Tác giả: Dan Brown
--14--
Langdon đứng im bất động, tay giữ nguyên trong không trung, cầm trụ triện bằng xương. Rõ ràng, phần thủy tinh ở đầu ống đang phát sáng… lóe lên như thể thứ chứa bên trong đột nhiên thức dậy.
Rất nhanh, ánh sáng bên trong lại tối đen trở lại.
Sienna nhích lại gần, thở hổn hển. Cô nghiêng đầu và săm soi phần thủy tinh có thể nhìn thấy được bên trong mẩu xương.
“Nghiêng lại đi”, cô thì thào. “Thật chậm thôi.”
Langdon nhẹ nhàng xoay ngước mẩu xương. Lại một lần nữa, một vật rất nhỏ chạy lọc xọc dọc theo chiều dài mẩu xương rồi dừng lại.
“Thêm lần nữa đi”, cô nói. “Nhẹ thôi.”
Langdon lặp lại lần nữa, và mẩu xương lại có tiếng lọc xọc. Lần này, phẩn thủy tinh bên trong hơi sáng, lóe lên một lúc rồi lịm đi.
“Chắc chắn nó là một ống nghiệm”, Sienna tuyên bố, “trong có một viên bi trộn”.
Langdon đã rất quen với những viên bi trộn dùng trong các bình sơn xịt – đó là những viên bi nằm lẫn bên trong, có tác dụng trộn đều sơn khi lắc bình.
“Có thể nó chứa một dạng hợp chất hóa học lân tinh nào đó”, Sienna nói, “hoặc một cấu trúc phát quang sinh học có khả năng lóe sáng khi được kích thích”.
Langdon lại có suy nghĩ khác. Vốn đã từng thấy các loại que phát sáng hóa học và thậm chí cả những phiêu sinh vật phát sáng sinh học có khả năng sáng lên khi một chiếc thuyền khuấy đảo môi sinh của chúng, nhưng anh gần như tin chắc rằng cái ống trụ trong tay mình không hề chứa thứ nào trong số này. Anh nhẹ nhàng xoay cái ống thêm vài lần nữa cho tới khi nó lóe sáng, sau đó giữ phần đầu phát sáng trên bàn tay mình. Đúng như mong đợi, một quầng sáng màu đỏ nhạt xuất hiện, rọi thẳng lên da anh.
Rất vui biết rằng một người có IQ 208 đôi khi cũng nhầm lẫn.
“Nhìn cái này xem”, Langdon nói, và bắt đầu lắc mạnh cái ống. Vật bên trong lọc xọc chạy lên chạy xuống, càng lúc càng nhanh.
Sienna nhảy lùi lại. “Anh đang làm gì thế?”
Tay vẫn lắc cái ống, Langdon bước lại phía công tắc đèn và tắt đi, khiến cho gian bếp tối hẳn. “Bên trong không phải ống nghiệm đâu”, anh nói, tay vẫn lắc mạnh hết sức. “Nó là đèn rọi Faraday đấy.”
Langdon từng được một sinh viên tặng thiết bị tương tự - một cái đèn rọi tia laser dùng cho các giảng viên không thích việc lãng phí những cục pin AAA, và không ngại chuyện lắc mạnh đèn rọi trong vài giây để biến nguồn năng lượng động lực học của đèn thành điện năng. Khi lắc mạnh thiết bị này, viên bi kim loại bên trong sẽ chạy qua hàng loạt chi tiết hình mái chèo và vận hành một máy phát điện nhỏ xíu. Rõ ràng có người đã quyết định nhét đèn rọi này vào một mẩu xương rỗng có chạm khắc – lớp vỏ cổ xưa bao bọc lấy thứ đồ chơi điện tử hiện đại.
Đầu chiếc đèn rọi trong tay anh lúc này sáng lên rực rỡ. Langdon nhìn Sienna, cười nhăn nhó. “Đến giờ trình diễn.”
Anh chĩa chiếc đèn rọi vỏ xương vào một khoảng trống trên tường bếp. Khi mảng tường sáng lên, Sienna hít một hơi thảng thốt. Nhưng chính Langdon mới là người giật nảy mình vì kinh ngạc.
Khoảng sáng xuất hiện trên tường không phải là một đốm laser màu đỏ nhỏ bé. Nó là một bức tranh sinh động có độ phân giải cao phóng ra từ cái ống chẳng khác gì từ một máy chiếu kiểu cũ.
Chúa ơi! Tay Langdon hơi run khi anh nhìn khung cảnh hãi hùng trên bức tường trước mặt. Thảo nào mình cứ nhìn thấy hình ảnh chết chóc.
Bên cạnh anh, Sienna lấy tay che miệng và ngập ngừng bước lên một bước, rõ ràng thất thần vì những gì cô đang nhìn thấy.
Khung cảnh phóng ra từ mẩu xương chạm trổ kia là một bức tranh cũ về nỗi khổ của con người – hàng nghìn linh hồn trải qua những hình thức tra tấn kinh khủng ở các tầng địa ngục. Thế giới trong lòng đất được khắc họa như một lát cắt dọc của trái đất thành một cái hồ hình phễu sâu thăm thẳm. Hố địa ngục này được chia thành nhiều cấp thu hẹp dần, theo mức độ hình phạt tăng dần, mỗi tầng thuộc về một nhóm những kẻ tội đồ bị hành hạ.
Langdon nhận ra cảnh này ngay lập tức.
Kiệt tác trước mặt anh – La Mappa dell’Inferno (Vực Địa ngục) – do Sandro Botticelli, một trong những họa sĩ Ý kiệt xuất thời Phục Hưng, vẽ ra. Là bản sơ đồ chi tiết về địa ngục, 'Vực Địa ngục' là một trong những hình ảnh đáng sợ nhất về cõi chết từng được sáng tạo ra. Tối tăm, u ám, và đáng sợ, ngay cả thời đại bây giờ, bức tranh cũng khiến nhiều người sững sờ bất động. Khác với bức 'Primavera' (Câu chuyện mùa xuân) hay 'Thần Vệ nữ chào đời' đầy sức sống và rực rỡ của mình, Botticelli tạo ra 'Vực Địa ngục' bằng tông màu trầm, gồm đỏ, nâu đỏ và nâu.
Cơn đau đầu dữ dội đột ngột trở lại, và cũng như lần đầu tiên kể từ lúc tỉnh dậy trong bệnh viện xa lạ, Langdon cảm thấy dường như từng mảnh ghép đã tự nhảy vào đúng vị trí của nó. Những ảo giác kinh dị của anh được kích thích do nhìn thấy bức vẽ nổi tiếng này.
