Tác giả: Dan Brown
--22--
Người phụ nữ tóc bạc trên xe thùng dựa đầu vào ô cửa sổ chống đạn và nhắm mắt lại. Bà cảm thấy thế giới quay cuồng dưới chân. Những viên thuốc người ta cho bà uống khiến bà cảm thấy mệt rũ.
Mình cần chăm sóc y tế, bà nghĩ.
Mặc dù vậy, gã vệ sĩ có vũ trang bên cạnh bà đã nhận được mệnh lệnh nghiêm ngặt: Không quan tâm đến các nhu cầu của bà cho đến khi nhiệm vụ của họ kết thúc thành công. Căn cứ vào những âm thanh hồn loạn xung quanh thì rõ ràng sắp đến lúc đó rồi.
Giờ thì cảm giác chóng mặt càng tăng lên, và bà cảm thấy rất khó thở. Trong lúc cố nén một con buồn nôn mới đang cồn lên, bà tự hỏi sao cuộc đời lại xô đẩy mình đến giao lộ kỳ quái này. Câu trả lời quá phức tạp nên không thể giải đáp được khi bà đang ở trạng thái mê man như lúc này, nhưng bà biết rõ nó bắt đầu từ đâu.
New York.
Hai năm trước.
Bà bay tới Manhattan từ Geneva, nơi bà giữ cương vị giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới, một vị trí uy tín và được nhiều người thèm khát. Bà đã đảm nhận công việc này suốt gần một thập kỷ. Là một chuyên gia về bệnh lây truyền và dịch tễ học, bà được mời tới Liên Hiệp Quốc để trình bày về hiểm họa của bệnh dịch tại các nước thuộc thế giới thứ ba. Bà nói chuyện rất lạc quan và khiến người khác vững dạ, phác họa ra một vài hệ thống phát hiện sớm bệnh tật rất mới mẻ cùng các kế hoạch điều trị mà WHO và những tổ chức khác vạch ra. Bà đã nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ.
Ngay sau bài diễn thuyết, trong khi bà đang trò chuyện cùng một số học giả còn nán lại trong sảnh thì một nhân viên Liên Hiệp Quốc đeo phù hiệu ngoại giao cấp cao sải bước tiến lại, xen vào giữa cuộc trò chuyện.
“Thưa tiến sĩ Sinskey, Hội đồng Quan hệ Đối ngoại vừa liên hệ với chúng tôi. Có người ở đó muốn nói chuyện với bà. Đã có xe đợi sẵn bên ngoài.”
Bối rối và có phần lo lắng, tiến sĩ Elizabeth Sinskey cáo lui và chuẩn bị hành lý đi công tác qua đêm. Khi chiếc limousine lao vào Đại lộ Một, bà bắt đầu có cảm giác lo lắng kỳ lạ.
Hội đồng Quan hệ Đối ngoại ư?
Elizabeth Sinskey, như hầu hết mọi người, đã nghe nhiều lời đồn đại.
Thành lập vào những năm 1920 với tư cách nhóm chuyên gia cố vấn bí mật, trong số thành viên của Hội đồng có mặt gần như tất cả các ngoại trưởng, gần chục vị Tổng thống, đa số các đời giám đốc CIA, các thượng nghị sĩ, thẩm phán cùng những tên tuổi huyền thoại như Morgan, Rothschild, và Rockefeller. Tập hợp trí tuệ, ảnh hưởng chính trị và tài sản ít ai bì kịp của các thành viên giúp cho Hội đồng Quan hệ Đối ngoại nổi tiếng là “Câu lạc bộ bí mật quyền lực nhất trên trái đất.”
Là giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới, Elizabeth không xa lạ gì việc tiếp xúc gần gũi với các nhân vật tai to mặt lớn. Thời gian công tác rất lâu ở WHO, kết hợp với bản tính thẳng thắn, đã giúp bà được một tờ tạp chí tin tức lớn gần đây xếp vào tốp hai mươi nhân vật có ảnh hưởng nhất thế giới. Gương mặt đại diện cho sức khỏe của thế giới, họ đã viết như vậy bên dưới ảnh của bà, chi tiết mà Elizabeth cảm thấy rất hài hước bởi vì bà từng là một đứa trẻ ốm yếu.
Bà mắc bệnh hen suyễn nặng năm lên sáu tuổi và được điều trị bằng một loại tân dược liều cao đầy hứa hẹn - loại glucocorticoid hay steroid hormone đầu tiên trên thế giới - giúp chữa khỏi các triệu chứng suyễn một cách thần kỳ. Nhưng thật không may, tác dụng phụ khôn lường của thuốc không xuất hiện ngay, mà mãi nhiều năm sau này khi Sinskey đến tuổi dậy thì nhưng không thấy xuất hiện chu kỳ kinh nguyệt. Bà không bao giờ quên được thời khắc đen tối tại phòng mạch của bác sĩ, năm bà mười chín tuổi, khi biết rằng hệ sinh sản của mình đã bị tổn thương vĩnh viễn.
Elizabeth Sinskey sẽ chẳng bao giờ có con.
