường. Với một lô giàn giáo xây dựng choán hết mặt tiền, công trình kiến trúc từ thế kỷ 11 này trông lại càng kỳ dị hơn.
Cùng Vittoria tiến thẳng đến nhà thờ nhỏ này, Langdon cảm tưởng như đang đi trên mây. Anh ngước lên nhìn toà nhà, thầm băn khoăn. Chẳng lẽ một vụ án mạng lại sắp xảy ra đằng sau những bức tường này thật sao? Ước gì Olivetti nhanh chân lên một chút. Khẩu súng trong túi áo ngực của Langdon tụ nhiên trở nên thật vô dụng.
Cầu thang ở mặt tiền của thánh đường nhỏ này có kiểu dáng khá thân thiện. Nhưng tấm biển treo ở giàn giáo thì lại đề: "NGUY HIỀM - CẤM VÀO", thật chẳng hợp nhau chút nào.
Một thánh đường trong thời kỳ đóng cửa để sửa chữa thế này quả là lý tưởng đối với kẻ sát nhân. Khác với ban nãy ở điện Pantheon, hai người chẳng cần bày đặt đóng vai làm gì, chỉ cần tìm một lối vào.
Không do dự, Vittoria len ngay vào khe hở giữa hai giàn giáo, định leo lên cầu thang.
- Vittoria! Biết đâu hắn vẫn còn ở trong đấy! - Langdon gọi to.
Vittoria làm như không nghe thấy gì. Cô gái bước tới sát cánh cửa gỗ dẫn vào trong nhà thờ. Langdon vội chạy theo sát gót Vittoria. Anh chưa kịp nói gì thì Vittoria đã nắm cánh cửa rồi kéo ra. Langdon nín thở. Cánh cửa không nhúc nhích.
- Chắc phải có một lối vào khác. - Vittoria nói.
- Có thể lắm, nhưng chỉ một phút nữa là Olivetti có mặt ở đây. - Langdon nói - Bây giờ mà vào trong luôn thì quá nguy hiểm. Chúng ta nên đứng đây mà đợi cho đến khi…
Vittoria quay sang nhìn Langdon, mắt tóe lửa:
- Nếu có một lối vào nữa thì cũng có một lối ra nữa. Gã này mà thoát thân được là chúng ta cầm chắc thất bại.
Langdon hiểu điều đó.
Lối đi nhỏ bên phải nhà thờ vừa hẹp vừa tối hai bên đều có tường cao. Không khí nồng nặc mùi nước giải - thứ mùi thường gặp ở thành phố này, nơi mà số lượng quán bar lớn gấp 20 lần số nhà vệ sinh công cộng.
Langdon và Vittoria hối hả bước đi trên lối nhỏ nồng nặc mùi khai đó. Đi xuống được khoảng 15 mét thì Vittoria giật giật cánh tay Langdon rồi chỉ về phía trước.
Langdon cũng đã trông thấy. Trước mặt họ là một cánh cửa gỗ nặng nề, đúng là một lối đi điển hình dành riêng cho các tu sĩ. Từ nhiều năm nay, hầu hết những lối đi kiểu này không còn được sử dụng nữa vì đất đai chật hẹp cộng với những công trình mới được xây dựng sát bên cạnh nhà thờ đã khiến cho những lối đi này trở nên bất tiện.
Vittoria tiến ngay về phía cánh cửa. Đến nơi, cô gái bối rối nhìn quả đấm cửa. Phía sau Vittoria mấy bước, Langdon trông thấy một cái đai bằng sắt lủng lẳng ở chỗ đáng ra phải có quả đấm cửa.
- Cái đai đấy mà! - Langdon khẽ thì thào và nhẹ nhàng đưa tay kéo nó lên. Cái đai bật đánh tách. Vittoria đứng né sang một bên, vẻ lo lắng. Khẽ khàng, Langdon quay cái đai theo chiều kim đồng hồ. Cái vòng sắt quay đủ một vòng 360 độ, chẳng thấy gì. Nhíu mày, Langdon xoay theo chiều ngược lại, vẫn y như thế.
Vittoria nhìn xuống cuối lối đi.
- Liệu còn lối vào nào khác không?
Langdon nghĩ là không. Hầu hết các thánh đường thời Phục Hưng đều được thiết kế như những pháo đài để đế phòng trường hợp thành phố bị cướp phá. Càng ít lối vào càng tốt. Anh nói:
- Nếu có một lối nữa thì chắc phải ở đằng sau. Là lối thoát ra ngoài thì đúng hơn là lối vào.