Chắc chắn mình đã nghiên cứu bức Vực Địa ngục của Botticelli, anh nghĩ thầm, dù không nhớ được lý do tại sao.
Mặc dù bản thân hình ảnh trước mắt đã rất khó chịu nhưng chính lai lịch của bức vẽ mới là thứ khiến Langdon lúc này càng thêm bồn chồn. Langdon biết rõ rằng ý tưởng ra đời của kiệt tác mang tính tiên tri này không phải khởi nguồn trong tâm trí của Botticelli… mà trong tâm trí của một người sống trước ông ấy hai trăm năm.
Một kiệt tác nghệ thuật từ cảm hứng của người khác.
Trên thực tế, Vực Địa ngục của Botticelli là món quà dành tặng một tác phẩm văn học ở thế kỷ XIV, kiệt tác này đã trở thành một trong những áng văn chương được ca tụng nhiều nhất trong lịch sử… Một bức tranh khủng khiếp về địa ngục còn vang vọng đến tận ngày nay.
Hỏa ngục của Dante.
o O o
Bên kia phố, Vayentha lặng lẽ leo lên cầu thang dành riêng cho nhân viên phục vụ, nấp ở thềm tầng áp mái của khách sạn Pensione la Fiorentina vẫn đang im lìm. Langdon đã đưa số phòng không có thật cùng một địa điểm hẹn gặp giả cho nhân viên lãnh sự - một “cuộc gặp trong gương” như cách gọi trong nghề của ả - kỹ năng nghiệp vụ quen thuộc giúp người ta đánh giá tình hình trước khi tiết lộ vị trí thật của mình. Lúc nào cũng vậy, địa điểm giả hoặc “trong gương” được lựa chọn bởi vì nó nằm trong tầm quan sát hoàn hảo từ vị trí thật của chủ thể.
Vayentha tìm một cao điểm kín đáo trên nóc nhà để từ đó ả có thể nhìn bao quát toàn bộ khu vực. Ả từ từ đưa mắt nhìn lên tòa nhà chung cư bên kia phố.
Đến lượt ngài đó, thưa ngài Langdon.
o O o
Thời điểm đó, trên boong tàu The Mendacium, Thị Trưởng bước ra phần sàn tàu bằng gỗ gụ và hít một hơi thật sâu, thưởng thức không khí mằn mặt của biển Adriatic. Con tàu này là ngôi nhà của ông ta đã nhiều năm, và lúc này đây, một loạt sự kiện đang diễn ra ở Florence đang đe dọa hủy hoại tất cả mọi thứ mà ông ta đã gây dựng.
Đặc vụ ngoại tuyến Vayentha đã để mọi việc lâm vào thế rủi ro, và ả phải đối mặt với một cuộc thẩm vấn sau khi nhiệm vụ này kết thúc, song ngay lúc này, Thị Trưởng cần đến ả.
Tốt nhất là cô ta phải giành lại quyền kiểm soát mớ bòng bong này.
Có tiếng bước chân đang nhanh nhẹn tiến lại gần từ phía sau, Thị Trưởng quay lại và thấy một nữ chuyên gia phân tích đang bước đến.
“Thưa ngài!”, chuyên gia phân tích lên tiếng, gần như ngộp thở. “Chúng ta có tin mới.” Giọng cô ta xuyên qua không khí buổi sáng với sắc thái dữ dội hiếm thấy. “Có vẻ Robert Langdon vừa truy cập vào tài khoản e-mail Harvard của anh ta từ một địa chỉ IP không rõ.” Cô ta dừng lại, mắt nhìn thẳng vào Thị Trưởng. “Giờ có thể lần ra vị trí chính xác của Langdon.”
Thị Trưởng sững sờ vì thấy có người đần độn đến thế. Mọi việc thay đổi rồi. Ông ta khum tay và đăm đăm nhìn về bờ biển, suy ngẫm cho hết mọi nhẽ. “Cô có biết vị trí của đội SRS không?”
“Vâng, thưa ngài. Cách chỗ của Langdon chưa đầy hai dặm.”
Thị Trưởng chỉ mất một khắc để đưa ra quyết định.
--15--
“Hỏa ngục của Dante”, Sienna thì thào, vẻ mặt hết sức chăm chú khi cô nhích lại gần hình ảnh ảm đạm mô tả địa ngục đang chiếu trên tường bếp nhà mình.
Hình ảnh địa ngục của Dante, Langdon nghĩ thầm, thể hiện bằng màu sắc sống động.
Được ca tụng là một trong những tác phẩm văn học xuất sắc, Hỏa ngục là tập đầu trong ba tập sách thuộc bộ Thần khúc của Dante Alighieri – một trường ca gồm mười bốn nghìn hai trăm ba mươi ba câu thơ mô tả chuyến du hành đầy mạo hiểm của Dante tới địa ngục, vượt qua luyện ngục, và cuối cùng tới thiên đường. Trong ba phần của Thần khúc – Hỏa ngục, Luyện ngục và Thiên đường – cho đến nay Hỏa ngục được đọc và nhớ đến nhiều nhất.
Được Dante Alighieri biên soạn vào đầu những năm 1300, Hỏa ngục thực sự định nghĩa lại những quan niệm thời trung cổ về kiếp đọa đày. Trước đó khái niệm “địa ngục” chưa bao giờ khiến công chúng say mê như vậy. Chỉ qua một đêm, tác phẩm của Dante đã củng cố khái niệm trừu tượng về địa ngục thành một hình ảnh rõ ràng và đáng sợ - rất bản năng, cảm nhận được, và không thể nào quên. Chẳng có gì lạ, sau khi trường ca ra đời, Nhà thờ Công giáo thấy ngay số người nhập giáo là những kẻ phạm tội tăng vọt, vì muốn tránh khỏi kiếp nạn ở địa ngục mà Dante mới vẽ ra.
Còn ở đây, theo mô tả của Botticelli, hình ảnh địa ngục đáng sợ của Dante có cấu trúc như một cái phễu hành xác dưới lòng đất – một khung cảnh kinh khủng với lửa, lưu huỳnh, cống rãnh, quái vật và cả quỷ Satan chờ đợi ở trung tâm. Cái hố tạo thành chín cấp độ khác nhau, Chín tầng địa ngục, nơi những kẻ tội đồ bị đày xuống tùy theo mức độ tội lỗi của họ. Gần đỉnh, đám dâm ô hay “những kẻ gian tà nhục dục” bị cuốn vào cơn bão bất tận, một biểu tượng về sự bất lực của họ trong việc kiểm soát dục vọng. Bên dưới, những kẻ tham ăn bị buộc phải nằm úp mặt vào một cái rãnh tởm lợm, miệng dính đầy những thứ sản phẩm do chính thói ăn uống vô độ của mình thải ra. Sâu hơn, những kẻ dị giáo bị kẹp trong những quan tài đang cháy, bị hành hạ trong ngọn lửa vĩnh cửu. Và cứ như vậy… kẻ mắc tội lỗi càng xấu xa thì càng bị đày xuống sâu hơn.