Thời gian sẽ chữa lành nỗi đau, bác sĩ của bà an ủi, nhưng nỗi buồn và cơn giận dữ vẫn trào dâng trong lòng bà. Thật ác nghiệt, loại thuốc đã cướp đi của bà khả năng thụ thai lại không thể lấy đi của bà những bản năng rất xác thịt muốn được làm việc ấy. Suốt nhiều thập kỷ, bà đã phải vật lộn với khát khao thỏa mãn cái ước vọng không thể thành hiện thực này. Thậm chí cho đến bây giờ, ở tuổi sáu mươi mốt, bà vẫn cảm thấy nhói đau với nỗi trống rỗng mỗi lần nhìn thấy một người mẹ và đứa con thơ.
“Ngay phía trước rồi, tiến sĩ Sinskey”, người lái limousine nói.
Elizabeth nhanh tay vuốt những lọn tóc màu bạc dài và nhìn lại gương mặt mình trong gương. Bà chưa kịp định hình thì xe đã dừng lại, và người lái xe giúp bà bước lên vỉa hè một khu dân cư giàu có của Manhattan.
“Tôi sẽ đợi bà ở đây”, người lái xe nói. “Chúng ta có thể đi luôn ra sân bay khi bà sẵn sàng.”
Tổng hành dinh của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại tại New York là một tòa nhà kiểu tân cổ điển không mấy gây chú ý nằm ở góc phố Park và Đại lộ Sáu tám, vốn từng là trụ sở của tập đoàn Standard Oil. Bề ngoài của tòa nhà hòa hợp với cảnh quan trang nhã xung quanh, nên không hề gợi ra dấu hiệu gì về mục đích đặc biệt của nó.
“Tiến sĩ Sinskey”, cô nhân viên lễ tân có vóc người đẫy đà chào bà. “Xin đi theo lối này! Ông ấy đang đợi bà.”
Được rồi, nhưng ông ấy là ai nhỉ? Bà theo chân nhân viên lễ tân đi dọc hành lang sang trọng tới một cánh cửa đóng kín. Cô gái gõ nhanh rồi mở cửa và ra hiệu cho Elizabeth bước vào.
Bà đi vào, khép cánh cửa lại phía sau lưng.
Phòng họp nhỏ hẹp và tối chỉ được chiếu sáng nhờ quầng sáng của một màn hình video. Ngay phía trước màn hình, một bóng người mảnh khảnh và cao lêu nghêu đối diện với bà. Mặc dù không sao nhìn rõ gương mặt ấy, nhưng bà cảm nhận được quyền lực ở đây.
“Tiến sĩ Sinskey”, giọng nói sắc lạnh của người đàn ông vang lên. “Cảm ơn bà đã tới gặp tôi.” Chất giọng không lẫn vào đâu được của người đàn ông cho thấy ông ta là người cùng quê hương Thụy Sĩ với Elizabeth, hoặc có lẽ là Đức.
“Mời bà ngồi”, ông ta nói, ra hiệu về phía chiếc ghế đặt gần mé trước căn phòng.
Không giới thiệu gì sao? Elizabeth ngồi xuống. Hình ảnh kỳ quái đang được trình chiếu trên màn hình video làm bà thấy bất an. Có lẽ nào?
“Sáng nay tôi có mặt tại buổi trình bày của bà”, bóng người kia nói. “Tôi đã đi cả quãng đường dài để nghe bà nói chuyện. Một buổi diễn thuyết rất ấn tượng.”
“Cảm ơn ông”, bà đáp.
“Cũng cho phép tôi được nói rằng bà đẹp hơn tôi tưởng tượng rất nhiều… bất kể tuổi tác và quan điểm thiển cận của bà về y tế thế giới.”
Elizabeth sửng sốt. Lời nhận xét hết sức khó chịu. “Sao cơ?”, bà gặng hỏi, mắt nhìn đăm đăm vào khoảng tối. “Ông là ai? Và tại sao lại mời tôi đến đây?”
“Xin thứ lỗi cho câu đùa vô duyên của tôi”, bóng đen cao kều đáp lại. “Hình ảnh trên màn hình sẽ giải thích lý do tại sao bà lại ở đây.”
Sinskey nhìn hình ảnh hãi hùng - một bức vẽ mô tả một biển người, những toán người bệnh tật, tất cả giẫm đạp lên nhau trong đống lúc nhúc các xác người trần truồng.
“Nghệ sĩ vĩ đại Doré”, người đàn ông nói. “Cách diễn đạt đặc biệt dữ dội của ông về hình ảnh địa ngục của Dante Alighieri. Tôi hy vọng bà vẫn thấy nó dễ chịu… bởi vì đó là nơi chúng ta sẽ đến.” Ông ta ngừng lại, từ từ lướt về phía bà. “Và cho phép tôi nói với bà lý do tại sao.”
Ông ta vẫn tiếp tục tiến về phía bà, dường như càng lúc càng cao hơn sau mỗi bước chân. “Nếu tôi cầm mảnh giấy này và xé làm đôi…” Ông ta dừng lại bên bàn, nhặt một tờ giấy lên và xé toạc làm đôi. “Và sau đó nếu tôi đặt hai nửa chồng lên nhau…” Ông ta chồng hai nửa tờ giấy. “Và rồi nếu tôi lặp lại thao tác…” Ông ta lại xe giấy, xếp chồng lên nhau. “Tôi tạo ra một tập giấy lúc này dày gấp bốn lần tờ giấy ban đầu, phải không?” Dường như đôi mắt ông ta lóe lên vẻ căm hờn trong bóng tối căn phòng.
Elizabeth không sao đánh giá được ông ta qua ngữ điệu hung hăng. Bà không nói gì cả.