Chân Vittoria đã xăm xăm bước tới.
Langdon theo cô gái đi sâu thêm vào trong. Hai bên là hai bức tường cao ngất. Chuông nhà thờ đâu đó điểm 8 giờ…
o O o
Vittoria gọi anh, nhưng Langdon không nghe thấy. Anh đang dừng chân bên một khung cửa sổ bụi bặm, và cố nhòm vào bên trong.
- Robert! - Cô gái thì thào rất khẽ.
Langdon ngẩng lên. Vittoria đã đi đến cuối ngõ hẹp. Cô gái đứng lại đợi anh, tay chỉ về phía sau nhà thờ. Langdon phải chạy mới theo kịp. Dưới chân bức tường đằng sau thánh đường, một chiếc cổng được trố trên một mảng tường bao bằng đá - một lối đi hẹp dẫn xuống tầng hầm của nhà thờ.
- Lối vào đây có phải không? - Vittoria hỏi.
Langdon gật đầu. Thực ra là lối ra, nhưng không cần thiết phải tranh luận về chi tiết nhỏ này làm gì.
Vittoria quỳ xuống, nhòm vào con đường hầm.
- Thử vào xem thế nào, biết đâu cửa mở.
- Đợi đã! - Langdon nói.
Cô gái quay lại nhìn Langdon, vẻ sốt ruột.
Langdon thở dài:
- Để tôi đi trước.
Vittoria tỏ ra ngạc nhiên:
- Lại một cử chỉ nghĩa hiệp nữa ư?
- Tuổi tác nên dẫn đường cho cái đẹp.
- Đây có phải là lời ngợi khen không nhỉ?
Langdon cười mỉm, vượt lên trước cô gái, và bước vào vùng tối trước mặt.
- Cẩn thận cầu thang đấy.
Anh dò dẫm từng bước một trong bóng tối, một tay lần dọc theo bức tường, đầu ngón tay chạm vào một mảng tường xù xì.
Trong khoảnh khắc, Langdon chợt nhớ lại huyền thoại về Daedalus, cậu bé đã dùng một bàn tay để lần theo bức tường, thế mà có thể ra khỏi mê cung, chỉ vì biết rằng nếu chạm được vào bức tường là sẽ không bị lạc lối. Langdon tiến lên phía trước, dù trong thâm tâm không hề muốn một chút nào.
Càng đi càng thấy dường hầm dần dần hẹp lại, Langdon cũng bước chậm hơn. Vittoria vẫn theo sát gót anh. Bức tường ngoặt sang bên trái, và họ thấy một cái hốc hình bán nguyệt. Thật lạ, ở đây có ánh sáng mờ. Langdon lờ mờ trông thấy một khung cửa bằng gỗ nặng nề.
- Ái chà. - Anh thốt lên.
- Khoá à?
- Trước đây thôi.
- Sao lại trước đây thôi? - Vittoria đã đứng ngay cạnh anh.
Langdon đưa tay chỉ. Từ bên trong, một luồng sáng hắt ra, soi rõ cánh cửa mở hé… bản lề cửa đã bị bật tung ra, và thanh sắt được dùng làm dụng cụ vẫn còn dựng ngay cạnh đó.
Hai người lặng đi trong giây lát. Rồi trong bóng tối, Langdon thấy Vittoria lần tay vào ngực anh, sờ soạng trong túi áo khoác.
- Thư giãn đi nào, giáo sư. - Cô gái nói - Tôi chỉ lấy khẩu súng ra thôi mà.
Cũng vào lúc ấy, trong Bảo tàng Vatican, một đội lính gác Thuỵ Sĩ đang toả ra khắp mọi hướng. Bảo tàng tối om, và cả đội đều đeo loại kính nhìn xuyên bóng tối bằng tia hồng ngoại của hải quân Hoa Kỳ. Đeo cặp kính này vào, tất cả mọi vật đều chuyển thành một thứ màu xanh rất kỳ quái. Họ đeo những chiếc tai nghe gắn với một máy dò có hình ăng-ten đang đu đưa nhịp nhàng trước mặt - loại thiết bị họ vẫn dùng hai tuần mỗi lần để tìm máy nghe lén trong toà thánh. Cả nhóm di chuyển một cách trật tự và nhịp nhàng, kiểm tra từng bức tượng, từng hốc tường, từng ngăn tủ, thậm chí cả dưới gầm tủ. Những chiếc ăng-ten này sẽ phát tín hiệu báo động nếu phát hiện từ trường, dù vô cùng yếu.