Trong suốt bảy thế kỷ kể từ khi ra đời, hình ảnh địa ngục đầy ám ảnh của Dante đã truyền cảm hứng cho nhiều phụ bản, cách diễn giải và biến tấu của những bộ óc sáng tạo vĩ đại nhất trong lịch sử. Longfellow, Chaucer, Marx, Milton, Balzac, Borges, và thậm chí một vài Đức Thánh Cha đều đã viết những tác phẩm dựa trên Hỏa ngục của Dante. Monteverdi, Liszt, Wagner, Tchaikovsky, và Puccini đã biên soạn những nhạc phẩm dựa trên tác phẩm của Dante, và một trong những nghệ sĩ thu âm mà Langdon yêu thích – Loreena McKennitt – cũng vậy. Ngay cả thế giới trò chơi điện tử và các ứng dụng trên iPad cũng không thiếu những sản phẩm liên quan đến Dante.
Langdon, vốn rất háo hức chia sẻ với sinh viên về những biểu tượng phong phú trong cách nhìn của Dante, từng nhiều lần dạy hẳn một khóa học về chuỗi hình ảnh thường xuyên được tái hiện tìm thấy cả trong Dante và các tác phẩm mang cảm hứng của ông qua nhiều thế kỷ.
“Robert”, Sienna nói, tiến lại gần hơn hình ảnh trên tường. “Nhìn chỗ này xem!” Cô chỉ vào một khu vực gần đáy của địa ngục hình phễu.
Khu vực cô chỉ vẫn được biết đến như là Malebolge – nghĩa là “rãnh quỷ”. Đó là tầng thứ tám và cũng là tầng áp chót của địa ngục, được chia thành mười rãnh riêng biệt, mỗi rãnh dành cho một tội gian dối cụ thể.
Lúc này Sienna càng phấn khích hơn. “Nhìn xem! Không phải chính anh nói, trong giấc mơ, anh nhìn thấy thứ này sao?”
Langdon nheo mắt nhìn vị trí Sienna chỉ, nhưng anh chẳng thấy gì cả. Cái máy chiếu nhỏ xíu đang cạn năng lượng, và hình ảnh bắt đầu nhòe đi. Anh nhanh nhẹn lắc mạnh tay cho tới khi nó tiếp tục phát sáng. Lúc đó, anh cẩn thận đặt nó lùi xa bức tường hơn, ngay trên mép chiếc bàn bên kia khu bếp nhỏ, để nó phóng ra hình ảnh lớn hơn nữa. Langdon tiến lại chỗ Sienna, nhích sang bên để nghiên cứu đồ hình.
Sienna lại chỉ xuống tầng địa ngục thứ tám. “Nhìn đây. Không phải chính anh nói ảo giác của anh có một đôi chân thò lên khỏi mặt đất chổng ngược lên trời và có chữ R à?” Cô chạm tay hẳn vào một vị trí xác định trên tường. “Chúng đây thôi!”
Langdon đã xem bức tranh này rất nhiều lần, rãnh thứ mười ở Malebolge lúc nhúc những kẻ tội đồ bị chôn nửa người đầu lộn xuống dưới, chân thò lên khỏi mặt đất. Nhưng rất lạ, trong bản này, một đôi chân lại có chữ R, viết bằng bùn, đúng như Langdon đã nhìn thấy trong ảo giác.
Chúa ơi! Langdon chăm chú nhìn chi tiết nhỏ xíu đó. “Chữ R đó… chắc chắn nó không có trong bản gốc của Botticelli!”
“Còn một chữ nữa này”, Sienna nói và chỉ tay.
Langdon nhìn theo ngón tay cô tới một rãnh khác trong Malebolge, nơi chữ E viết nguệch ngoạc trên người một nhà tiên tri giả danh bị vặn ngược đầu ra sau.
Quái quỷ gì vậy? Bức vẽ này đã bị chỉnh sửa.
Giờ đây những chữ cái khác hiện ra trước mắt anh, được viết nguệch ngoạc trên những kẻ tội đồ ở khắp mười rãnh Malebolge. Anh nhìn thấy chữ C trên người một kẻ lừa gạt bị quỷ dữ đánh đập… chữ R trên một tên trộm bị đàn rắn cắn xé… chữ A trên người một chính trị gia đồi bại bị dìm trong bể hắc ín sôi sùng sục.
“Những chữ cái này”, Langdon nói đầy chắc chắn, “nhất định không có trong bản gốc của Botticelli. Bức ảnh này đã bị chỉnh sửa bằng kỹ thuật số”.
Anh đưa mắt lên rãnh Malebolge trên cùng và bắt đầu đọc các chữ cái từ trên xuống, lần lượt qua mười rãnh.
C… A… T… R… O… V… A… C… E… R
“Catrovacer?”, Langdon nói. “Đây là tiếng Ý à?”
Sienna lắc đầu. “Cũng không phải tiếng Latin. Tôi không nhận ra.”
“Một… chữ ký chăng?”
“Catrovacer?” Cô nhìn đầy vẻ nghi ngờ. “Tôi thấy không giống một cái tên cho lắm. Nhưng nhìn chỗ kia xem.” Cô chỉ tay vào một trong rất nhiều nhân vật ở rãnh Malebolge thứ ba.
Khi nhìn thấy nhân vật đó, Langdon lập tức có cảm giác ớn lạnh. Trong vô số những kẻ tội đồ ở rãnh thứ ba có một hình ảnh mang tính biểu tượng từ thời trung cổ - một người mặc áo choàng đeo mặt nạ có mỏ chim và ánh mắt chết chọc.
Mặt nạ dịch hạch.
“Trong bản gốc của Botticelli có bác sĩ dịch hạch không?”, Sienna hỏi.
“Chắc chắn là không. Nhân vật đó mới được thêm vào.”
“Thế Botticelli có ký tên bản gốc của mình không?”
Langdon không thể nhớ nổi, nhưng khi ánh mắt anh nhích xuống góc phải bên dưới nơi thường có chữ ký, anh nhận ra tại sao cô lại hỏi vậy. Không hề có chữ ký, nhưng nhìn thấy rõ dọc phần mép màu nâu sẫm của bức vẽ là một dòng chữ nhỏ xíu viết rời nhau: la verità è visibile solo attraverso gli occhi della morte.