“Nói một cách giả thuyết”, ông ta tiếp tục, nhích lại gần hơn, “nếu tờ giấy ban đầu chỉ dày một phần mười milimet và tôi cứ lặp lại thao tác này - giả sử năm mươi lần… liệu bà có biết tập giấy sẽ cao chừng nào không?”.
Elizabeth nổi cáu. “Tôi biết”, bà đáp với thái độ hằn học hơn cả dự tính. “Nó sẽ là một phần mười milimet nhân hai lũy thừa năm mươi. Như thế gọi là cấp số nhân. Cho phép tôi hỏi tôi sẽ làm gì ở đây?”
Người đàn ông cười khẩy và gật đầu cảm kích. “Đúng, và bà có đoán được giá trị thực tế sẽ như thế nào không? Một phần mười milimet nhân hai lũy thừa năm mươi chăng? Bà có biết tập giấy của chúng ta sẽ cao chừng nào không?” Ông ta chỉ dừng lại một lát. “Tập giấy của chúng ta, chỉ sau năm mươi lần nhân đôi, giờ đã gần như đủ kín đường tới… mặt trời.”
Elizabeth không lấy làm ngạc nhiên. Sức mạnh đáng kinh ngạc của tăng trưởng theo cấp số nhân là điều bà liên tục gặp phải trong công việc của mình. Những vòng tuần hoàn của quá trình nhiễm bệnh… quá trình tái tạo của các tế bào nhiễm bệnh… con số ước tính tỉ lệ tử vong. “Tôi xin lỗi nếu tôi có phần ngây ngô”, bà nói, chẳng buồn che giấu thái đọ bực dọc của mình. “Nhưng tôi không hiểu ý ông.”
“Ý tôi ư?” Ông ta cười khàn. “Ý tôi là lịch sử tăng trưởng dân số nhân loại của chúng ta thậm chí còn ấn tượng hơn nữa. Dân số trái đất, giống như tập giấy của chúng ta, lúc mới đầu có là bao… nhưng tiềm năng thì ghê gớm.”
Ông ta lại bước tới. “Hãy nghĩ tới chuyện này. Dân số trái đất mất hàng nghìn năm – từ buổi bình minh sơ khai của loài người tới đầu những năm 1800 - để đạt một tỉ người. Thế rồi, thật kinh ngạc, chỉ mất khoảng một trăm năm để dân số tăng gấp đôi lên hai tỉ vào những năm 1920. Sau đó, mới chỉ năm mươi năm, dân số lại tăng gấp đôi thành bốn tỉ vào những năm 1970. Như bà có thể hình dung, chúng ta đang trên đường đạt tới tám tỉ rất nhanh. Ngay hôm nay, loài người đã bổ sung thêm một phần tư triệu người cho hành tinh. Một phần tư triệu. Và điều này diễn ra hằng ngày - dù nắng hay mưa. Hiện tại, mỗi năm, chúng ta bổ sung thêm một con số tương đương toàn bộ nước Đức.”
Người đàn ông cao lêu nghêu dừng phắt lại, bóng ông ta đè lên Elizabeth. “Bà bao nhiêu tuổi rồi?”
Lại một câu hỏi khiếm nhã nữa, mặc dù là người đứng đầu WHO, bà đã quen gặp phải thái độ đối nghịch với phép ngoại giao. “Sáu mươi mốt.”
“Bà có biết rằng nếu bà sống thêm mười chín năm, lúc đến tuổi tám mươi, bà sẽ chứng kiến dân số tăng lên gấp ba lần trong đời bà không. Một đời - gấp ba lần. Hãy nghĩ đến mọi hàm ẩn. Bà biết đấy, Tổ chức Y tế Thế giới của bà lại nâng mức dự đoán, tiên liệu rằng sẽ có khoảng chín tỉ người trên trái đất trước nửa đầu thế kỷ này. Các loài động vật đang bị tuyệt chủng với tốc độ tăng chóng mặt. Nhu cầu đối với các nguồn tài nguyên thiên nhiên ngày càng eo hẹp tăng vọt. Nước sạch ngày càng khan hiếm. Theo bất kỳ tiêu chuẩn đánh giá sinh học nào thì các giống loài của chúng ta đều đã vượt quá con số bền vững. Và khi đối mặt thảm họa này, Tổ chức Y tế Thế giới - người gác cổng cho vấn đề sức khỏe của hành tinh - lại đang đầu tư cho những thứ như cứu chữa bệnh tiểu đường, làm đầy các ngân hàng máu, chống lại bệnh ung thư.” Ông ta ngừng lại, nhìn xoáy thẳng vào bà. “Và vì thế mà tôi mời bà tới đây để hỏi thẳng bà tại sao Tổ chức Y tế Thế giới lại không quyết tâm giải quyết vấn đề này trước nhất?”
Giờ thì Elizabeth giận sôi lên. “Cho dù ông là ai thì ông cũng biết rất rõ WHO nhìn nhận tình trạng quá tải dân số rất nghiêm túc. Gần đây, chúng tôi đã chi hàng triệu đô-la để cử các bác sĩ tới châu Phi nhằm phát bao cao su miễn phí và giáo dục người dân về kiểm soát sinh đẻ.”
“Và, đúng!”, người đàn ông lêu nghêu chế giễu. “Và cả một đội quân giáo sĩ Công giáo còn đông hơn nữa đã theo chân bà tiến vào và bảo người dân châu Phi rằng nếu họ sử dụng bao cao su, tất cả bọn họ sẽ xuống địa ngục. Châu Phi hiện có một vấn đề môi trường rất mới - những bãi rác ngập tràn bao cao su chưa sử dụng.”
