Tác giả: Dan Brown
--18--
Viale Niccolò Machiavelli được xem là đại lộ đẹp nhất ở Florence. Với những khúc cong hình chữ S rất rộng uốn lượn qua cảnh quan um tùm cây cối cùng những bờ rào và hàng cây rụng lá theo mùa, con đường này là nơi yêu thích của những người đạp xe và người mê dòng xe Ferrari.
Sienna thành thục điều khiển chiếc Trike băng qua từng khúc quanh khi họ bỏ lại phía sau khu dân cư bẩn thỉu và tiến vào vùng không khí sạch sẽ, phủ kín tuyết của bờ tây thành phố. Họ vừa chạy qua một tháp đồng hồ nhà nguyện đang điểm đúng 8 giờ sáng.
Langdon bám chặt sau xe, tâm trí anh đang xoay mòng mòng với những hình ảnh khó hiểu về hỏa ngục của Dante… và gương mặt bí ẩn của người phụ nữ xinh đẹp tóc bạc mà anh vừa nhìn thấy. Bà ấy bị hai gã lính to lớn kẹp chặt ở băng ghế sau của xe thùng.
Dù bà ấy là ai, Langdon nghĩ thầm, lúc này bọn họ cũng đã giữ bà ấy.
“Người phụ nữ trên xe”, Sienna nói át tiếng động cơ chiếc Trike. “Anh có chắc đó chính là người phụ nữ trong ảo ảnh của anh không?”
“Chắc chắn.”
“Vậy nhất định anh đã từng gặp bà ấy vào một lúc nào đó trong hai ngày qua. Vấn đề là tại sao anh cứ liên tục nhìn thấy bà ấy… và tại sao bà ấy lại liên tục nhắc anh tìm kiếm và sẽ thấy.”
Langdon đồng ý. “Tôi không biết… tôi không nhớ tí gì về cuộc gặp với bà ấy, nhưng mỗi lần nhìn thấy gương mặt bà, tôi lại có cảm giác mãnh liệt rằng tôi cần giúp bà ấy.”
Rất xin lỗi! Rất xin lỗi!
Langdon bỗng tự hỏi phải chăng lời xin lỗi kỳ lạ của anh chính là dành cho người phụ nữ tóc bạc. Hay mình đã làm hỏng việc của bà ấy? Ý nghĩ đó lại hình thành một nút thắt trong lòng anh.
Langdon có cảm giác như thể kho vũ khí của anh đã bị mất một món quan trọng. Mình không nhớ gì cả. Langdon có khả năng nhớ chính xác mọi hình ảnh từ thời còn niên thiếu, vậy nên trí nhớ là thứ tài sản trí tuệ mà anh phải dựa vào nhiều nhất. Với một con người đã quen với việc nhớ được mọi chi tiết phức tạp của những gì mình nhìn thấy xung quanh, thì bị mất trí nhớ chẳng khác gì cố cho một máy bay hạ cạnh trong đêm tối mà không hề có rada.
“Có vẻ như cơ hội duy nhất của anh để tìm ra câu trả lời là giải mã bức Vực Địa ngục”, Sienna nói. “Cho dù nó ẩn chứa bí mật gì… dường như đó cũng chính là lý do anh bị săn đuổi.”
Langdon gật đầu, suy nghĩ về từ catrovacer được viết trên nền tranh - nơi có những xác người quằn quại trong Hỏa ngục của Dante.
Đột nhiên, một ý nghĩ rất rõ bật ra trong đầu Langdon.
Mình tỉnh dậy tại Florence…
Trên thế giới này, không có thành phố nào có quan hệ gần gũi với Dante hơn Florence. Dante Alighieri sinh ra ở Florence, lớn lên ở Florence. Theo truyền thuyết, ông phải lòng nàng Beatrice ở Florence, và bị đày ải khỏi quê nhà Florence, phải đi lang thang khắp miền quê nước Ý trong nhiều năm, với nỗi nhớ nhà da diết.
Ngươi sẽ rời bỏ mọi thứ ngươi yêu quý nhất, Dante viết về sự đày ải. Đây là chính là mũi tên đầu tiên mà cây cung đầy ải bắn đi.
Khi Langdon nhớ ra những lời ấy trong Khổ XVII của Thiên đàng, anh nhìn sang bên phải, có phóng tầm mắt qua sông Arno về phía những ngọn tháp phía xa của thành cổ Florence.
Langdon hình dung ra tổng thể của thành phố xưa - một mê cung toàn du khách, những chỗ đông nghịt, và ngựa xe hối hả qua những đường phố chật hẹp xung quanh nhà thờ lớn lừng danh, các bảo tàng, nhà nguyện và khu mua sắm của Florence. Anh phỏng đoán rằng nếu anh và Sienna rời khỏi chiếc Trike, hai người có thể mất tăm trong đám đông.
“Chúng ta cần tới thành cổ”, Langdon nói, “Nếu có câu trả lời thì đó chính là nơi có thể tìm ra. Thành cổ Florence là toàn bộ thế giới của Dante.”
Sienna gật đầu đồng ý và nói qua vai, “Chỗ đó cũng an toàn hơn – có nhiều nơi để ẩn nấp. Tôi sẽ đi tới cổng chào Porta Romana, và từ đó chúng ta có thể vượt sông”.
Sông, Langdon nghĩ với một thoáng lo lắng. Hành trình đi xuống địa ngục nổi tiếng của Dante cũng bắt đầu bằng việc vượt qua một con sông.
Sienna tăng ga, và khi cảnh vật vùn vụt trôi về phía sau, trong đầu Langdon điểm lại những hình ảnh của hỏa ngục, những người chết và đang hấp hối, mười rãnh Malebolge với vị bác sĩ dịch hạch cùng một từ lạ lùng - CATROVACER. Anh suy nghĩ về những từ viết vội góc dưới bức tranh Vực địa ngục - Chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết chóc - và băn khoăn không biết câu nói dữ dội đó có phải trích từ trường ca của Dante không.
Mình không nhận ra nó.
Langdon thuộc lòng tác phẩm của Dante, và khả năng xuất sắc của anh, với tư cách một nhà sử học nghệ thuật chuyên về biểu tượng, khiến nhiều lúc người ta phải mời đến anh giải thích vô số biểu tượng có sẵn trên thế giới của Dante. Thật trùng hợp, hoặc có lẽ gần như trùng hợp, anh từng có bài giảng về Hỏa ngục của Dante khoảng hai năm trước.
Dante thần thánh: Những biểu tượng của Địa ngục.
Dante Alighieri đã trở thành một trong những biểu tượng sùng bái đích thực của lịch sử, khuấy động việc thành lập các hội Dante trên khắp thế giới. Chi nhánh lâu đời nhất ở Mỹ được Henry Wadsworth Longfellow thành lập năm 1881 tại Cambridge, bang Massachusetts. Nhóm thi sĩ Fireside Poet nổi tiếng ở New England là nhóm đầu tiên ở Mỹ dịch Thần khúc, và bản dịch này vẫn nằm trong số những bản dịch được đánh giá cao và đọc nhiều nhất cho tới nay.