Vốn tiếng Ý của Langdon đủ để anh hiểu được ý chính: “Chân lý chỉ có thể được nắm bắt qua cặp mắt chết chóc”.
Sienna gật đầu. “Thật kỳ lạ!”
Hai người đứng lặng trong khi hình ảnh đáng sợ trước mắt từ từ nhòa đi. Hỏa ngục của Dante, Langdon nghĩ thầm. Truyền cảm hứng cho những tác phẩm nghệ thuật mang tính tiên tri kể từ năm 1330.
Khóa học của Langdon về Dante luôn có hẳn một phần về các tác phẩm nghệ thuật trứ danh lấy cảm hứng từ Hỏa ngục. Ngoài Vực Địa ngục nổi tiếng của Botticelli, còn có chi tiết điêu khắc không nhuốm màu thời gian Ba Vong linh trong bức chạm Cổng Địa ngục của Rodin [10]… Hình vẽ lão chèo đò Phlegyas [11] của Stradanus đang chèo qua những xác người chìm trên con sông Styx… Những kẻ tội đồ tham lam đang lăn lộn trong cơn bão vĩnh cửu của William Blake… Hình ảnh gợi dục lạ lùng mô tả Dante và Virgil đang nhìn hai người đàn ông khỏa thân đánh nhau của Bouguereau… Những linh hồn bị hành hạ đang co rúm dưới cơn mưa những hòn lửa bỏng rát của Bayros… Loạt tranh màu nước và khắc gỗ kỳ lạ của Salvador Dalí… và tuyển tập đồ sộ tranh khắc axit đen trắng của Doré mô tả mọi thứ từ lối vào Địa ngục… tới nhân vật Satan có cánh.
Giờ đây, dường như phiên bản địa ngục trong trường ca của Dante không chỉ ảnh hưởng đến những nghệ sĩ đáng kính nhất trong suốt chiều dài lịch sử. Rõ ràng, nó còn truyền cảm hứng cho một nhân vật nữa – một sinh linh quằn quại đã thay đổi bức vẽ nổi tiếng của Botticelli bằng kỹ thuật số, cho thêm mười chữ cái, một bác sĩ dịch hạch, và ký một dòng chữ đầy đe dọa nói về việc nhìn ra chân lý qua con mắt của tử thần. Nghệ sĩ này còn cất giữ bức vẽ trong một máy chiếc công nghệ cao được giấu trong mẩu xương được chạm trổ kỳ quái.
Langdon không thể nghĩ ra ai đã tạo ra một tác phẩm như vậy, nhưng giờ đây, vấn đề này dường như chỉ là thứ yếu trước một câu hỏi đáng ngại hơn nhiều.
Thế quái nào mình lại mang theo thứ này?
o O o
Khi Sienna đứng bên Langdon trong gian bếp và ngẫm nghĩ về hành động tiếp theo của mình, bất ngờ có tiếng động cơ phân khối lớn gầm lên từ đoạn phố phía dưới. Tiếp đến là tiếng rít của lốp xe và tiếng cửa xe hơi đóng mạnh.
Không hiểu chuyện gì, Sienna lao tới bên cửa sổ và nhìn ra ngoài.
Một chiếc xe thùng không biển số màu đen phanh gấp và dừng lại dưới phố. Từ trên xe ùa ra một nhóm người, tất cả đều mặc đồng phục đen với phù hiệu màu xanh lục hình tròn trên vai trái. Họ lăm lăm súng trường tự động và di chuyển đúng dáng dấp của nhà binh. Không chút do dự, bốn người lính lao tới lối vào tòa chung cư.
Sienna cảm thấy máu trong mình đông cứng. “Robert!”, cô hét lên. “Tôi không biết họ là ai, nhưng họ tìm thấy chúng ta rồi!”
o O o
Dưới phố, đặc vụ Christoph Brüder hét to ra lệnh cho người mình xông vào tòa nhà. Anh ta là người có vóc dáng vạm vỡ, những năm tháng trong quân ngũ đã rèn luyện anh ta thành người chỉ biết thực thi nhiệm vụ một cách vô cảm và chấp hành mệnh lệnh chỉ huy. Anh ta biết rõ nhiệm vụ của mình, và biết cả những mối nguy hiểm.
Tổ chức mà anh ta phục vụ bao gồm nhiều đơn vị, nhưng đơn vị của Brüder – Giám sát và Hỗ trợ Phản ứng SRS – chỉ được triệu tập khi có một tình huống lâm vào thế “khủng hoảng”.
Khi người của mình mất hút trong tòa nhà, Brüder đứng canh cửa trước, móc thiết bị liên lạc và liên hệ người cần gặp.
“Brüder đây”, anh ta nói. “Chúng ta đã lần ra Langdon nhờ địa chỉ IP máy tính của anh ta. Nhóm của tôi đang tiến vào. Tôi sẽ thông báo khi chúng tôi bắt được anh ta.”
o O o
Phía trên đầu Brüder, nơi thềm tầng mái khách sạn Pensione la Fiorentina, Vayentha kinh hãi trợn mắt nhìn xuống đám đặc vụ đang lao vào tòa nhà chung cư như không tin vào mắt mình.
Bọn họ làm cái quái gì ở đây thế?!
Ả lùa một tay vào mái tóc đinh, và chợt hiểu những hậu quả kinh khủng từ điệp vụ thất bại của mình đêm qua. Chỉ sơ sểnh một chút, tất cả đã thay đổi vượt khỏi tầm kiểm soát. Chuyện ban đầu tưởng như chỉ là một điệp vụ đơn giản… giờ đã biến thành một cơn ác mộng hiện hữu.
Nếu đội SRS ở đây thì mọi việc với mình chấm hết rồi.
Vayentha cuống quýt vớ lấy thiết bị liên lạc hiệu Sectra Tiger XS và gọi cho Thị Trưởng.
“Thưa ngài”, ả lắp bắp. “Đội SRS ở ngay đây! Người của Brüder đang tràn vào tòa chung cư bên kia phố!”
Ả đợi phản ứng phía bên kia, nhưng chỉ nghe thấy những tiếng lách cách sắc lạnh trên máy, rồi một giọng nói điện tử rất bình thản vang lên, “Giao thức từ chối bắt đầu”.
Vayentha hạ điện thoại và nhìn màn hình, vừa kịp thấy thiết bị liên lạc đã mất.
Mặt cắt không còn giọt máu, Vayentha cố ép mình phải chấp nhận những gì đang diễn ra. Consortium vừa chấm dứt tất cả mọi liên lạc với ả.
Không liên lạc. Không giao thiệp.
Mình đã bị từ chối.