Tuy nhiên, đêm nay họ chưa phát hiện được gì.
--65--
Được chiếu bởi một luồng ánh sáng yếu ớt, bên trong nhà thờ Santa Maria Del Popolo trông như một cái hang âm u. Nền điện chính đang bị lật tung lên để sửa, ngổn ngang những đất đá; bàn xoa, cuốc, và cả xe cút kít - thánh đường lúc này trông chẳng khác gì một nhà ga tàu điện ngầm chưa thi công xong. Những cây cột khổng lồ sừng sững chống đỡ cho mái vòm trên cao. Dù ánh sáng rất yếu, họ vẫn nhìn thấy vô số hạt bụi đang lởn vởn trong không khí. Langdon và Vittoria đứng giữa khung cảnh ngổn ngang, nhìn điện thờ đang bị cày xới tơi tả.
Không gian lặng ngắt. Sự yên ắng đầy chết chóc.
Vittoria dùng cả hai tay để giương khẩu súng lên. Langdon xem đổng hồ: 8 giờ 4 phút. Vào đây thế này thì đúng là mất trí thật rồi. Nguy hiểm quá, Langdon thầm nghĩ. Tuy nhiên, anh biết rằng nếu kẻ sát nhân có còn ở đây đi chăng nữa thì hắn cũng có thể ra ngoài bằng bất cứ cửa nào, và cuộc tập kích một súng của họ sẽ chẳng có tác dụng gì. Cách duy nhất là bắt quả tang đúng lúc hắn đang hành động… nhưng đấy là trong trường hợp hắn vẫn còn ở đây. Langdon cảm thấy thật áy náy, vì sai lầm của anh mà họ đã đến Pantheon và lỡ mất cơ hội. Lúc này anh chẳng còn tư cách gì để bàn đến chuyện có an toàn hay không nữa, chính anh đã đẩy mọi người vào tình thế bất lợi này.
Vittoria đưa mắt nhìn khắp nhà thờ một lượt, vẻ mặt khổ sở.
- Đây chính là nhà nguyện Chigi đấy à? - Cô thì thào hỏi.
Nhìn xuyên qua bầu không khí âm u ma quái, Langdon nhìn về phía cuối điện thờ và những mảng tường bao ngoài. Không như nhiều người vẫn lầm tưởng, các nhà thờ thời Phục Hưng đều gồm có nhiều nhà nguyện nhỏ, những nhà thờ lớn như Notre Damme còn có hơn chục nhà nguyện bên trong. Các nhà nguyện này trông giống những cái hốc hơn là những căn phòng thực thụ - chúng là những hốc tường hình bán nguyệt, kết nối các mộ phần xung quanh với bức tường ngoài của thánh đường.
Tin xấu rồi, Langdon thầm nghĩ khi trông thấy mỗi bên tường có tới bốn cái hốc. Ở đây có 8 nhà nguyện tất cả. Dù 8 chưa phải là một con số quá lớn, nhưng vì đang trong quá trình tu sửa, nên tất cả 8 nhà nguyện đều được phủ một lớp nilông trong suốt ở bên ngoài - chắc chắn là để tránh không cho bụi lọt vào những mộ phần bên trong.
- Có thể là bất cứ nhà nguyện phủ nilông nào trong số này. - Langdon đáp. - Nếu không nhìn vào bên trong từng hốc một thì không có cách gì xác định được đâu là nhà nguyện Chigi. Có lẽ chúng ta nên đợi đến khi Oli…
- Cái nào là nhà nguyện thứ hai bên trái? - Cô gái hỏi.
Langdon nhìn Vittoria, anh thấy ngạc nhiên về thuật ngữ ngành kiến trúc mà cô vừa nói - Nhà nguyện thứ hai bên trái á?
Vittoria đưa tay chỉ mảng tường sau lưng Langdon. Có một phiến đá được gắn trên tường được khắc những hình y hệt như anh vừa thấy ở bên ngoài nhà thờ: Kim tự tháp dưới ánh sao.