Là một sinh viên nổi tiếng về tác phẩm của Dante, Langdon từng được đề nghị diễn thuyết tại một sự kiện lớn do một trong những hội Dante lâu đời nhất thế giới chủ trì - Società Dante Alighieri Vienna. Sự kiện này được tổ chức tại Viện Hàn lâm Khoa học Vienna. Nhà tài trợ chính của sự kiện - một nhà khoa học giàu có và cùng là thành viên của hội Dante - đã tìm cách mượn hẳn giảng đường với hai nghìn chỗ ngồi của Viện.
Khi Langdon đến sự kiện đó, anh được chủ tọa hội thảo đón và dẫn vào trong. Lúc họ đi qua đại sảnh, Langdon không thể không chú ý đến năm từ được viết bằng kiểu chữ khổng lồ choán hết bức tường phía sau: NẾU CHÚA SAI THÌ SAO?
“Là một tác phẩm của Lukas Troberg”, vị chủ tọa nói nhỏ. “Dự án nghệ thuật mới nhất của chúng tôi. Anh nghĩ sao?”
Langdon nhìn dòng chữ đồ sộ, không biết phải phản ứng ra sao. “Ừm… nét bút của ông ấy rất phóng khoáng, nhưng khả năng kiểm soát chủ thể giả định của ông ấy dường như hơi yếu.”
Vị chủ tọa nhìn anh không hiểu. Langdon hy vọng cuộc tiếp xúc của anh với cử tọa sẽ khá hơn.
Cuối cùng, khi bước lên sân khấu, Langdon nhận được một tràng pháo tay nhiệt thành từ đám đông đứng kín trong phòng.
“Thưa quý ông, quý bà!”, Langdon bắt đầu nói, giọng anh vang lên trong loa. “Willkommen, bienvenue, welcome.”
Câu chào nổi tiếng từ Cabaret [13] khiến đám đông cười ồ tán thưởng.
“Tôi vừa được thông báo rằng cử tọa của chúng ta tối nay không chỉ có các hội viên Hội Dante, mà còn có nhiều nhà khoa học và sinh viên dự khán, những người có lẽ cũng đang khám phá Dante lần đầu tiên. Vì vậy, với những cử tọa quá bận học hành nên không đọc được các thiên trường ca Ý thời trung cổ, tôi nghĩ mình nên bắt đầu bằng phần giới thiệu tổng quan về Dante – cuộc đời, tác phẩm, và lý do tại sao ông được coi là một trong những nhân vật có ảnh hưởng nhất trong lịch sử.”
Tiếng vỗ tay lại vang lên.
Langdon trình diễn một loạt hình ảnh của Dante bằng một thiết bị điều khiển từ xa nhỏ xíu trong tay, đầu tiên là bức chân dung to bằng người thật của Andrea del Castagno vẽ thi sĩ đứng trong khung cửa, tay cầm một cuốn sách triết học.
“Dante Alighieri”, Langdon bắt đầu trình bày. “Nhà văn kiêm triết gia Florence này sống từ năm 1265 đến 1321. Trong bức chân dung này, giống như trong tất cả các bức vẽ khác, ông đội trên đầu một chiếc cappuccio màu đỏ - loại khăn trùm vừa khít đầu có vạt che tai - cùng áo choàng Lucca màu đỏ thẫm của ông, trở thành hình ảnh Dante được tái tạo nhiều nhất.”
Langdon chuyển tới chân dung Dante của Botticelli lấy từ Phòng trưng bày Uffizi, nhấn mạnh đến những đặc điểm đáng chú ý nhất của Dante là cằm bạnh và mũi khoằm. “Đây, gương mặt độc nhất vô nhị của Dante một lần nữa được khuôn bên trong chiếc cappuccio màu đỏ của ông, nhưng trong ví dụ này, Botticelli đã thêm một vòng nguyệt quế lên khăn của ông như một biểu tượng về năng lực về chuyên môn - trong trường hợp này là nghệ thuật thi ca - một biểu tượng truyền thống vay mượn từ Hy Lạp cổ đại và vẫn được sử dụng ngày nay trong các nghi thức tôn vinh những thi sĩ đoạt giải và cả những người giành giải Nobel.”
Langdon chuyển nhanh qua vài hình ảnh nữa, tất cả đều thể hiện Dante đội mũ trùm đỏ, áo thụng đỏ, đội vòng nguyệt quế, và có cái mũ rất nổi bật. “Và để tổng hợp cái nhìn của quý vị về Dante, thì đây là một bức tượng ở quảng trường Santa Croce… và, dĩ nhiên, cả bức bích họa nổi tiếng của Giotto ở Nhà nguyện Bargello.”
Langdon để nguyên hình ảnh bức bích họa của Giotto trên màn hình và tiến ra giữa sân khấu.
“Như các vị đương nhiên đã biết, Dante nổi tiếng nhất với kiệt tác văn học Thần khúc - một câu chuyện cực kỳ sinh động về chuyến du hành của tác giả vào địa ngục, vượt qua luyện ngục, và cuối cùng bước lên thiên đường để trò chuyện với Chúa. Theo những chuẩn mực hiện đại, Thần khúc chẳng có gì hài hước cả. Nó được coi là hài kịch vì một lý do hoàn toàn khác. Ở thế kỷ XIV, nền văn học Ý, theo yêu cầu, được chia thành hai loại: Bi kịch, đại diện cho văn học cấp cao, được viết bằng tiếng Ý chính thống, hài kịch, đại diện cho văn học cấp thấp, được viết bằng phương ngữ và dành cho đại chúng.”
Langdon chuyển các cảnh sang bức bích họa của Michelino, minh họa Dante đang đứng bên ngoài tường thành Florence, trên tay cầm một bản Thần khúc. Ở phía sau, ngọn núi bậc thang của luyện ngục vươn cao, vượt lên những cánh cổng địa ngục. Hiện nay bức vẽ được treo tại nhà thờ lớn Santa Maria del Fiore - được biết đến nhiều hơn ở Florence với tên gọi Il Duomo.
“Như quý vị có thể đoán ra từ nhan đề”, Langdon tiếp tục. “Thần khúc được viết bằng phương ngữ, thứ ngôn ngữ của giới bình dân. Nó hòa trộn tôn giáo, lịch sử, chính trị, triết học, và cả bình luận xã hội vào một tấm thảm hư cấu mà, dù rất uyên bác, quần chúng nhân dân vẫn dễ dàng lĩnh hội được nó. Tác phẩm trở thành một trụ cột quan trọng của văn hóa Ý đến mức phong cách hành văn của Dante được công nhận như là quy chuẩn cho ngôn ngữ Ý hiện đại.”