Cảm xúc bàng hoàng chỉ thoáng qua.
Tiếp đến là nỗi sợ hãi.
--16--
“Nhanh lên, Robert!”, Sienna giục giã. “Theo tôi!”
Suy nghĩ của Langdon vẫn ngập tràn những hình ảnh ảm đạm về địa ngục của Dante trong lúc anh vọt ra khỏi cửa, tới hành lang của tòa chung cư. Cho đến lúc này, Sienna Brooks vẫn kiểm soát được tình hình căng thẳng của buổi sáng nay bằng phong thái hết sức điềm tĩnh, nhưng lúc này, vẻ bình tĩnh của cô càng lúc càng căng lên với một cảm xúc Langdon chưa hề thấy qua ở cô - nỗi sợ hãi thật sự.
Trong hành lang, Sienna chạy trước, vọt nhanh qua chiếc thang máy đã chạy xuống dưới, chắc chắn là do những người đàn ông lúc này đang tiến vào sảnh bấm nút. Cô chạy nhanh về phía cuối hành lang và mất hút vào khu vực cầu thang bộ mà không hề nhìn lại phía sau.
Langdon bám sát cô, cơ thể trượt đi trên đôi giày mềm đế trơn đi mượn. Cái máy chiếu bé xíu trong túi áo ngực Brioni nảy lên, đập vào ngực Langdon trong lúc anh chạy. Đầu anh lại lóe lên những chữ cái kỳ lạ điểm xuyết ở tầng thứ tám của địa ngục: CATROVACER. Anh nhớ đến những cái mặt nạ dịch hạch và dòng chữ ký lạ lùng: Chỉ có thể nắm được chân lý qua cặp mắt chết chóc.
Langdon cố liên kết những yếu tố rời rạc này, nhưng lúc này chưa thấy điều gì có ý nghĩa cả. Cuối cùng, khi anh chạy đến một chỗ chiếu nghỉ của cầu thang, Sienna đã ở đó, đang chăm chú lắng nghe. Langdon nghe rõ tiếng bước chân chạy lên cầu thang từ phía dưới.
“Có lối thoát khác không?”, Langdon thì thào.
“Theo tôi”, cô nói nhanh.
Sienna đã giữ được mạng sống của Langdon một lần trong ngày hôm nay, cho nên anh chẳng còn lựa chọn nào khác nào khác ngoài cách phải tin tưởng người phụ nữ này. Langdon hít một hơi thật sâu và nhảy nhanh xuống thang ngay sau cô.
Họ xuống được một tầng, nghe rõ tiếng giày ủng tiến đến gần hơn, vang vọng phía dưới họ chỉ một hoặc hai tầng.
Tại sao cô ấy lại chạy thẳng về phía họ nhỉ?
Langdon chưa kịp phản đối thì Sienna đã nắm lấy tay anh và kéo tuột anh ra khỏi khu vực thang bộ để chạy vào hành lang vắng tanh của khu nhà - một hành lang dài với những cánh cửa khóa kín.
Làm gì có chỗ nấp!
Sienna gạt một công tắc đèn và vài bóng đèn tắt ngấm, nhưng hành lang lờ mờ vẫn không đủ để che giấu họ. Sienna và Langdon vẫn bị nhìn rõ ở đây. Tiếng bước chân rầm rập gần như đã áp sát họ, và Langdon biết những kẻ tấn công sẽ xuất hiện trên cầu thang bất kỳ lúc nào và có thể nhìn thẳng tới chỗ sảnh này.
“Tôi cần áo khoác của anh”, Sienna thì thào trong lúc kéo tuột áo khoác của Langdon khỏi người anh. Sau đó cô ép Langdon bò rạp sau lưng cô ngay ở một khuôn cửa thụt vào. “Đừng nhúc nhích!”
Cô ta làm gì không biết? Cô ta lộ liễu thế này cơ mà!
Mấy người lính xuất hiện trên cầu thang, lao vội lên trên nhưng hơi dừng lại khi nhìn thấy Sienna trong hành lang tối om.
“Vì Chúa!”, Sienna quát lên với họ, giọng cô rên rỉ. “Có chuyện lộn xộn quái gì vậy?”
Hai người đàn ông nheo mắt, rõ ràng không tin lắm trước những gì họ đang nhìn thấy.
Sienna vẫn quát họ bằng tiếng Ý. “Mới giờ này mà đã ồn ào quá đấy!”
Giờ thì Langdon đã thấy Sienna trùm cái áo khoác đen của anh lên trên đầu và vai như tấm khăn choàng của một bà già. Cô gập người, cố tạo tư thế che chắn để họ không nhìn thấy Langdon đang nép người trong bóng tối, và lúc này, hoàn toàn bất ngờ, cô cà nhắc tiến một bước về phía họ và rít lên như một bà già ốm yếu.
Một gã lính giơ cánh tay lên, ra hiệu cho cô quay trở lại căn hộ của mình. “Bà già! Quay về phòng đi!”
Sienna tập tễnh tiến thêm một bước, vung vẩy nắm tay đầy giận giữ. “Chúng mày làm chồng tao tỉnh dậy đấy, ông ấy đang ốm!”
Langdon nghe mà đầy hoang mang. Họ làm anh chồng ốm đau của cô tỉnh giấc ư!
Một tên lính khác giơ súng máy lên và nhắm thẳng vào cô. “Đứng lại không ăn đạn đấy!”
Sienna đứng khựng lại, nguyền rủa không thương tiếc trong lúc tập tễnh lùi về phía sau, tránh xa bọn họ.
Đám lính chạy lên, mất hút trên gác.
Không hẳn là một màn diễn kịch Shakespeare, Langdon nghĩ bụng, nhưng rất ấn tượng. Rõ ràng kinh nghiệm đóng kịch có thể là một vũ khí lợi hại.
Sienna gỡ áo khoác khỏi đầu và ném trả lại cho Langdon. “Được rồi, theo tôi!”
Lần này, Langdon làm theo không chút do dự.
Họ xuống đến chiếu nghỉ phía trên sảnh chính, nơi có hai người lính nữa vào bước vào thang máy để đi lên. Ngoài phố, một gã lính khác đứng quan sát bên cạnh chiếc xe thùng, bộ đồng phục đen của gã ôm chặt lấy thân hình lực lưỡng. Sienna và Langdon im lặng lẻn nhanh xuống tầng ngầm.