Cạnh đó là một tấm biển phủ đầy bụi với dòng chữ:
GIA HUY CỦA ALEXANDER CHIGI
MỘ PHẦN THỨ HAI BÊN TRÁI
Langdon gật đầu. Gia huy của Chigi cũng có hình Kim tự tháp và một ngôi sao à? Anh chợt băn khoăn, biết đâu nhà Mạnh Thường Quân giàu có Chigi cũng là người của hội Illuminati. Anh gật đầu với Vittoria:
- Giỏi lắm, Nancy Drew ạ.
- Gì cơ?
- Không có gì, tôi chỉ…
Một tấm kim loại bất chợt rơi xuống ngay sát chỗ họ đang đứng. Tiếng loảng xoảng ầm ĩ vang khắp cả nhà thờ. Vittoria chĩa ngay súng về phía có tiếng động, còn Langdon thì kéo cô gái vào sau một cây cột lớn. Im lặng. Họ đợi. Lại thấy động nữa, lần này là tiếng sột soạt. Langdon nín thở. Đáng ra mình không nên vào trong này mới phải! Tiếng động dần trở nên rõ hơn, từng chặp một như thể tiếng người đi cà nhắc. Rồi đối tượng của họ bất thắn xuất hiện từ sau một cây cột.
- Figlio di puttana! (1) - Vittoria vừa làu bàu vừa nhảy lùi lại.
Langdon cũng giật bắn người.
Cạnh cây cột con chuột cống khổng lồ đang tha cái bánh mì ai đó bỏ dở. Nhìn thấy họ, nó dừng lại hồi lâu, đưa mắt nhìn dọc theo nòng súng trên tay Vittoria, sau đó, rõ ràng là chẳng có cảm giác gì đặc biệt, nó tiếp tục tha chiến lợi phẩm của mình ra phía sau nhà thờ.
- Đồ chết dẫm! - Langdon thở hắt ra, trống ngực đập liên hồi.
Vittoria hạ súng xuống, nhanh chóng lấy lại bình tĩnh.
Langdon nhìn về phía cây cột ban nãy và trông thấy một hộp đồ nghề của thợ mộc nằm xiên xẹo trên sàn, rõ ràng là vừa bị con chuột kia kéo rơi từ trên giá để đồ xuống.
Langdon đưa mắt quan sát thánh đường dài và sâu, rồi thì thầm:
- Nếu hắn vẫn còn ở trong này thì chắc chắn cũng nghe thấy tiếng loảng xoảng vừa xong. Có chắc là cô không muốn đợi Olivetti đến không?
- Mộ phần thứ hai bên trái là chỗ nào? - Vittoria lặp lại câu hỏi lúc trước.
Langdon đành phải miễn cưỡng quay lại để xác định phương hướng, các nhà thờ luôn được bài trí rất giống sân khấu, không thể dùng trực giác mà đoán hướng được. Anh quay mặt về phía điện thờ chính. Trung tâm sân khấu. Rồi Langdon chỉ tay ra sau vai.
Cả hai cùng quay lại và nhìn về hướng anh vừa chỉ.
Hình như nhà nguyện Chigi là cái thứ ba trong số bốn hốc tưởng bên phải. Tin tốt là Langdon và Vittoria đang ở đúng bên tay phải của thánh đường rộng. Tin xấu là họ ở tận đầu kia so với mộ phần đó. Họ sẽ phải đi dọc theo thánh đường, đi qua ba mộ phần khác, mà cái nào cũng được phủ một tấm nilông ở ngoài y hệt mộ phần của Chigi.
- Đợi đã! - Langdon bảo cô gái. - Để tôi đi trước.
- Không được.
- Tôi là người đã phạm sai lầm ở Pantheon.
Cô gái quay sang nhìn anh:
- Nhưng tôi lại là người đang cầm súng.
Nhìn vào mắt cô gái, Langdon có thể đoán được Vittoria đang nghĩ gì… Tôi là người vừa bị mất người cha yêu quý. Tôi chính là người góp phần tạo nên thứ vũ khí chết người đó. Da đầu của hắn phải thuộc về tôi…
Langdon thấy rằng nếu cố ngăn cản cũng chẳng ích lợi gì, nên để mặc cô gái. Anh đi dọc theo thánh đường, sát bên Vittoria.
Ngang qua mộ phần che nilông đầu tiên, anh cảm thấy căng thẳng như thể đang tham gia vào một trò chơi siêu thực nào đó. Mình sẽ vén bức màn thứ ba, anh thầm nghĩ.