Langdon dừng lại một lúc để tạo hiệu ứng rồi nói nhỏ. “Thưa các bạn, không thể nào đánh giá hết được tầm ảnh hưởng từ tác phẩm của Dante Alighieri. Xuyên suốt lịch sử, có lẽ chỉ với ngoại lệ duy nhất là Kinh Thánh, không một tác phẩm văn học, nghệ thuật, âm nhạc hoặc văn học nào truyền cảm hứng cho nhiều tác phẩm ca tụng, mô phỏng, biến thể, và chú giải hơn Thần khúc.”
Sau khi liệt kê một loạt tên tuổi nhà soạn nhạc, họa sĩ và tác giả trứ danh đã sáng tạo những tác phẩm dựa trên thiên trường ca của Dante, Langdon lướt nhìn đám đông. “Xin hãy cho tôi biết, có tác giả nào ở đây tối nay không?”
Gần như một phần ba số cánh tay giơ lên. Langdon nhìn thấy sững sờ. Ôi chao, hoặc đây là nhóm cử tọa tài năng nhất trên trái đất hoặc bài trình bày điện tử hôm nay đã thật sự phát huy tác dụng.
“Chà, như tất cả các quý vị tác giả đã biết, một nhà văn không đánh giá điều gì cao hơn lời khen ngợi sách - những lời bình luận dù chỉ một dòng của một nhân vật có ảnh hưởng cũng giúp người khác muốn mua tác phẩm của quý vị. Và, ở thời trung cổ, cũng đã có những lời khen ngợi sách. Dante đã giành được không ít lời như vậy.”
Langdon đổi hình ảnh. “Quý vị thấy thế nào nếu có được dòng này trên áo bìa sách của mình?”
“Trên trái đất này chưa từng có nhân vật nào vĩ đại hơn ông ấy.” - Michelangelo.
“Vâng”, Langdon nói, “chính là ngài Michelangelo mà tất cả các vị đều biết qua Nhà nguyện Sistine và bức tượng David. Không chỉ là họa sĩ và nhà điêu khắc bậc thầy, Michelangelo còn là một thi sĩ kiệt xuất, xuất bản gần ba trăm bài thơ, trong đó gồm một bài có nhan đề Dante, dành tặng cho người có cái nhìn khắc nghiệt về địa ngục, nguồn cảm hứng cho tác phẩm Phán quyết cuối cùng của mình. Và nếu quý vị không tin tôi, xin hãy đọc Khổ III trong Hỏa ngục của Dante và sau đó tới thăm Nhà nguyện Sistine, quý vị sẽ thấy hình ảnh rất quen thuộc này ngay phía trên bàn thờ”.
Langdon chuyển tới hình ảnh chi tiết kinh khủng về một con thú vạm vỡ đang vung mái chèo khổng lồ về phía đám người co rúm lại với nhau. “Đây là gã chèo đò địa ngục của Dante, Charon, đang dùng mái chèo đánh đập những hành khách không theo hàng lối.”
Lúc này Langdon chuyển sang một cảnh mới - chi tiết thứ hai về bức Phán quyết cuối cùng của Michelangelo - một người đang bị đóng đinh lên thánh giá. “Đây là nhân vật Haman Xấu xa [14], người mà theo Kinh Thánh, bị treo cổ tới chết. Tuy nhiên, trong trường ca của Dante, ông ta bị đóng đinh lên thánh giá. Như quý vị có thể thấy ở đây, trong Nhà nguyện Sistine, Michelangelo chọn câu chuyện của Dante thay cho câu chuyện trong Kinh Thánh”, Langdon cười và hạ giọng thì thào. “Xin đừng nói với Đức Thánh Cha!”
Đám đông cười ồ.
“Hỏa ngục của Dante tạo ra một thế giới đau đớn và thống khổ vượt xa mọi tưởng tượng trước đó của con người, và đúng là tác phẩm của ông định nghĩa cho những cái nhìn hiện đại của chúng ta về địa ngục.” Langdon ngừng lại. “Và xin hãy tin tôi, Nhà thờ Công giáo phải cảm ơn Dante rất nhiều vì điều đó. Hỏa ngục của ông hăm dọa những tín đồ sùng đạo suốt nhiều thế kỷ, và rõ ràng làm cho số người sợ hãi chăm đi lễ nhà thờ tăng lên gấp ba.”
Langdon chuyển hình ảnh. “Và điều này dẫn tới lý do tại sao tất cả chúng ta ở đây tối nay.”
Màn hình lúc này hiển thị nhan đề bài giảng của anh: DANTE THẦN THÁNH: NHỮNG BIỂU TƯỢNG CỦA ĐỊA NGỤC.
“Hỏa ngục của Dante là một nơi rất phong phú về biểu tượng và hình tượng, đến mức tôi thường dành cả một khóa học kéo dài hết học kỳ cho đề tài này. Và tối nay, tôi nghĩ không có cách nào để tiết lộ những biểu tượng trong Hỏa ngục của Dante tốt hơn là sánh bước cùng ông ấy… qua những cánh cổng địa ngục.”
Langdon bước tới mép sân khấu và quan sát đám đông. “Bây giờ, nếu chúng ta có kế hoạch làm một cuộc du ngoạn qua địa ngục, tôi đề xuất chúng ta nên sử dụng bản đồ. Và không có tấm bản đồ nào vẽ địa ngục của Dante hoàn chỉnh hơn tấm do Sandro Botticelli vẽ.”
Anh bấm điều khiển, và bức Vực Địa ngục kinh khủng của Botticelli hiện ra trước mắt đám đông. Anh nghe rõ tiếng vài người xuýt xoa khi mọi người nhìn thấy những cảnh hãi hùng đang diễn ra trong cái hang ngầm hình phễu.
“Không như một số họa sĩ, Botticelli cực kỳ trung thành trong cách hiểu văn bản Dante. Thực tế, ông ấy bỏ rất nhiều thời gian đọc Dante, đến mức nhà sử học nghệ thuật vĩ đại Giorgio Vasari đã phải nói rằng sự ám ảnh của Botticelli đối với Dante đã dẫn tới ‘những xáo trộn nghiêm trọng trong đời sống của ông’. Botticelli sáng tạo hơn hai chục tác phẩm nữa liên quan đến Dante, nhưng bản đồ này là tác phẩm nổi tiếng nhất.”
Rồi Langdon xoay người, chỉ vào góc trên bên trái của bức vẽ. “Hành trình của chúng ta sẽ bắt đầu từ chỗ này, bên trên mặt đất, nơi quý vị có thể nhìn thấy Dante trong sắc phục đỏ, cùng với người dẫn đường của mình, Virgil, đứng bên ngoài những cánh cổng địa ngục. Từ đây, chúng ta sẽ đi xuống dưới, qua chín tầng hỏa ngục của Dante, và cuối cùng đối diện với…”
Langdon nhanh chóng chuyển sang cảnh mới - hình phóng to quỷ Satan đúng như mô tả của Botticelli trong bức tranh này - một Quỷ vương ba đầu kinh khủng đang ăn thịt ba người, mỗi miệng một người.