Nhà để xe tầng ngầm tối om và nồng nặc mùi nước tiểu. Sienna chạy tới góc để xe máy. Cô dừng lại trước một chiếc Trike màu bạc - loại xe ba bánh trông chẳng khác gì hậu duệ cục mịch của chiếc Vespa Ý và chiếc xe đạp ba bánh dành cho người lớn. Cô lùa tay bên dưới tấm chắn bùn trước của chiếc Trike và gỡ lấy một hộp nam châm nhỏ. Bên trong là chiếc chìa khóa, cô tra vào ổ và rồ máy.
Mấy giây sau, Langdon đã ngồi lên xe phía sau cô. Langdon ngồi chênh vênh ở phần ghế nhỏ xíu, mò mẫm hai bên sườn, cố tìm chỗ bám hay cái gì đó để ngồi cho vững.
“Không phải lúc e thẹn đâu”, Sienna nói, tóm lấy hai cánh tay anh và đặt ôm quanh phần eo thon thả của mình. “Anh sẽ cần bám chặt đấy.”
Langdon làm đúng như vậy lúc Sienna cho chiếc Trike lao lên dốc. Chiếc xe khỏe hơn so với anh hình dung, và họ gần như rời hẳn mặt đất khi phóng vọt khỏi nhà để xe, lao vào vùng ánh sáng buổi sớm mai, cách xa lối vào chính đến năm mươi thước. Gã lính vạm vỡ ở phía trước tòa nhà ngay lập tức xoay người và nhìn thấy Langdon cùng Sienna lao vọt đi, chiếc Trike của họ phát ra tiếng nổ chói tai khi Sienna tăng hết ga.
Langdon vắt vẻo ngồi ở phía sau, ngó qua vai nhìn lại phía gã lính lúc này đã giương vũ khí lên và ngắm bắn rất cẩn thận. Langdon cố gắng hết sức. Một phát đạn vang lên, nảy khỏi chắn bùn sau chiếc Trike, vừa may trượt qua trụ xương sống của Langdon.
Lạy chúa!
Sienna ngoặt gấp sang trái ở giao lộ, và Langdon cảm thấy mình đang trượt đi nên phải cố giữ thăng bằng.
“Nghiêng về phía tôi!”, cô hết lên.
Langdon ngả về phía trước, lấy lại thăng bằng lần nữa trong lúc Sienna cho chiếc Trike lao xuống một đường phố rộng hơn. Sau khi họ chạy hết một khối nhà, Langdon mới bắt đầu dám thở lại.
Đám người đó là lũ nào không biết?
Sienna vẫn tập trung vào đoạn đường phía trước mặt trong lúc phóng nhanh dọc đại lộ, luồn lách giữa dòng giao thông buổi sáng sớm. Vài khách bộ hành tỏ vẻ ngạc nhiên khi họ chạy ngang qua, rõ ràng không hiểu được khi nhìn thấy một người đàn ông hơn một mét tám trong chiếc áo Brioni lại ngồi phía sau một phụ nữ mảnh mai.
Langdon và Sienna chạy qua ba khối nhà và đang tiếng gần đến một giao lộ chính thì có tiếng còi ré lên phía trước. Một xe thùng đen bóng nhoáng rẽ ngoặt ở góc phố, ôm cua vào giao lộ rồi tăng tốc lao thẳng và phía họ. Chiếc xe thùng trông giống hệt xe của đám lính ở tòa chung cư.
Sienna lập tức ngoặt sang phải và đạp phanh gấp. Ngực Langdon áp chặt vào lưng cô khi cô cho xe trượt vào một điểm đỗ khuất khỏi tầm nhìn phía sau một chiếc xe tải chở hàng đã đỗ sẵn. Cô lái chiếc Trike nép sát ba đờ xốc sau của xe tải và tắt máy.
Họ có nhìn thấy chúng ta không!?
Cô và Langdon cúi thấp xuống và đợi… nín thở.
Chiếc xe thùng phóng ào qua không chút do dự, rõ ràng là chưa hề nhìn thấy họ. Tuy nhiên, khi chiếc xe lao qua, Langdon thoáng nhìn thấy người bên trong.
Ở ghế sau, một phụ nữ có tuổi quyến rũ bị hai người lính kèm chặt giống như một kẻ bị bắt. Đôi mắt bà sụp xuống và đầu bà gật gù như thể đang bị hôn mê hoặc có lẽ say thuốc. Bà đeo một cái bùa và có mái tóc dài rủ xuống thành từng lọn.
Trong khoảng khắc, cổ họng Langdon như nghẹn ứ, và anh nghĩ mình vừa nhìn thấy một bóng ma.
Chính là người phụ nữ trong ảo giác của anh.
--17--
Thị Trưởng bước nhanh ra khỏi phòng điều khiển, đi dọc theo mạn phải tàu The Mendacium, cố gắng tập trung suy nghĩ. Những gì vừa xảy ra ở chung cư tại Florence thật không thể tưởng tượng nổi.
Ông ta đi vòng quanh con tàu đúng hai vòng rồi bước thẳng về văn phòng của mình và lấy một chai single malt [12] Highland Part năm mươi năm tuổi. Ông ta không rót ra ly mà đặt chai xuống và xoay lưng về phía nó - một cách riêng để nhắc rằng ông ta vẫn đang kiểm soát được mọi việc.
Theo bản năng, cặp mắt ông ta di chuyển tới một tập sách bọc da dày dặn trên giá sách - một món quà của khách hàng… vị khách mà lúc này ông ta biết rõ mình đừng bao giờ nên gặp.
Một năm trước… làm sao ta biết được chứ?
Thông thường, Thị Trưởng không trực tiếp phỏng vấn các khách hàng, nhưng vị khách này do một nguồn đáng tin cậy giới thiệu nên ông ta đành chấp nhận ngoại lệ.
Hôm đó là một ngày biển hoàn toàn tĩnh lặng. Vị khách lên boong tàu The Mendacium bằng trực thăng riêng. Đó là một nhân vật nổi tiếng trong lĩnh vực của ông ta, khoảng bốn mươi sáu tuổi, râu tóc gọn gàng, và rất cao, với đôi mắt màu lục như nhìn xoáy vào người khác.
“Ngài biết đấy”, người đàn ông lên tiếng, “một người bạn chung của chúng ta giới thiệu với tôi về các dịch vụ của ngài”. Vị khách duỗi cặp chân dài và tỏ ra hết sức tự nhiên trong văn phòng được trang bị sang trọng của Thị Trưởng. “Nên cho phép tôi được nói với ngài những gì tôi cần.”
“Thực tế thì không cần”, Thị Trưởng ngắt lời, để tỏ rõ với người kia rằng ai mới là người chủ động. “Quy tắc của tôi yêu cầu rằng ngài không nói gì với tôi cả. Tôi sẽ giải thích những dịch vụ mà tôi cung cấp, và ngài sẽ quyết định xem ngài quan tâm đến dịch vụ nào, nếu có.”