Nhà thờ thật yên ắng, những bức tường đá dày đã chặn hết mọi âm thanh của thế giới bên ngoài. Trong khi hai người vượt qua hết mộ phần này đến mộ phần khác, những bóng người ốm yếu hiện lên trên những tấm nilông trong phủ dầy bụi, trông như ma. Đá cẩm thạch chạm khắc, Langdon tự nhủ, hi vọng lần này không nhầm lẫn nữa. Giờ đã là 8 giờ 6 phút tối. Không hiểu kẻ giết người có hành động chính xác và thoát ra ngoài trước khi anh và Vittoria vào đây không nhỉ? Hay hắn vẫn còn ở đây? Langdon cũng không biết anh thích tình huống nào hơn.
Trong thánh đường mỗi lúc một tối dần hốc tường thứ hai trông khá rùng rợn. Những cánh cửa kính mốc meo, phủ dầy bụi bặm càng tạo cảm giác đêm xuống nhanh hơn. Đúng lúc họ đi qua, tấm rèm nhựa ngay sát hai người bỗng nhiên bay phấp phới, như thể một luồng gió vừa bất ngờ thốc vào. Langdon băn khoăn, không biết có phải một người nào đó vừa mở một cánh cửa hay không.
Gần đến nơi, Vittoria bước chậm lại. Có gái chĩa thẳng súng về phía trước, gật đầu ra hiệu bảo Langdon đọc tấm bia đá cạnh mộ phần. Có mấy chữ được khắc trên đá cẩm thạch:
NHÀ NGUYỆN CHIGI
Langdon gật đầu. Không một tiếng động, họ di chuyển vào trong hốc tường, nấp sau một cây cột lớn. Vittoria giương súng lên, chĩa vào tấm nilông trước mặt, xăm soi một hồi. Rồi cô ra hiệu bảo Langdon kéo tấm nilông ra.
Đây mới là lúc nên cầu nguyện đây. anh thầm nghĩ. Một cách miễn cưỡng, anh với tay qua vai cô gái. Hết sức thận trọng, Langdon kéo tấm nilông sang một bên. Được khoảng 2 cm thì tấm nilông bắt đầu kêu sột soạt. Cả hai cứng người lại. Lặng phắc. Một lát sau, Vittoria chậm rãi, nhoài người về phía trước, nhòm qua khe hở. Langdon nhìn qua vai Vittoria.
Trong thoáng chốc, cả hai đều nín thở.
- Trống không. - Cuối cùng Vittoria lên tiếng, cô hạ khẩu súng xuống. - Chúng ta muộn mất rồi.
Langdon không nghe thấy gì. Anh cảm thấy vô cùng kinh ngạc và như vừa mới lạc vào một thế giới hoàn toàn khác lạ. Anh chưa bao giờ tưởng tượng được một nhà nguyện đẹp đến thế này. Với từng màu chủ đạo là nâu hạt dẻ, nhà nguyện Chigi có một vẻ đẹp thật độc đáo. Con mắt sành sỏi của Langdon được thoả thê ngắm nghía. Nhà nguyện này không thể nào trần tục hơn được nữa, dường như chính Galileo và hội Illuminati đã trang trí cho mộ phần này.
Trên cao, mái vòm của nhà nguyện được chiếu sáng bởi những ngôi sao và bày hành tinh của hệ mặt trời đang phản chiếu ánh sáng. Dưới đó là 12 biểu tượng của hoàng đạo - những biểu tượng phi Thiên Chúa giáo và trần tục bắt nguồn từ thiên văn học. Hoàng đạo là một khái niệm gắn bó chặt chẽ với Đất, Khí, Lửa và Nước. Bốn cung phần tư tượng trưng cho quyền lực, trí tuệ nhuệ khí và cảm xúc. Đất tượng trung cho quyền lực, Langdon nhớ lại.
Trên tường, sâu vào trong, là biểu tượng của bốn mùa trong năm - xuân, hạ, thu, đông. Nhưng đáng kinh ngạc hơn cả chính là hai cấu trúc khổng lồ choán gần hết căn phòng.
Langdon lặng đi, say sưa chiêm ngưỡng. Không thể tưởng tượng được, anh thầm nghĩ. Không thể tưởng tượng được! Nhưng hoàn toàn có thật. Hai bên nhà nguyện là hai Kim tự tháp bằng đá cẩm thạch cao 3 mét.