Nghe rõ đám đông ồ lên.
“Chỉ là lướt qua những điểm thú vị sắp tới”, Langdon tuyên bố. “Nhân vật đáng sợ này chính là nơi hành trình tối nay kết thúc. Đây là tầng địa ngục thứ Chín, nơi quỷ Satan cư trú. Tuy nhiên…”, Langdon dừng lại. “Đến được đó cũng khá thú vị, cho nên chúng ta quay trở lại một chút… trở lại những cánh cổng địa ngục, nơi hành trình của chúng ta bắt đầu.”
Langdon chuyển thêm một cảnh nữa - một tờ in thạch bản của Gustave Doré mô tả lối vào dạng hầm tối được khoét trên bề mặt vách đá ảm đạm. Dòng chữ khắc phía trên lối vào đề: VỨT BỎ MỌI HY VỌNG, NHỮNG KẺ BƯỚC VÀO ĐÂY.
“Vì vậy…”, Langdon mỉm cười nói. “Chúng ta đi vào chứ?”
o O o
Tiếng bánh xe rít lên đâu đó rất to, và cử tọa trước mắt Langdon tan biến. Anh cảm thấy mình chúi về phía trước, và đập mạnh vào lưng Sienna khi chiếc Trike phanh kít lại giữa Đại lộ Viale Machiavelli.
Langdon loạng choạng, đầu vẫn đang nghĩ tới những cánh cổng địa ngục đầy đe dọa trước mắt mình. Khi lấy lại tư thế, anh nhận ra ngay mình đang ở đâu.
“Có chuyện gì vậy?”, anh hỏi.
Sienna chỉ về phía Cổng chào Porta Romana - cánh cổng bằng đá cổ kính được xem như lối vào thành cổ Florence - ở phía trước khoảng ba trăm thước. “Robert, có chuyện rồi!”
--19--
Đặc vụ Brüder đứng trong căn hộ tồi tàn và cố gắng hiểu những gì anh ta đang nhìn thấy. Ai lại sống trong chỗ của nợ này chứ? Nơi đây được bài trí sơ sài và xập xệ, giống như một phòng ký túc đại học được đặt vào nhà khoa vậy.
“Đặc vụ Brüder”, một người của anh ta gọi vọng lại từ trong sảnh. “Ngài cần xem thứ này.”
Trong lúc bước tới sảnh, Brüder thắc mắc liệu cảnh sát địa phương đã bắt được Langdon chưa. Brüder muốn giải quyết cuộc khủng hoảng này “tại chỗ”, nhưng việc để Langdon chạy thoát khiến anh ta không còn sự lựa chọn nào ngoài đề nghị cảnh sát địa phương hỗ trợ và đặt trạm kiểm soát trên đường. Một chiếc xe máy nhanh nhẩu trên đường phố của như mê cung của Florence sẽ dễ dàng tránh khỏi đội xe thùng của Brüder, với những ô cửa kính bằng polycarbonate nặng nề và lốp xe đặc chống thủng giúp họ không dễ bị xâm hại nhưng lại di chuyển vô cùng ì ạch. Cảnh sát Ý có tiếng là không chịu hợp tác với người ngoài, nhưng tổ chức của Brüder có ảnh hưởng rất lớn - cảnh sát, các lãnh sự quán, đại sứ quán. Khi bọn ta có yêu cầu, không ai dám thắc mắc.
Brüder bước vào phòng làm việc nhỏ nơi người của anh ta đứng trước một máy tính đã mở và gõ lên lớp lót cao su. “Đây chính là máy anh ta đã sử dụng”, người kia nói. “Langdon dùng nó để truy cập vào email của mình và thực hiện một số lệnh tìm kiếm. Các tệp tin vẫn còn lưu dấu vết.”
Brüder tiến lại phía bàn.
“Có vẻ đây không phải là máy tính của Langdon”, kỹ thuật viên nói. “Nó được đăng ký cho ai đó có tên viết tắt là S.C, tôi sẽ có tên đầy đủ ngay thôi.”
Trong lúc Brüder chờ đợi, đôi mắt anh ta bị thu hút vào một tờ báo trên bàn. Anh ta nhấc lên, giở nhanh qua tập báo - một quyển chương trình biểu diễn cũ của Nhà hát London Glode và một loạt bài báo. Brüder càng đọc mắt càng mở to.
Brüder cầm theo tập tài liệu quay trở lại sảnh và yêu cầu gọi cho sếp của mình. “Tôi Brüder đây”, anh ta nói “Tôi nghĩ mình đã có nhận dạng của người đang giúp đỡ Langdon.”
“Là ai?”, giọng sếp hỏi lại.
Brüder từ từ thở hắt ra. “Ngài sẽ không tin nổi đâu!”
o O o
Cách đó hai dặm, Vayentha rạp người trên chiếc BMW phóng như bay. Những xe cảnh sát phóng ào qua ả theo hướng ngược lại, hú còi inh ỏi.
Ta đã bị từ chối, ả nghĩ thầm.
Bình thường, độ rung nhè nhẹ từ động cơ bốn thì của chiếc xe phân phối lớn giúp thần kinh ả bình tĩnh lại. Nhưng hôm nay thì không.
Vayentha đã làm việc cho Consortium mười hai năm, leo từ địa vị nhân viên hỗ trợ mặt đất lên điều phối viên chiến lược, rồi lên đến đặc vụ ngoại tuyến cấp cao. Sự nghiệp là tất cả những gì ta có. Các đặc vụ ngoại tuyến phải chấp nhận một cuộc sống bí mật, đi lại nhiều, những nhiệm vụ kéo dài, tất cả đều nhằm tránh bất kỳ mối quan hệ hay cuộc sống bên ngoài nào.
Ta đã nhận nhiệm vụ này suốt một năm, ả nghĩ thầm, vẫn không sao tin được Thị Trưởng lại bấm nút và từ chối ả một cách đột ngột như vậy.
Suốt mười hai tháng, Vayentha giám sát các giao dịch hỗ trợ cho một khách hàng của Consortium - một thiên tài lập dị có đôi mắt màu xanh lục chỉ muốn “biến mất” một thời gian để có thể làm việc mà không bị đối thủ và kẻ thù quấy rầy. Ông ta rất hiếm khi đi lại, và luôn vô hình, nhưng chủ yếu ông ta làm việc. Vayentha không được biết bản chất công việc của người này vì hợp đồng của ả chỉ đơn giản là giữ bí mật cho khách hàng trước những nhân vật thế lực đang cố tìm ra ông ta.
Vayentha đã thực hiện nhiệm vụ với mức độ chuyên nghiệp tuyệt vời, và mọi thứ đều diễn ra hoàn hảo.
Hoàn hảo, tức là… cho đến tối qua.