Vị khách trông có vẻ ngạc nhiên nhưng chấp thuận và chăm chú lắng nghe. Cuối cùng, những gì vị khách cao ngồng muốn hóa ra lại rất bình thường với Consortium - cơ bản chỉ là biến ông ấy thành “vô hình” một thời gian để ông ấy có thể tránh xa những cặp mắt săn tìm trong lúc theo đuổi một công việc.
Đúng là trò trẻ con!
Consortium sẽ hoàn toàn thành công việc này bằng cách cho ông ấy một nhân dạng giả và một địa điểm bảo mật, hoàn toàn không có kết nối gì, nơi ông ấy có thể làm việc trong bí mật tuyệt đối - bất kể công việc gì. Consortium chưa bao giờ thắc mắc xem khách hàng cần đến một dịch vụ vì mục đích gì, mà luôn chọn cách biết càng ít về những người họ làm việc cùng càng tốt.
Suốt một năm trời, với một khoản lợi nhuận đáng kinh ngạc, Thị Trưởng cung cấp chỗ trú ẩn an toàn cho người đàn ông có đôi mắt màu lục, nhân vật hóa ra lại là một khách hàng lý tưởng. Thị Trưởng không liên hệ gì với ông ấy, và tất cả mọi hóa đơn đều được trả đúng thời hạn.
Thế rồi, thứ hai tuần trước, mọi việc thay đổi.
Rất bất ngờ, vị khách hàng liên hệ lại, yêu cầu gặp riêng Thị Trưởng. Nghĩ đến tổng số tiền vị khách đã thanh toán, Thị Trưởng chấp nhận.
Phải khó khăn lắm mới nhận ra người đàn ông râu tóc bù xù xuất hiện trên tàu chính là nhân vật bảnh bao, điềm tĩnh Thị Trưởng đã giao kèo làm ăn cách đó một năm. Cặp mắt màu lục sắc lẻm một thời ánh lên vẻ hoang dại. Trông anh ta chẳng khác gì người… bệnh.
Chuyện gì xảy ra với ông ta vậy? Ông ta đang làm việc gì vậy không biết?
Thị Trưởng dẫn vị khách có vẻ rất bồn chồn vào văn phòng mình.
“Con quỷ tóc bạc”, vị khách lắp bắp. “Càng ngày mụ ta càng tiếp cận gần hơn.”
Thị Trưởng liếc mắt xuống tập hồ sơ của vị khách, mắt dừng lại ở bức ảnh một người phụ nữ tóc bạc trông rất quyến rũ. “Vâng”, Thị Trưởng nói, “con quỷ tóc bạc của ngài. Chúng tôi đều biết rõ kẻ thù của ngài. Và dù mụ có thể rất mạnh nhưng suốt cả năm, chúng tôi đã bảo vệ ngài trước mụ, và chúng tôi sẽ tiếp tục làm như vậy”.
Người đàn ông dùng ngón tay cuộn những lọn tóc nhờn dầu đầy vẻ bồn chồn. “Đừng để cho vẻ đẹp của mụ đánh lừa ông, mụ ta là một kẻ thù nguy hiểm.”
Đúng, Thị Trưởng nghĩ, nhưng vẫn cảm thấy không hài lòng vì vị khách của mình lại gây chú ý cho một người có sức ảnh hưởng đến vậy. Người phụ nữ tóc bạc có khả năng tiếp cận và nguồn lực to lớn, do đó bà ta không phải hạng đối thủ mà Thị Trưởng muốn đối đầu.
“Nếu mụ hay lũ quỷ của mụ tìm ra tôi…”, vị khách bắt đầu nói.
“Họ sẽ không làm được”, Thị Trưởng trấn an. “Không phải chúng tôi đã che giấu ngài và cung cấp mọi thứ ngài yêu cầu ư?”
“Phải”, người đàn ông nói. “Thế nhưng, tôi sẽ ngủ ngon hơn nếu…” Ông ta ngừng lại, cố tĩnh tâm. “Tôi cần biết rằng nếu có chuyện gì xảy với tôi, ngài sẽ thực hiện nốt những nguyện vọng cuối cùng của tôi.”
“Nguyện vọng đó là gì?”
Người đàn ông thò tay vào túi và lấy ra một phong bì nhỏ dán kín. “Nội dung bên trong phong bì này là một mã truy cập vào một két an toàn ở Florence. Bên trong két, ngài sẽ thấy một vật nhỏ. Nếu có chuyện gì xảy ra với tôi, tôi cần ngài chuyển vật đó đi. Đó là một món quà.”
“Được rồi!” Thị Trưởng cầm bút để ghi chép lại. “Và tôi sẽ chuyển nó cho ai?”
“Cho con quỷ tóc bạc.”
Thị Trưởng ngước lên. “Một món quà cho kẻ khiến ngài khổ sở ư?”
“Nhưng là cái gai cho mụ.” Mắt ông ta ánh lên vẻ man dại. “Một lưỡi câu nhỏ xíu chế tác rất khéo léo từ xương. Mụ ta sẽ phát hiện ra đó là một tấm bản đồ… Virgil của riêng mụ… một tùy tùng theo tới trung tâm địa ngục của mụ.”
Thị Trưởng săm soi vị khách một lúc lâu. “Sẽ đúng như ngài muốn. Coi như mọi việc đã hoàn thành.”
“Vấn đề thời gian sẽ rất quan trọng”, người đàn ông đề nghị. “Món quà không được chuyển đi quá sớm. Ngài phải giữ kín nó cho tới khi…” Ông ta ngừng lại, bỗng nhiên chìm trong suy tưởng.
“Tới khi nào?”, Thị Trưởng nhắc.
Người đàn ông đứng phắt dậy và bước vòng ra phía sau bàn của Thị Trưởng, vồ lấy một chiếc bút đánh dấu màu đỏ và khoanh vào một ngày trên cuốn lịch bàn cá nhân của Thị Trưởng một cách điên cuồng. “Cho tới ngày này.”
Thị Trưởng mím môi và thở hắt ra, cố nén sự khó chịu trước thái độ trơ trẽn của vị khách. “Hiểu rồi”, Thị Trưởng nói. “Tôi sẽ không làm gì cho tới ngày được đánh dấu, đến thời điểm đó thì vật ở trong két an toàn, cho dù nó là gì, sẽ được gửi cho người phụ nữ tóc bạc. Tôi hứa với ngài.” Ông ta đếm số ngày trên quyển lịch tới đúng ngày đã được khoanh lại. “Tôi sẽ thực hiện nguyện vọng của ngài đúng mười bốn ngày nữa tính từ lúc này.”