- Không thấy vị Hồng y nào cả. - Vittoria thì thào. - Cũng chẳng thấy hung thử. Cô gái kéo tấm nilông sang một bên rồi bước vào trong.
Langdon say sưa ngắm hai toà Kim tự tháp bằng đá cầm thạch. Chúng có chức năng gì trong một nhà nguyện Thiên chúa giáo nhỉ? Và không thể tin nổi, đó chưa phải là tất cả. Ở chính tâm của hai Kim tự tháp này là hai tấm phù hiệu bằng vàng… những tấm phù hiệu mà chưa bao giờ Langdon nhìn thấy… hình e-lip hoàn hảo. Hai chiếc đĩa bóng loáng này phản chiếu ánh mặt trời rọi xuống từ trên mái vòm. Phải chăng là hình e-lip, Kim tự tháp, và cả chòm sao của Galileo? Căn phòng này chứa trong nó nhiều biểu tượng của hội Illuminati hơn bất kỳ căn phòng nào Langdon có thể tưởng tượng được.
- Robert! - Vittoria kêu lên, giọng khiếp đảm - Nhìn kìa!
Langdon quay lại, nhìn theo hướng tay cô gái đang chỉ, quay về với thực tại.
- Quỷ thần ơi! - Anh thét lên, lùi ra xa.
Trên sàn nhà, một bộ khung xương đang chòng chọc nhìn hai người - một bức khảm chi tiết, cầu kỳ trên nền cầm thạch, mô phỏng thần chết đang bay. - Bộ khung xương này đang cầm một tấm bảng khắc những hình biểu tượng mà họ vừa trông thấy bên ngoài. Tuy nhiên, không phải những biểu tượng ấy làm máu trong người Langdon đông cứng lại mà vì hình chạm khắc này được thực hiện trên một phiến đá tròn đã được nhấc sang một bên y như một cái miệng cống, và giờ được để ghếch lên bên cạnh miệng hố hình tròn trên sàn.
- Hang quỷ đây rồi. - Langdon hổn hển nói. Quá mải mê với những trang trí trên trần nhà, anh đã không trông thấy nó. Mùi thối bốc lên nồng nặc.
Vittoria đưa hai tay lên che miệng.
- Kinh quá.
- Khí từ dưới xông lên đấy. - Langdon giải thích khí thoát ra từ các thi hài đang phân huỷ.
Anh lấy ống tay áo bịt mũi và cúi xuống miệng hố, nhìn xuống dưới. Đen ngòm.
- Chẳng trông thấy gì cả.
- Liệu dưới đó có người không nhỉ?
- Chỉ có trời mới biết.
Vittoria đưa tay chỉ một cái thang gỗ đã mọt dẫn xuống dưới, được ghếch lên miệng hố.
Langdon lắc đầu:
- Chẳng khác gì địa ngục.
- Biết đâu trong đống đồ nghề ngoài kia lại có cái đèn pin nào đó.
Dường như Vittoria muốn lấy cớ để chạy khỏi nhà nguyện hôi thối này:
- Để tôi ra xem sao.
- Cẩn thận đấy. - Langdon nói với theo. - Không biết chừng hung thủ vẫn còn…
Nhưng Vittoria đã chạy ra ngoài.
Quả là một phụ nữ mạnh mẽ, Langdon thầm nhận xét.
Anh quay lại miệng hố, mùi hôi thối nồng nặc đến mức Langdon thấy choáng váng. Nín thở, anh cúi đầu xuống dưới miệng hố để nhòm vào bóng tối mịt mùng bên dưới. Dần dần, khi mắt đã quen với bóng tối, Langdon bắt đầu trông thấy những hình bóng lờ mờ. Cái hố này hoá ra là một căn phòng nhỏ. Hang quỷ. Không hiểu bao nhiêu thế hệ nhà Chigi đã được lặng lẽ mai táng tại căn phòng này. Langdon nhắm mắt lại và đợi cho hai đồng tử giãn ra để nhìn được rõ hơn. Mở mắt ra, anh thấy một hình bóng câm lặng nhảy múa bên dưới. Langdon run lên, nhưng tụ ép bản thân không được ngồi nhỏm dậy. Mình trông thấy một cái gì đó. Không biết có. phải là xác chết không nhỉ? Hình bóng ấy mờ đi. Langdon lại nhắm mắt lần nữa và đợi, lần này lâu hơn, để cho hai mắt có thể thu nhận được những tia sáng yếu ớt nhất.