Trạng thái cảm xúc cùng sự nghiệp của Vayentha lao dốc kể tử lúc đó.
Giờ ta là kẻ ngoài cuộc.
Nguyên tắc từ chối, nếu được vận hành, đòi hỏi đặc vụ ngay lập tức rời bỏ nhiệm vụ hiện tại của mình và rút khỏi “đấu trường” tức thì. Nếu đặc vụ bị bắt, Consortium sẽ từ chối mọi liên can với đặc vụ. Các đặc vụ đều biết rõ là đừng cố ăn may với tổ chức, vì họ đều tận mắt chứng kiến khả năng của tổ chức trong việc thay đổi thực tế thành bất kỳ điều gì phù hợp với nhu cầu của nó.
Vayentha chỉ mới biết có hai đặc vụ bị từ chối. Rất lạ là ả chưa từng thấy họ xuất hiện trở lại nữa. Ả luôn cho rằng họ đã bị triệu tập để giải trình chính thức và sa thải, với yêu cầu không bao giờ được liên lạc lại với các nhân viên của Consortium.
Nhưng lúc này Vayentha không chắc như vậy.
Ta đang quan trọng hóa vấn đề thôi, ả cố tự nhủ mình. Cho đến giờ các giải pháp của Consortium đều tao nhã hơn một sát thủ máu lạnh rất nhiều.
Cho dù như vậy, ả vẫn cảm thấy một cơn ớn lạnh chạy khắp cơ thể.
Bản năng thúc giục ả thoát khỏi mái khách sạn mà không để ai phát hiện ngay khi ả nhìn thấy nhóm của Brüder đến, và ả thắc mắc không biết có phải chính bản năng đó đã cứu mạng ả không.
Giờ thì không ai biết ta đang ở đâu.
Lúc Vayentha phóng lên phía bắc trên Đại lộ Viale del Poggio Imperiale, ả nhận ra đâu là sự khác biệt trong vài tiếng đồng hồ qua. Đêm qua, ả lo lắng giữ công việc của mình. Còn bây giờ, ả lo lắng bảo vệ tính mạng.
--20--
Florence từng là một thành phố có tường bao, lối vào chính là cổng chào bằng đá Porta Romana, được xây dựng năm 1326. Trong khi hầu hết tường bao của thành phố đã bị hủy nhiều thế kỷ trước, cổng Porta Romana vẫn còn nguyên, và ngày nay, giao thông đi vào thành phố đều thông qua các lối thông hình vòm sâu hoắm xuyên qua phần tường phòng vệ đồ sộ.
Bản thân cổng thành cũng là một rào chắn cao mười lăm mét bằng gạch và đá cổ xưa, với lối đi chính vẫn còn nguyên hai cánh cổng gỗ có đóng đinh đồ sộ luôn mở cho xe cộ đi qua. Sáu trục đường chính hội tụ ở ngay trước những cánh cửa này, nối thành một vòng xuyến với ô cỏ trung tâm có đặt bức tượng lớn của nghệ sĩ Pistoletto, mô tả một phụ nữ đang rời khỏi cổng thành, đầu đội một bó cỏ rất lớn.
Mặc dù hiện nay, địa điểm này giống như một cơn ác mộng, giao thông ồn ào hơn nhưng tòa cổng thành mộc mạc của Florence lại từng là địa điểm của Fiera dei Contratti - Khu đấu xảo khế ước - nơi những người cha bán con gái mình cho những cuộc hôn nhân theo giao ước, thường là buộc họ nhảy múa gợi dục để giành được những món hồi môn cao hơn.
Sáng nay, còn cách cổng thành vài trăm bước, Sienna bất ngờ phanh lại và hốt hoảng chỉ tay. Langdon ngồi ở ghế sau chiếc Trike nhìn về phía trước và lập tức hiểu ra nỗi lo sợ của cô. Trước mặt họ, một hàng dài xe cộ chạy rà rà rồi dừng lại. Xe cộ ở vòng xuyến bị ách lại vì một rào chắn của cảnh sát và lúc này có thêm vài xe cảnh sát khác chạy tới. Những sĩ quan có vũ trang đi từ xe này tới xe khác, hỏi han.
Không thể là vì chúng ta được, Langdon nghĩ bụng. Không lẽ nào?
Một người đi xe đạp mồ hôi nhễ nhại đạp xe về phía họ, rời xa đám xe cộ, ngược lên phía Đại lộ Viale Machiavelli. Anh ta điều khiển loại xe đạp nằm ngả người, đôi chân trần của anh ta duỗi dài phía trước.
Sienna gọi to về phía anh ta bằng tiếng Ý. “Có chuyện gì thế?”
“Tôi không biết!”, anh ta hét to đáp lại, trông đầy vẻ lo lắng. “Cảnh sát!” Anh ta hối hả đạp qua, vẻ rất muốn thoát khỏi khu vực này.
Sienna ngoảnh lại phía Langdon, vẻ mặt đang lại. “Chặn đường. Quân cảnh.”
Có tiếng còi rít lên phía sau họ một quãng, Sienna thừ ra trên yên xe, đăm đăm nhìn ngược trở lại phía Đại lộ Viale Maachiavelli, cố giấu vẻ sợ hãi.
Chúng ta bị kẹt ở giữa rồi, Langdon thầm nghĩ, phóng mắt nhìn khắp khu vực xem có lối thoát nào không - một giao lộ, công viên, lối chạy xe - nhưng tất cả những gì anh thấy là những tư gia ở mé bên trái và một bức tường đá cao ngất bên phải.
Tiếng còi hú nghe to hơn.
“Lên kia”, Langdon hối thúc, chỉ tay về phía một công trường xây dựng vắng vẻ cách đó gần ba mươi thước, nơi cái máy trộn bê tông di động ít nhiều cũng có thành một chỗ ẩn náu.
Sienna cho xe lao lên vỉa hè và phóng nhanh về phía công trường. Họ đỗ phía sau máy trộn, nhưng nhận ra rằng nó chỉ đủ che kín chiếc Trike mà thôi.
“Theo tôi,” Sienna nói, chạy nhanh về phía một kho nhỏ chứa dụng cụ nép trong bụi cây sát bức tường đá.
Đó đâu phải là kho chứa dụng cụ, Langdon nhận ra ngay, mũi nhăn lại khi họ đến gần hơn. Đó là buồng vệ sinh di động mà.
Khi Langdon và Sienna tới bên ngoài buồng vệ sinh hóa chất của công nhân xây dựng, họ nghe rõ tiếng xe cảnh sát tiến lại gần phía sau. Sienna giật mạnh tay nắm cửa, nhưng nó không nhúc nhích. Một sợi xích nặng trịch cùng chiếc chìa khóa khóa chặt cánh cửa. Langdon nắm lấy cánh tay Sienna và kéo cô vòng ra phía sau buồng vệ sinh, đẩy cô vào khoảng trống rất hẹp giữa buồng vệ sinh và bức tường đá. Hai người vừa may lọt được vào đó, nhưng không khí thì rất hôi thối và khó chịu.