Elizabeth phải rất cố gắng kiềm chế mới không nói gì. Về điểm này thì ông ta đúng, và các tín đồ Công giáo hiện đại đang đấu tranh lại cách can thiệp của Vatican về vấn đề sinh sản. Đáng chú ý nhất, bản thân Melinda Gates, một tín đồ Công giáo sùng đạo, cũng can đảm đối diện với thái độ giận dữ của nhà thờ khi cam kết dành năm trăm sáu mươi triệu đô la giúp cải thiện quyền tiếp cận phương pháp hạn chế sinh đẻ trên toàn thế giới. Elizabeth Sinskey đã nhiều lần công khai nói rằng Bill và Melinda Gates xứng đáng được phong thánh vì những gì họ đã làm bằng quỹ cá nhân nhằm cải thiện tình hình sức khỏe thế giới. Buồn thay, tổ chức duy nhất có thể phong thánh lại không hề nhận ra bản chất Thiên Chúa giáo trong những nỗ lực của họ.
“Tiến sĩ Sinskey”, bóng người tiếp tục nói. “Tổ chức Y tế Thế giới không nhận ra rằng chỉ có một vấn đề y tế mang tính toàn cầu duy nhất.” Ông ta lại chỉ vào hình ảnh kinh khủng trên màn hình - cái biển người lúc nhúc. “Và nó đây!”, ông ta ngừng lại. “Tôi biết bà là một nhà khoa học, và vì thế có lẽ không phải là một sinh viên nghiên cứu mỹ thuật hay nghệ thuật kinh điển, nên cho phép tôi cung cấp một hình ảnh nữa có thể nói với bà bằng thứ ngôn ngữ bà hiểu rõ hơn.”
Căn phòng sầm tối một lúc, rồi màn hình sáng trở lại.
Hình ảnh mới là hình ảnh Elizabeth đã nhìn thấy nhiều lần… và nó luôn đem lại một cảm giác rất khó tả về sự tất yếu.
Căn phòng chìm trong im ắng nặng nề.
“Phải”, cuối cùng người đàn ông lêu nghêu nói. “Tâm lý sợ hãi ngấm ngầm là phản ứng hoàn toàn thích đáng khi xem biểu đồ này. Nhìn nó có phần giống như trợn trừng mắt nhìn thẳng vào đèn pha một đầu tàu đang lao tới.” Người đàn ông chậm rãi quay lại phía Elizabeth và nở một nụ cười nhún nhường, khó khăn. “Bà có hỏi gì không, tiến sĩ Sinskey?”
“Chỉ có một câu thôi”, bà đáp trả. “Ông đưa tôi tới đây để rao giảng hay sỉ nhục tôi?”
“Không hề!” Giọng ông ta trở nên phỉnh phờ lạ lùng. “Tôi mời bà tới đây để hợp tác. Tôi tin chắc bà hiểu tình trạng quá tải dân số là một vấn đề y tế. Nhưng điều tôi sợ bà không hiểu là nó ảnh hưởng đến linh hồn con người. Dưới sức ép của quá tải dân số, những người chưa từng nghĩ đến việc trộm cắp sẽ trở thành trộm cắp để nuôi sống gia đình mình. Những người chưa từng nghĩ đến việc giết người sẽ giết người để nuôi con cái. Tất cả những tội lỗi đáng chết mà Dante đề cập – tham lam, tham ăn, dối trá, giết người và những tội khác - sẽ bắt đầu lan tràn… trở nên thịnh hành trong xã hội loài người, và càng tăng mạnh do những thứ tiện nghi phù phiếm của chúng ta. Chúng ta đang đối mặt với một trận chiến để bảo vệ linh hồn con người.”
“Tôi là một chuyên gia sinh học. Tôi cứu những mạng sống… không phải linh hồn.”
“Vâng, tôi có thể cam đoan với bà việc cứu những mạng sống sẽ ngày càng khó khăn trong những năm tới. Tình trạng quá tải dân số phát triển nhanh hơn sự bất mãn về tinh thần rất nhiều. Có một thông điệp trong… Machiavelli.”
“Đúng”, bà ngắt lời, nhắc lại nguyên văn câu trích dẫn mà bà nhớ nằm lòng. “‘Khi mọi nơi trên thế giới kín đặc dân cư đến mức họ không thể sống nổi ở quê hương cũng không biết chuyển đi đâu nữa… thế giới sẽ tự thanh lọc’.” Bà đăm đăm nhìn ông ta. “Tất cả chúng tôi ở WHO đều rất quen với câu trích đó.”
“Tốt lắm, vậy chắc bà biết rằng Machiavalli còn nói về các dịch bệnh như là cách tự thanh lọc rất tự nhiên của thế giới?”
“Đúng, và như tôi đã đề cập trong bài thuyết trình của mình, chúng tôi đều nhận thức rất rõ mối quan hệ tương liên trực tiếp giữa mật độ dân số và khả năng xảy ra các đại dịch quy mô lớn, nhưng chúng tôi liên tục nghĩ ra các phương pháp phát hiện và điều trị mới. WHO vẫn tự tin rằng chúng tôi có thể ngăn chặn được các dịch bệnh trong tương lai.”
“Thật đáng tiếc!”