Bắt đầu có cảm giác chóng mặt, và tâm trí Langdon không thể tập trung nổi. Chỉ vài giây nữa thôi mà. Không hiểu vì nhịn thở và hít phải mùi thối hay vì chúi đầu xuống quá lâu mà Langdon bắt đầu thấy buồn nôn. Cuối cùng anh mở mắt ra, và cảnh tượng bày ra trước mắt thật không thể tin nổi.
Anh đang thấy một hầm mộ nhỏ tràn ngập thứ ánh sáng xanh kỳ quái Nghe có tiếng xì xì quanh đây. Ánh sáng lập lòe trên những mảng tường quanh miệng hố. Đột nhiên một bóng den dài xuất hiện ngay trước mặt Langdon. Giật bắn người, anh ngồi phắt dậy.
- Cẩn thận! - Có người kêu lên ngay sau lưng anh.
Chưa kịp quay lại, Langdon đã cảm thấy đau nhói sau gáy.
Vittoria đang quay đầu cây đèn xì ra khỏi gáy Langdon, ánh sáng xanh ma quái cùng với tiếng xì xì tràn ngập khắp nhà nguyện nhỏ.
Langdon chụp tay lên gáy:
- Cô đang làm cái quái gì thế hả?
- Tôi chiếu sáng cho anh mà. - Cô gái đáp. - Anh nhổm lên trúng vào cây đèn.
Langdon nhìn cây đèn xì trên tay Vittoria.
- Tôi tìm mãi mới được đấy. Không có đèn pin. - Cô gái nói.
Vittoria đưa cho anh cây đèn xì, mặt nhăn lại vì mùi thối.
- Loại khí này có bắt lửa không nhỉ?
- Hi vọng là không.
Anh cầm cây đèn và chầm chậm tiến lại bên miệng hố. Cẩn thận, Langdon đứng bên miệng hố, chĩa cây đèn xuống dưới, soi sáng mảng tường bên phải hầm mộ. Chiếu đèn sang hướng khác, anh trông thấy những bậc cầu thang dẫn xuống dưới.
Hầm mộ này có hình tròn, bán kính khoảng 6 mét. Cách mặt sàn 10 mét là nền hầm. Sàn của nó màu sẫm và không bằng phẳng. Trần tục. Rồi Langdon trông thấy một người.
Bản năng mách bảo anh hãy lùi lại.
- Đây rồi. - Langdon nói, tự ép mình đứng nguyên tại chỗ. Trên mặt sàn màu sẫm, người này có vẻ khá xanh xao.
- Hình như ông ấy đã bị lột hết quần áo.
Langdon rọi đèn vào thi thể trần trụi.
- Có phải một trong bốn vị Hồng y đây không?
Langdon chưa thể khẳng định chính xác, nhưng còn có thể là ai khác được nữa cơ chứ. Anh chăm chú quan sát khuôn mặt tái nhợt ấy. Bất động. Không còn sự sống. Nhưng mà… Langdon ngập ngừng. Tư thế của người này có cỏ vẻ gì đó rất lạ. Hình như là…
Langdon nói vọng xuống:
- Xin chào!
- Anh nghĩ rằng ông ấy còn sống à?
Không thấy người bên dưới trả lời.
- Không thấy cử động, - Langdon nói với Vittoria. - Nhưng mà trông ông ấy… Không thể nào.
- Trông ông ấy làm sao? - lúc này Vittoria cũng bắt đầu nhòm xuống dưới.
Langdon cố căng mắt nhìn:
- Trông như là ông ấy đang đứng.
Vittoria nín thở, cúi xuống để nhìn vào trong hầm mộ. Thoáng sau, cô lùi lại.
- Anh nói đúng. Ông ấy đang đứng! Biết đâu ồng ấy còn sống và đang cần chúng ta giúp đỡ! - Cô gọi xuống - Xin chào! Mi puó sentire? (2)
Không thấy có tiếng vọng nào trong hầm mộ ẩm thấp. Yên lặng hoàn toàn.
Vittoria quay sang cái thang gỗ ọp ẹp:
- Tôi xuống xem thế nào.
Langdon túm tay cô gái:
- Đừng! Nguy hiểm lắm. Để tôi xuống!
Lần này thì Vittoria không phản đối.
Chú thích
(1) Figlio di puttana: Con trai của kẻ ăn chơi.
(2) Mi puó sentire? - Có nghe thấy tôi nói không?