Langdon len vào ngay sau cô vừa lúc một chiếc Subaru Forester đen sì với dòng chữ CẢNH SÁT lồ lộ bên sườn xuất hiện. Chiếc xe từ từ lăn bánh qua chỗ họ.
Quân cảnh Ý, Langdon nghĩ, lòng đầy hoài nghi. Anh thắc mắc không biết những sĩ quan này có được lệnh nổ súng ngay khi nhìn thấy đối tượng không.
“Ai đó đang ráo riết tìm chúng ta”, Sienna thì thào. “Và bằng cách nào đó họ đã làm được”
“Nhờ GRS chăng?”, Langdon nói to. “Có lẽ là cái máy chiếu có thiết bị dò tìm bên trong?”
Sienna lắc đầu. “Tin tôi đi, nếu thứ đó có thể lần tìm được thì cảnh sát đã ở ngay trên đầu chúng ta rồi.”
Langdon thay đổi vóc người cao lớn của mình, cố gắng cho thoải mái hơn trong không gian chật hẹp xung quanh. Anh thấy mình mặt đối mặt với một bức graffiti theo phong cách nhã nhặn được vẽ vội phía sau buồng vệ sinh.
Cứ để nó cho người Ý.
Hầu hết các buồng vệ sinh di động ở Mỹ kín đặc những hình vẽ ngông nghênh, nhang nhác giống những cặp vú hoặc dương vật to tướng. Còn hình graffiti trên buồng vệ sinh này trong giống tập vở nháp của một sinh viên nghệ thuật hơn – một con mắt người, một bàn tay được khắc họa khá rõ nét, một người nhìn nghiêng, và một con rồng rất bay bướm.
“Tình trạng phá hoại tài sản tại Ý không phải ở đâu cũng giống thế này”, Sienna nói, rõ ràng là đã đọc được ý nghĩ của anh. “Viện Nghệ thuật Florence ở ngay phía bên kia bức tường đá này.”
Như để khẳng định cho lời nói của Sienna, một nhóm sinh viên xuất hiện cách đó một quãng, thong thả tiến về phía họ cùng với đồ nghề nghệ thuật trên tay. Họ đang nói chuyện phiếm, châm thuốc hút, và tỏ vẻ ngạc nhiên về thứ đang chặn đường mình tại Porta Romana.
Langdon và Sienna khom xuống thấp hơn để tránh khỏi tầm nhìn của nhóm sinh viên, và trong lúc làm như vậy, bất ngờ một ý nghĩ ký lạ nảy ra với Langdon.
Những kẻ tội đồ bị chôn nửa người với đôi chân thò lên không trung.
Có lẽ nó nảy ra từ cái mùi chất thải của con người, hoặc có lẽ từ anh chàng đạp xe với đôi chân trần khua khoắng trước mặt, nhưng cho dù lý do là gì thì Langdon cũng nhớ đến cái thể giới kinh khủng ở Malebolge và những đôi chân trần chổng ngược thò lên khỏi mặt đất.
Anh đột ngột ngoảnh lại người bạn đồng hành. “Sienna, trong bản Vực Địa ngục của chúng ta, những đôi chân chổng ngược ở rãnh thứ mười phải không nhỉ? Tầng thấp nhất của Malebolge ấy?”
Sienna nhìn anh ngơ ngác, như thể thời điểm này không phải lúc. “Đúng, ở dưới cùng.”
Trong chớp mắt, Langdon quay trở lại Vienna lúc đang có bài giảng. Anh đang đứng trên sân khấu, chỉ còn một lúc nữa là đến phần kết thúc, và vừa cho cử tọa xem bức chạm của Doré mô tả Geryon - con quái vật có cánh với cái đuôi chích chất độc ngay phía trên Malebolge.
“Trước khi chúng ta gặp Satan”, Langdon tuyên bố, giọng nói trầm ấm của anh vang rền trên loa, “chúng ta phải đi qua mười rãnh Malebolge, nơi trừng phạt những kẻ gian dối - những kẻ cố ý phạm tội”.
Langdon thay đổi ảnh chiếu để cho cử tọa xem một chi tiết về Malebolge và sau đó lần lượt dẫn dắt họ đi xuống qua từng rãnh. “Từ trên xuống dưới chúng ta có: Những kẻ lừa gạt bị quỷ sứ đánh đập… những kẻ nịnh bợ ngoi ngóp trong phân người… bọn trục lợi trong giới tăng lữ bị chôn ngược nửa người, chân thò lên không… đám phù thủy bị vặn ngược đầu ra sau… các chính trị gia tham nhũng trong bể hắc ín sôi sùng sục… bọn đạo đức giả phải mặc áo choàng bằng chì nặng nề… những tên trộm cắp bị rắn cắn… các vị chưởng lý dối trá bị lửa thiêu… những kẻ gieo rắc xích mích bị quỷ sứ phanh thây… và cuối cùng là những kẻ dối trá, bị các chứng bệnh ngoài sức tưởng tượng.” Langdon quay lại phía cử tọa. “Chắc chắn Dante dành rãnh cuối cùng này cho những kẻ dối trá vì đã có rất nhiều điều dối trá được nói ra liên quan đến ông, khiến ông bị trục xuất khỏi quê hương Florence yêu dấu của mình.”
“Anh Robert?”, giọng Sienna vang lên.
Langdon giật mình trở về với hiện tại.
Sienna đang đăm đăm nhìn anh có chút ngạc nhiên. “Chuyện gì thế?”
“Bản Vực Địa ngục của chúng ta”, anh nói đầy phấn khích. “Tác phẩm đã bị thay đổi!” Anh moi máy chiếu từ túi áo khoác và lắc thật mạnh hết mức trong không gian chật hẹp. Viên bi trộn kêu xè xè rất to, nhưng những tiếng còi hú đã át tất cả. “Người nào tạo ra hình ảnh này đã sắp xếp lại trật tự các tầng ở Malebolge!”
Khi máy chiếu bắt đầu sáng lên, Langdon chĩa nó về bề mặt bằng phẳng trước mặt họ. Vực địa ngục xuất hiện, sáng rõ trong quầng sáng lờ mờ.
Botticelli hiện trên một cái buồng vệ sinh hóa chất, Langdon thầm nghĩ, cảm thấy xấu hổ. Đây chắc chắn là nơi kinh tởm nhất mà một tác phẩm của Botticelli từng được trình diễn. Langdon đưa mắt xuống dưới, qua hết mười rãnh và bắt đầu gật gù đầy phấn khích.
“Đúng rồi!”, anh kêu lên, “Bản này sai! Rãnh cuối cùng ở Malebolge lẽ ra phải toàn những người bệnh tật, chứ không phải những người bị chôn ngược đầu. Tầng thứ mười dành cho những kẻ dối trá, không phải cho bọn trục lợi trong giới tăng lữ!”