Elizabeth trố mắt nhìn vẻ không tin nổi. “Xin lỗi, tôi không hiểu!”
“Tiến sĩ Sinskey”, người đàn ông nói kèm theo một tiếng cười lạ lùng, “bà nói về việc kiểm soát dịch bệnh cứ như thể đó là một việc hay ho vậy!”.
Bà há hốc miệng nhìn người đàn ông, sửng sốt không nói lên lời.
“Bà hiểu ra rồi đấy!”, người đàn ông lêu nghêu nói, giọng như một luật sư đang kết luận vụ án của mình. “Tôi đứng đây cùng với giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới - nhân vật cừ nhất mà WHO có. Một suy nghĩ kinh khủng, nếu bà nghĩ kỹ. Tôi cho bà xem hình ảnh về nỗi khốn khổ sắp xảy ra này!”
Ông ta thay đổi màn hình, trở lại hình ảnh những xác người. “Tôi đã nhắc bà nhớ về sức mạnh đáng sợ của tình trạng gia tăng dân số không được kiểm soát.” Ông ta chỉ tập giấy nhỏ của mình. “Tôi đã khai sáng cho bà về thực tế rằng chúng ta đang đứng trên bờ vực của sự suy sụp về mặt tinh thần.” Ông ta ngừng lại và hướng thẳng về phía bà. “Và phản ứng của bà? Bao cao su miễn phí ở châu Phi.”
Người đàn ông nhếch mép cười giễu cợt. “Việc này có khác gì vung vỉ ruồi để chặn một tiểu hành tinh đang lao vào. Trái bom hẹn giờ không còn nhích từng giây nữa. Nó đã nổ tung rồi, và nếu không có những giải pháp quyết liệt, con số theo cấp số mũ sẽ thành Chúa trời mới của bà… và ‘Ngài’ sẽ là một vị Chúa báo thù rửa hận. Ngài sẽ mang tới cho bà hình ảnh địa ngục của Dante ngay ngoài kia, trên Đại lộ Park… Những đám người lúc nhúc ngoi ngóp trong đống phân của chính mình. Một sự sàng lọc toàn cầu do chính Tự nhiên sắp đặt.”
“Vậy ư?”, Elizabeth gắt. “Vậy hãy cho tôi biết, trong hình ảnh của ông về một tương lai bền vững, thế nào là dân số lý tưởng của trái đất? Con số kỳ diệu mà nhân loại có thể hy vọng duy trì chính mình một cách ổn định… và tương đối thoải mái là gì?”
Người đàn ông cao ngồng mỉm cười, rõ ràng đánh giá cao câu hỏi. “Bất kỳ nhà sinh học môi trường hay chuyên gia thống kê nào cũng sẽ cho bà biết rằng cơ hội tốt nhất để nhân loại tồn tại lâu dài đều đi kèm với mức dân số toàn cầu khoảng bốn tỉ.”
“Bốn tỉ ư?”, Elizabeth vặc lại. “Dân số bây giờ đã là bảy tỉ, cho nên muộn mất rồi!”
Đôi mắt xanh lục của người đàn ông cao ngồng lóe lên ánh lửa. “Vậy ư?”
--23--
Robert Langdon đáp huỵch xuống nền đất xốp cây cối um tùm phía bên trong bức tường bao quanh khu vực phía nam của vườn Boboli. Sienna đáp xuống bên cạnh anh và đứng lên, phủi bụi rồi quan sát xung quanh một lượt.
Họ đang đứng trên một tràng rêu và dương xỉ ở rìa một vạt rừng nhỏ. Từ đây Cung điện Pitti hoàn toàn bị chắn tầm nhìn, và Langdon cảm thấy họ ở xa cung điện cũng ngang với khoảng cách người ta có thể đi vào vườn. Ít nhất, không có nhân viên hay du khách tìm tới chỗ xa xôi này vào thời điểm sáng tinh mơ như bây giờ.
Langdon chăm chú nhìn một lối đi rải sỏi duyên dáng uốn lượn chạy sâu vào rừng trước mắt họ. Ở vị trí con đường khuất hẳn sau những rặng cây là một bức tượng cẩm thạch được đặt ở vị trí đắc địa để thu hút mọi ánh mắt. Langdon không lấy làm ngạc nhiên. Vườn Boboli được ưu ái đón nhận tài năng thiết kế xuất sắc của Niccolò Tribolo, Giorgio Vasari, và Bernardo Buontalenti - một nhóm những nhân tài về thẩm mỹ đã sáng tạo nên một kiệt tác có thể đi bách bộ được trên tấm toan rộng hơn bốn mươi héc ta này.
“Nếu đi về phía đông bắc, chúng ta sẽ đến được cung điện”, Langdon nói, chỉ tay theo lối đi. “Chúng ta có thể lẩn vào du khách ở đó và thoát ra ngoài mà không bị phát hiện. Tôi đoán nó mở cửa lúc 9 giờ.”
Langdon liếc mắt kiểm tra lại thời gian nhưng chỉ thấy cổ tay mình, nơi vẫn có chiếc đồng hồ Mickey, hoàn toàn trống trơn. Anh thẫn thờ tự hỏi liệu nó còn nằm ở bệnh viện cùng với số quần áo còn lại của anh và anh có thể lấy lại được nó không.