Trông Sienna đầy tò mò. “Nhưng… tại sao ai đó lại thay đổi chi tiết ấy chứ?”
“Catrovacer”, Langdon thì thào, mắt nhìn những chữ cái nhỏ xíu đã được thêm vào mỗi tầng. “Tôi không nghĩ đó là những gì từ này thật sự muốn ám chỉ.”
Bất chấp vết thương đã xóa sạch trí nhớ của Langdon về hai ngày qua, giờ đây anh vẫn cảm thấy đầu óc mình làm việc rất tốt. Anh nhắm mắt lại và hình dung ra cả hai bản Vực Địa ngục trong đầu để phân tích những điểm khác biệt. Các thay đổi ở Malebolge không nhiều như Langdon tưởng… và anh cảm thấy như có một tấm rèm bất ngờ được vén lên.
Đột nhiên, mọi thứ sáng rõ như pha lê.
Hãy tìm kiếm và anh sẽ tìm thấy.
“Thế nào?”, Sienna háo hức.
Miệng Langdon khô khốc. “Tôi biết tại sao mình lại ở Florence rồi.”
“Thật chứ?”
“Phải, và tôi biết lẽ ra tôi phải đến chỗ nào.”
Sienna nắm lấy cánh tay anh. “Chỗ nào?!”
Langdon cảm thấy như thể bàn chân anh vừa chạm xuống một nền đất rắn chắc lần đầu tiên kể từ lúc anh tỉnh lại trong bệnh viện. “Mười chữ cái này”, anh thì thào. “Thực tế chúng chỉ tới một vị trí chính xác trong thành cổ này. Đây là nơi tìm ra câu trả lời.”
“Chỗ nào trong thành cổ?”, Sienna giục. “Anh đã nghĩ ra được gì rồi?”
Có những tiếng cười vang lên từ mé bên kia buồng vệ sinh. Một nhóm sinh viên nghệ thuật nữa đang đi ngang qua, cười đùa và huyên thuyên bằng đủ thứ ngôn ngữ. Langdon thận trọng nhìn qua buồng vệ sinh, dõi theo bước họ đi. Rồi anh quan sát đám cảnh sát. “Chúng ta phải tiếp tục di chuyển. Tôi sẽ giải thích ở trên đường.”
“Trên đường ư?”, Sienna lắc đầu. “Chúng ta sẽ chẳng bao giờ lọt qua được Porta Romana.”
“Cứ ở yên đây trong ba mươi giây”, anh bảo cô, “sau đó theo tôi”.
Nói xong, Langdon lách ra ngoài, bỏ mặc người bạn mới ngơ ngác ở lại một mình.
--21--
“Xin lỗi!”, Robert Langdon đuổi theo nhóm sinh viên. “Xin thứ lỗi!”
Tất cả bọn họ quay lại và Langdon giả bộ như nhìn xung quan một lượt như một du khách bị lạc đường.
“Học viện Nghệ thuật Quốc gia ở đâu nhỉ?”, Langdon hỏi bằng thứ tiếng Ý nhát gừng.
Một cậu chàng xăm trổ thản nhiên rít một điếu thuốc và đáp lại vẻ không mấy thân thiện, “Chúng tôi không nói tiếng Ý”. Giọng điệu cậu ta mang ngữ điệu Pháp.
Một cô gái trách móc cậu bạn xăm trổ và lịch sự chỉ tay dọc theo bức tường dài về phía Porta Romana. “Quá về phía kia, cứ đi thẳng về phía trước.”
“Cứ đi thẳng về phía trước”, Langdon dịch lại. “Rất cảm ơn!”
Đúng lúc đó, Sienna xuất hiện mà không để ai nhìn thấy từ phía sau buồng vệ sinh và tiến lại. cô gái ba mươi hai tuổi yểu điệu bước đến gần nhóm sinh viên, Langdon đặt một bàn tay lên vai cô. “Đây là em gái tôi, Sienna. Cô ấy là giáo viên nghệ thuật.”
Cậu trai xăm trổ lầm bẩm “T-I-L-F [15]”, và đám bạn trai của cậu ta cười phá lên.
Langdon mặc kệ bọn họ. “Chúng tôi đến Florence để nghiên cứu những địa điểm khả dĩ, chuẩn bị cho một năm giảng dạy ở nước ngoài. Chúng tôi đi cùng các bạn có được không?”
“Được thôi ạ”, cô gái người Ý mỉm cười nói.
Khi cả nhóm tiến về phía cảnh sát ở Porta Romana, Sienna đã say sưa trò chuyện cùng đám sinh viên còn Langdon lẩn vào giữa nhóm, cúi thấp xuống, cố gắng không để lọt vào tầm nhìn.
Hãy tìm kiếm và anh sẽ thấy, Langdon nghĩ thầm, mạch đập của anh rộn lên vì cảm giác phấn khích khi hình dung ra mười rãnh ở Malebolge.
Catrovacer. Mười chữ cái này, Langdon nhận ra, đặt ở lõi một trong những bí mật khó hiểu nhất trong thế giới nghệ thuật, một câu đó trải qua hàng thế kỷ nhưng vẫn chưa có lời giải. Năm 1563, mười chữ cái này được dùng để đánh vần một thông điệp cao tít trên bức tường bên trong Cung điện Vecchio nổi danh của Florence, được viết cách mặt đất khoảng mười hai mét, khó lòng nhìn thấy được nếu không có ống nhòm. Nó vẫn giấu mình ở đó cho tới những năm 1970, khi một thầy thuốc chẩn bệnh giờ đây đã nổi danh phát hiện ra, và ông đã mất nhiều thập kỷ cố gắng khám phá ý nghĩa của nó. Mặc dù có nhiều giả thuyết khác nhau, nhưng cho tới ngày nay ý nghĩa của thông điệp vẫn là một bí ẩn.
Với Langdon, bức mật mã giống như một sân chơi quen thuộc - một bến cảng an toàn để tránh khỏi vùng biển xa lạ đang nổi sóng này. Rốt cuộc, lịch sử nghệ thuật và những bí ẩn cổ xưa mới là lãnh địa thật sự của Langdon chứ không phải các ống nghiệm chất độc sinh học và súng ống.
Phía trước, lại có thêm xe cảnh sát bắt đầu đổ về Porta Romana.
“Chúa ơi”, cậu trai xăm trổ nói. “Người họ đang săn tìm chắc phải làm việc gì đó rất kinh khủng.”
Cả nhóm đi tới cổng chính của Học viện Nghệ thuật bên tay phải, nơi một đám đông sinh viên đã tụ tập để xem sự việc diễn ra ở Porta Romana. Nhân viên bảo vệ hưởng mức lương tối thiểu của nhà trường liếc nhìn thẻ sinh viên một cách qua loa chiếu lệ lúc đám sinh viên ồ ạt tràn vào trong, nhưng rõ ràng anh ta chú ý đến những gì đang diễn ra cùng với đám cảnh sát hơn.
Có tiếng phanh xe rít lên, vang khắp quảng trường khi một xe thùng màu đen đã quá quen thuộc đỗ xịch tại Porta Romana.
Langdon không cần nhìn lần thứ hai.
Không nói một lời, anh và Sienna chớp lấy cơ hội, lẻn qua cổng cùng với những người bạn mới của họ.
Con đường đi vào Học viện Nghệ thuật Quốc gia đẹp đến ngỡ ngàng, gần như vương giả. Những cây sồi sum suê cành lá, tạo thành một vòm lá khuôn lấy tòa nhà ở phía xa - một cấu trúc đồ sộ sơn vàng đã ngả màu, với một vòm cổng ba lối vào và một bãi cỏ hình bầu dục trải rộng.
Langdon biết rõ tòa nhà này được đặt mua, giống như rất nhiều tòa nhà khác trong thành phố, bởi một triều đại nổi tiếng không kém từng thống trị chính giới Florence trong bao thế kỷ XV, XVI và XVII.
Gia tộc Medici.
Chỉ riêng tên gọi đó đã trở thành một biểu tượng của Florence. Suốt giai đoạn trị vì kéo dài ba thế kỷ, gia tộc Medici đã tích lũy được số tài sản và có tầm ảnh hưởng không sao hình dung nổi, đồng thời sản sinh ra bốn giáo hoàng, hai hoàng hậu của nước Pháp, và cơ sở tài chính lớn nhất châu Âu. Cho tới ngày này, những ngân hàng hiện đại vẫn sử dụng phương pháp kế toán do gia tộc Medici nghĩ ra - hệ thống bút toán kép gồm cả bên có và bên nợ.
Tuy nhiên, di sản vĩ đại nhất của nhà Medici lại không phải về tài chính hay chính trị, mà về nghệ thuật. Có lẽ là những nhà bảo trợ hào phóng nhất mà thế giới nghệ thuật từng biết, gia tộc Medici chi các khoản hào phóng giúp tiếp sức cho trào lưu Phục Hưng. Danh sách các nhân vật được bảo trợ của nhà Medici gồm da Vinci, Galileo và Botticelli - người có bức vẽ nổi tiếng nhất, bức Thần Vệ nữ chào đời, chính là kết quả của một khoản tiền thưởng từ Lorenzo de’ Medici. Người này đã yêu cầu một bức vẻ gợi dục để treo phía trên giường ngủ của vợ chồng người em họ như một món quà cưới.
Lorenzo de’ Medici - sinh thời được biết đến với biệt danh Lorenzo Cao thượng bởi tính cách hào phóng - cũng chính là một nghệ sĩ kiêm thi sĩ kỳ tài được mệnh danh có một con mắt siêu việt. Năm 1489, Lorenzo say mê tác phẩm của một nhà điêu khắc Florence trẻ tuổi và đã mời anh ta chuyển tới sống tại lâu đài của gia đình Medici, nơi anh có thể hành nghề trong môi trường mỹ thuật, thi ca và văn hóa đỉnh cao. Dưới sự giám hộ của nhà Medici, chàng thiếu niên trưởng thành và cuối cùng đã tạc lên hai bức điêu khắc lừng danh nhất trong lịch sử - Pietà và David. Ngày nay, chúng ta biết đến người đó với tên gọi Michelangelo - một tài năng sáng tạo, đôi khi được xem như món quà lớn nhất mà gia tộc Medici tặng cho nhân loại.
Nghĩ đến niềm đam mê nghệ thuật của nhà Medici, Langdon tưởng tượng rằng gia tộc này sẽ rất hài lòng khi biết rằng tòa nhà trước mặt anh - ban đầu được xây dựng làm chuồng ngựa chính của gia tộc Medici - đã được cải tạo thành Học viện Nghệ thuật. Địa điểm thanh bình truyền cảm hứng cho các nghệ sĩ trẻ này lại từng được chọn làm chuồng ngựa riêng của nhà Medici chỉ vì nó ở gần một trong những khu vực cưỡi ngựa đẹp nhất Florence. Vườn Boboli.
Langdon liếc nhìn sang trái, nơi có thể nhìn rõ cả rừng toàn những ngọn cây phía bên kia một bức tường cao ngất. Không gian rộng lớn của vườn Boboli giờ đây là một địa điểm du lịch quen thuộc. Langdon tin chắc rằng nếu có thể vào được khu vườn này, anh và Sienna sẽ lẩn qua đó và đi vòng tránh khỏi Porta Romana mà không bị phát giác. Xét cho cùng, khu vườn rất rộng và không thiếu chỗ để ẩn náu - những khu rừng, mê cung, hang động. Quan trọng hơn, băng ngang qua vườn Boboli sẽ dẫn họ tới Cung điện Pitti, tòa thành bằng đá từng là nơi ngự chính của đại công tước nhà Medici, và nơi có một trăm bốn mươi gian phòng này vẫn là một trong những điểm du lịch thường xuyên nhất ở Florence.
Nếu chúng ta có thể tới được Cung điện Pitti, Langdon nghĩ thầm, thì cây cầu dẫn đến thành cổ chỉ cách đó một tầm ném đá.
Langdon hết sức bình thản chỉ về phía bức tường cao bao quanh khu vườn. “Làm thế bào vào được trong vườn?”, anh hỏi. “Tôi rất muốn cho em gái mình thăm vườn trước khi chúng tôi đi dạo quanh học viện.”
Cậu trai xăm trổ lắc đầu. “Anh chị không thể vào được vườn từ đây đâu. Lối vào chỗ Cung Pitti cơ. Anh chị phải lái xe qua Porta Romana và đi vòng.”
“Vớ vẩn”, Sienna buột miệng.
Tất cả mọi người ngoảnh lại và đăm đăm nhìn cô, kể cả Langdon.
“Thôi đi”, cô cười bẽn lẽn với đám sinh viên trong lúc vấn lại túm tóc đuôi ngựa vàng óng của mình. “Có phải các cậu đang bảo tôi rằng các cậu không hề lẻn vào vườn để hút cần sa và giết thời gian phải không?”
Đám trẻ đưa mắt nhìn nhau rồi phá lên cười.
Anh chàng xăm trổ tỏ ra vô cùng hối lỗi. “Chị ơi, chị nên về đây dạy học thôi.” Cậu ta dẫn Sienna tới bên hông tòa nhà và đi vòng qua góc tới một bãi đỗ xe phía sau. “Chị nhìn thấy nhà xưởng bên trái không? Có một bục cũ phía sau đó. Cứ trèo lên nóc là chị có thể nhảy xuống bên kia tường.”
Sienna thực hành ngay. Cô liếc lại nhìn Langdon kèm theo một nụ cười kẻ cả. “Đi nào, anh trai Bob. Trừ phi anh già quá nên không trèo rào được nữa”