Sienna bước đi đầy kiên quyết. “Robert, trước khi đi tiếp, tôi muốn biết chúng ta định đi đâu? Lúc nãy anh đã nghĩ ra điều gì? Rãnh quỷ Malebolge à? Anh nói nó không đúng trật tự?”
Langdon ra hiệu về phía một khu vực có cây cối ngay trước mặt. “Chúng ta hãy tránh khỏi tầm nhìn trước đã.” Anh dẫn cô men theo lối đi lượn vòng vào một hốc kín - một “gian phòng”, theo cách nói của giới kiến trúc cảnh quan - nơi có mấy băng ghế giả gỗ và một đài phun nước nhỏ. Không khí phía dưới những tán cây lạnh hơn hẳn.
Langdon lấy máy chiếu ra khỏi túi và bắt đầu lắc mạnh. “Sienna, người tạo ra hình ảnh số này không chỉ cho thêm các chữ cái vào những kẻ tội đồ ở Malebolge mà còn thay đổi trật tự các dạng tội lỗi.” Anh nhảy lên đứng trên ghế, cao hơn hẳn Sienna, và chĩa máy chiếu xuống chân mình. Bức Vực Địa ngục của Botticelli hiện lên mờ mờ trên mặt ghế bằng phẳng bên cạnh Sienna.
Langdon chỉ vào khu vực phân tầng ở dưới đáy vực hình phễu. “Cô có nhìn thấy những chữ cái ở mười rãnh Malebolge không?”
Sienna tìm mấy chữ đó trên hình chiếu và đọc từ trên xuống dưới, “Catrovacer.”
“Đúng rồi, chẳng có nghĩa gì cả!”
“Nhưng khi đó anh nhận ra mười cái rãnh đã bị xáo trộn phải không?”
“Thực tế còn dễ hơn thế. Nếu những tầng rãnh này là một cỗ mười lá bài thì cỗ bài đó chẳng xáo trộn gì nhiều nếu xén bớt đi một lớp. Sau khi xén đi, các lá bài vẫn giữ nguyên trật tự, nhưng lại bắt đầu bằng một lá bài khác.” Langdon chỉ tay xuống mười rãnh Malebolge. “Theo văn bản của Dante, tầng trên cùng của chúng ta lẽ ra là những kẻ lừa gạt bị quỷ sứ đánh đập. Thế nhưng, trong bản này, những kẻ lừa gạt xuất hiện… tít dưới rãnh thứ bảy.”
Sienna nhìn kỹ hình ảnh lúc này đang mờ dần bên cạnh mình, và gật đầu. “Đúng, tôi thấy rồi. Rãnh đầu tiên giờ lại là thứ bảy.”
Langdon bỏ máy chiếu vào túi rồi nhảy xuống đường. Anh nhặt lấy một que nhỏ và vạch các chữ cái ra một khoảnh đất ngay bên đường. “Đây là các chữ cái theo thứ tự xuất hiện trong bản địa ngục đã bị chỉnh sửa của chúng ta.”
C
A
T
R
O
V
A
C
E
R
“Catrovacer”, Sienna đọc
“Đúng. Và đây là chỗ ‘cỗ bài’ bị xén mất!” Langdon vẽ một vạch bên dưới chữ cái thứ bảy và đợi Sienna nghiên cứu bản vẽ đó
C
S
T
R
O
V
A
_
C
E
R
“À”, cô nói nhanh, “Catrova, Cer.”
“Đúng, và sắp xếp lại các lá bài theo đúng trật tự, đơn giản là chúng ta không xén cỗ bài và đặt phần dưới lên trên. Hai nửa hoán đổi vị trí cho nhau.”
Sienna nhìn các chữ cái. “Cer. Catrova.” Cô nhún vai, trông không có biểu cảm gì. “Vẫn chẳng có nghĩa gì…”
“Cer catrova”, Langdon lặp lại. Một lát sau, anh nói lại mấy từ này lần nữa, đọc liền mạch với nhau. “Cercatrova.” Cuối cùng, anh đọc lên cùng với một quãng ngừng xen vào giữa. “Cerca… Trova.”
Sienna thở rõ mạnh và ngước mắt lên nhìn Langdon.
“Đúng vậy”, Langdon mỉm cười nói. “Cerca trova.”
Hai từ tiếng Ý cerca và trova có nghĩa đen là “tìm kiếm” và “tìm thấy”. Khi kết hợp thành một cụm từ cerca trova, chúng đồng nghĩa với câu cách ngôn trong Kinh Thánh “Hãy tìm và ngươi sẽ thấy”.
“Những ảo giác của anh!”, Sienna thốt lên, gần như không thở nổi. “Người phụ nữ che mạng! bà ấy liên tục bảo anh tìm kiếm và sẽ thấy!” Cô nhảy cẫng lên. “Robert, anh có nhận ra điều này có nghĩa là gì không? Nó có nghĩa là mấy cụm từ cerca trova đã nằm sẵn trong tiềm thức của anh! Anh không thấy vậy ư? Chắc chắn anh đã giải mã cụm từ này từ trước khi anh đến bệnh viện! Có lẽ anh đã nhìn thấy hình ảnh trong máy chiếu này… Nhưng quên rồi!”
Cô ấy nói đúng, anh nhận ra như vậy, bởi vì anh đã quá quen với mật mã này đến mức không nhận ra mình đã từng trải qua toàn bộ việc này rồi.
“Robert, anh từng nói rằng bức Vực Địa ngục chỉ đến một địa điểm cụ thể trong thành cổ. Nhưng tôi vẫn không hiểu đó là nơi nào.”
“Mấy từ cerca trova không gợi lên điều gì cho cô sao?”
Cô nhún vai.
Langdon cười thầm. Rốt cuộc cũng có thứ Sienna không biết. “Hóa ra cụm từ này chỉ cụ thể tới một bức tranh tường nổi tiếng tại Cung điện Vecchio - Trận Marciano của Glorgio Vasari trong Sảnh Năm trăm. Gần trên đỉnh bức tranh, rất khó nhìn thấy, Vasari có viết cụm từ cerca trova bằng cỡ chữ rất bé. Người ta đưa ra nhiều giả thuyết để lý giải tại sao ông lại làm như vậy, nhưng chưa tìm được bằng chứng kết luận nào.”
Bỗng nhiên có tiếng rít chói tai của một chiếc máy bay nhỏ vang lên phía trên đầu, nó xuất hiện hoàn toàn bất ngờ và lướt qua tán rừng. Âm thanh nghe rất gần, Langdon và Sienna như hóa đá khi nó vụt qua.
Khi chiếc máy bay đi khỏi, Langdon dõi mắt nhìn theo qua những tán cây. “Một cái trực thăng đồ chơi”, anh nói, thở phào trong lúc nhìn theo chiếc trực thăng dài hơn một mét, điều khiển bằng sóng vô tuyến đang chao nghiêng ở phía xa. Tiếng của nó nghe như một con muỗi khổng lồ đang nổi khùng.
Tuy nhiên, Sienna trông vẫn hết sức cảnh giác. “Cúi thấp xuống!”
Chắc chắn như vậy, chiếc trực thăng nhỏ xíu đảo một vòng và lúc này đang quay trở lại chỗ họ, lướt sát những ngọn cây, vọt qua họ lần nữa, nhưng lần này chếch sang trái họ, ở phía trên một trảng rừng khác.
“Nó không phải đồ chơi đâu!”, cô thì thào. “Nó là một máy bay trinh thám không người lái. Có lẽ mang cả máy quay video để gửi hình ảnh trực tiếp về… cho ai đó.”
Quai hàm Langdon cứng đờ khi anh nhìn thấy chiếc trực thăng bay nhanh theo hướng nó xuất hiện lúc nãy - Porta Romana và Học viện Nghệ thuật.
“Tôi không biết anh đã làm gì”, Sienna nói, “nhưng rõ ràng một vài người rất có thế lực đang sốt sắng tìm anh”.
Chiếc trực thăng lại chao nghiêng lần nữa và bắt đầu bay chầm chậm dọc theo bức tường bao mà họ vừa nhảy qua.
“Chắc ai đó ở Học viện Nghệ thuật đã nhìn thấy chúng ta và nói gì đó”, Sienna nói, chân bước theo con đường. “Chúng ta phải ra khỏi đây. Ngay bây giờ!”
Khi chiếc máy bay không người lái vè vè bay về phía đầu kia của khu vườn, Langdon dùng chân xóa những chữ cái mà anh đã vạch trên lối đi và vội bước theo Sienna. Đầu óc anh quay cuồng với những ý nghĩ về cerca trova, bức bích họa của Giorgio Vasari, cũng như phát hiện của Sienna rằng anh đã từng giải mã thông điệp trong máy chiếu. Hãy tìm và sẽ thấy.
Đột nhiên, ngay khi họ bước vào trảng rừng thứ hai, Langdon có một ý nghĩ khá bất ngờ. Anh đã đứng sững lại trên lối đi đầy cây cối, vẻ mặt đầy sửng sốt.
Sienna cũng dừng lại. “Robert? Có chuyện gì thế?!”
“Tôi vô tội”, anh tuyên bố.
“Anh đang nói chuyện gì thế?”
“Những người đang ăn lùng tôi… Tôi từng nghĩ đó là vì tôi đã làm điều gì đó kinh khủng.”
“Đúng, ở bệnh viện anh cứ nhắc đi nhắc lại ‘rất xin lỗi’.”
“Tôi biết. Nhưng khi ấy tôi nghĩ tôi đã nói tiếng Anh.”
Sienna ngạc nhiên nhìn anh. “Anh đã nói tiếng Anh!”
Lúc này cặp mắt xanh biếc của Langdon đầy phấn khích. “Sienna, lúc tôi cứ nhắc đi nhắc lại ‘rất xin lỗi’ không phải là tôi xin lỗi đâu. Là tôi đang lẩm nhẩm về thông điệp bí mật trong bức bích họa ở Cung điện Vecchio!” Anh vẫn như nghe rõ giọng nói mê sảng của chính mình. Rấ… xin lỗi! Rấ… xin lỗi!
Sienna như mê đi.
“Cô không hiểu sao?”, Langdon cười toe toét. “Tôi không hề nói ‘rất xin lỗi, rất xin lỗi’!. Tôi đang đọc tên của họa sĩ - Va… sari, Vasari!” [16]
--24--
Vayentha đạp mạnh phanh.
Đuôi chiếc xe phân khối lớn của ả lảo đảo, rít to và để lại một vệt dài trên Đại lộ Viale del Poggio Imperiale, sau đó đột ngột dừng phía sau cả dòng xe cộ. Viale del Poggio đang trong giờ tắc nghẽn.
Ta không có thời gian cho việc này.
Vayentha nghển cổ nhìn qua những chiếc xe hơi, cố gắng xem chuyện gì gây ra tình trạng tắc nghẽn này. Ả đã buộc phải phóng xe theo một vòng tròn rất rộng để tránh đội SRS và toàn bộ tình trạng hỗn độn ở tòa chung cư, và lúc này ả cần lọt vào thành cổ để dọn ra khỏi phòng khách sạn nơi ả đã trú ngụ mấy ngày qua vì nhiệm vụ này.
Ta đã bị từ chối – ta cần biến ngay khỏi thành phố!
Thế nhưng, chuỗi đen đủi của ả dường như vẫn tiếp tục. Tuyến đường ả chọn để vào thành cổ có vẻ như đã bị chặn. Không lòng dạ nào chờ đợi, Vayentha lách xe sang một bên và chạy dọc theo làn hẹp dành riêng cho xe gặp sự cố cho tới khi nhìn thấy một giao lộ xe cộ ùn lại. Phía trước là một vòng xuyến tắc nghẽn, nơi có sáu trục đường lớn gặp nhau. Đây chính là Porta Romana - một trong những giao lộ đông đúc nhất của Florence - cánh cổng đi vào thành cổ.
Có chuyện quái gì ở đây không biết?!
Giờ thì Vayentha nhìn thấy toàn bộ khu vực này dày đặc cảnh sát - chặn đường hay đặt chốt kiểm tra gì đó. Một lát sau, ả nhận ra một thứ ở trung tâm hiện trường, thứ khiến cho ả chịu thất bại - chiếc xe thùng màu đen quen thuộc với vài đặc vụ mặc đồ đen đang lớn tiếng ra lệnh cho nhân viên công lực địa phương.
Trừ phi…
Rõ ràng, những người này là thành viên nhóm SRS, nhưng Vayentha không đoán nổi họ đang làm gì ở đây.
Vayentha nuốt khan, không dám hình dung ra tình huống đó. Langdon đã thoát khỏi Brüder chăng? Điều đó thật khó tưởng tượng khi mọi cơ hội trốn thoát gần như bằng không. Lại nữa, Langdon không hành động một mình, và Vayentha đã tận mắt chứng kiến tài nghệ xoay sở của người phụ nữ tóc vàng đi cùng anh.
Gần đó, một sĩ quan cảnh sát xuất hiện, đang đi từ xe này sang xe khác, chìa ra tấm hình chụp một người đàn ông điển trai với mái tóc nâu dày dặn. Vayentha ngay lập tức nhận ra ảnh chụp trên báo của Robert Langdon. Tim ả như muốn nhảy ra khỏi lồng ngực.
Brüder cũng để anh ta thoát…
Langdon vẫn đang trong cuộc chơi!
Là một chiến lược gia lão luyện, Vayentha lập tức bắt tay vào việc đánh giá xem thực tế này có thể làm thay đổi tình thế của ả như thế nào.
Lựa chọn một – rút lui như yêu cầu.
Vayentha đã khiến Thị Trưởng rơi vào một tình thế rất tồi tệ và vì việc này mà ả bị từ chối. Nếu may mắn, ả sẽ phải đối mặt với một buổi thẩm vấn chính thức và có lẽ chấm dứt sự nghiệp. Tuy nhiên, nếu ả không may đánh giá nhầm mức độ nghiêm trọng của tình thế đó thì có lẽ cả quãng đời còn lại, ả sẽ luôn phải đề phòng và tự hỏi không biết Consortium đang lẩn mặt ở đâu.
Còn một lựa chọn thứ hai.
Hoàn thành nhiệm vụ của mày.
Tiếp tục nhiệm vụ là chuyện hoàn toàn đối nghịch với quy trình từ chối vừa áp dụng với ả, nhưng vì Langdon vẫn đang lẩn trốn, nên lúc này Vayentha lại có cơ hội tiếp tục thực hiện chỉ thị ban đầu của mình.
Nếu như Brüder không tóm được Langdon, ả nghĩ bụng, mạch đập rộn lên. Và nếu ta thành công…
Vayentha biết đây là chuyện một mất một còn, nhưng nếu Langdon tìm cách thoát khỏi vòng vây của Brüder, còn Vayentha vẫn có thể nhập cuộc và kết thúc công việc thì ả sẽ đơn thương độc mã cứu vãn tình hình cho Consortium, khi đó Thị Trưởng sẽ không còn lựa chọn nào ngoài việc tha bổng cho ả.
Ta sẽ tiếp tục công việc của mình, ả nghĩ. Có khi còn được thăng tiến.
Trong nháy mắt, Vayentha nhận ra giờ đây toàn bộ tương lai của ả đều phụ thuộc vào công việc then chốt duy nhất. Ta phải tìm ra Langdon… trước Brüder.
Việc đó thật không dễ. Brüder có trong tay nhân lực hùng hậu tùy ý sử dụng cũng như vô số công nghệ giám sát tiên tiến. Còn Vayentha chỉ làm việc một mình. Tuy nhiên, ả đã nắm được một thông tin mà Brüder, Thị Trưởng và cảnh sát đều không có.
Ta đã nghĩ ra Langdon sẽ mò tới chỗ nào.
Ả rồ ga chiếc BMW, xoay một trăm tám mươi độ và quay ngược lại lối vừa nãy. Ponte alle Grazie, ả nghĩ, trong đầu hình dung ra cây cầu dẫn lên phía bắc. Đâu phải chỉ có một lối đi vào thành cổ.