“Và không được sớm hơn dù chỉ một ngày”, vị khách nhắc nhở vẻ bồn chồn.
“Tôi hiểu”, Thị Trưởng quả quyết. “Không sớm hơn một ngày nào.”
Thị Trưởng cầm lấy phong bì, nhét vào tập tài liệu của vị khách, và viết những ghi chú cần thiết để đảm bảo rằng những nguyện vọng của khách hàng được thực hiện chính xác. Vị khách không mô tả rõ đặc điểm chính xác của vật trong két an toàn, và Thị Trưởng cũng muốn mọi việc cứ như thế này. Không để tâm nhiều là một nền tảng trong triết lý của Consortium. Cung cấp dịch vụ, Không đặt câu hỏi. Không phán xét.
Vai vị khách chùng xuống và ông ta thở hắc ra nặng nề. “Cảm ơn ngài.”
“Còn gì nữa không?”, Thị Trưởng hỏi, vẻ rất muốn tránh xa vị khách đã hoàn toàn biến đổi này.
“Còn, vẫn còn.” Ông ta thò tay vào túi và lấy ra một thẻ nhớ màu đỏ thẫm nhỏ nhắn. “Đây là một tệp video.” Ông ta đặt thẻ nhớ trước mặt Thị Trưởng. “Tôi muốn nó được đưa đến cho truyền thông thế giới.”
Thị Trưởng tò mò ngắm vị khách. Consortium thường truyền phát đi rất nhiều thông tin cho khách hàng, nhưng đề nghị của người đàn ông này có gì đó không ổn. “Cũng đúng ngày đó ư?”, Thị Trưởng hỏi, ra hiệu về phía cái vòng tròn nguệch ngoạc trên cuốn lịch của mình.
“Đúng ngày đó”, vị khách trả lời. “Không sớm hơn một khắc.”
“Hiểu!” Thị Trưởng đánh những thông tin phù hợp vào thẻ nhớ màu đỏ. “Vậy là xong phải không?” Ông ta đứng lên, muốn kết thúc cuộc gặp gỡ.
Vị khách vẫn ngồi yên. “Chưa. Còn một điều cuối cùng.”
Thị Trưởng lại ngồi xuống.
Đôi mắt màu lục của vị khách lúc này trông dữ tợn. “Ngay sau khi ngài chuyển video này đi, tôi sẽ trở thành một người rất nổi tiếng.”
Ông đã là một người nổi tiếng rồi đấy thôi, Thị Trưởng nghĩ bụng, và nhớ tới những thành quả ấn tượng của vị khách hàng.
“Và ngài cũng sẽ có công”, người đàn ông nói. “Dịch vụ ngài cung cấp giúp tôi tạo ra kiệt tác… Một tác phẩm nghệ thuật sẽ làm thay đổi thế giới. Ngài nên tự hào với vai trò của mình.”
“Cho dù kiệt tác của ngài là gì?”, Thị Trưởng nói với vẻ nôn nóng càng lúc càng tăng, “tôi cũng rất vui vì ngài đã có được sự riêng tư cần thiết để tạo ra nó”.
“Để tỏ lòng biết ơn, tôi mang tới cho ngài một món quà chia tay.” Người đàn ông nhếch nhác lại thò tay vào túi. “Một cuốn sách.”
Thị Trưởng tự hỏi phải chăng cuốn sách này chính là tác phẩm nghệ thuật bí mật vị khách đã dày công tạo ra suốt thời gian qua. “Ngài đã viết cuốn sách này ư?”
“Không.” Vị khách đặt một tập sách đồ sộ lên bàn. “Hoàn toàn ngược lại… cuốn sách này được viết ra cho tôi.”
Thị Trưởng nhìn cuốn sách mà vị khách vừa đưa ra bằng vẻ khó hiểu. Ông ta nghĩ thứ này được viết ra cho ông ta ư? Cuốn sách là một tác phẩm văn học kinh điển… được viết vào thế kỷ XIV.
“Hãy đọc nó”, vị khách nài nỉ kèm theo một nụ cười kỳ quái. “Nó sẽ giúp ngài hiểu tất cả những gì tôi đã làm.”
Nói xong, vị khách nhếch nhác đứng lên, chào tạm biệt, và rời đi ngay lập tức. Thị Trưởng nhìn qua cửa sổ văn phòng mình trong khi trực thăng của vị khách rời khỏi sàn tàu và quay trở lại bờ biển nước Ý.
Lúc đó Thị Trưởng mới hướng sự chú ý trở lại cuốn sách lớn trước mặt mình. Những ngón tay đầy do dự của ông ta mở trang bìa da và lật tới phần đầu tiên. Khổ thơ mở đầu của tác phẩm được viết tay rất to đẹp, chiếm trọn toàn bộ trang đầu tiên.
“HỎA NGỤC
Giữa chừng trong hành trình cuộc đời chúng ta
Ta thấy mình trong một khu rừng tăm tối,
vì đã mất dấu con đường phía trước.”
Trên trang đối diện, vị khách đã ký vào sách với một lời nhắn viết tay:
“Bạn thân mến của tôi, cảm ơn bạn vì đã giúp tôi tìm ra đường đi. Thế giới cũng cảm ơn bạn!”
Thị Trưởng không hiểu lời nhắn này có nghĩa gì, nhưng ông ta thấy đọc thế là đủ. Ông ta gập sách lại và đặt nó lên giá sách. Thật may, mối quan hệ công việc với nhân vật kỳ lạ này sắp chấm dứt. Thêm mười bốn ngày nữa thôi, Thị Trưởng thầm nghĩ, và hướng ánh mắt về phía cái vòng tròn đỏ rực nguệch ngoạc trên cuốn lịch cá nhân của mình.
Những ngày tiếp theo, Thị Trưởng cảm thấy rất không an tâm, với vị khách. Người đàn ông này dường như đã bị quẫn trí. Tuy nhiên, bất kể trực giác của Thị Trưởng thế nào, thời gian vẫn cứ trôi đi mà không xảy ra biến cố gì.
Thế rồi, ngay trước cái ngày được khoanh tròn, một loạt sự việc tai hại xảy ra ở Florence. Thị Trưởng đã cố gắng giải quyết sự cố, nhưng nó nhanh chóng vượt ra ngoài tầm kiểm soát. Cuộc khủng hoảng lên đến đỉnh điểm bằng sự việc vị khách của ông ta leo lên tháp Badia.
Ông ta nhảy xuống… và chết.
Mặc dù mất đi một khách hàng, nhất là lại theo cách thế này, nhưng Thị Trưởng vẫn giữ đúng lời với vị khách. Ông ta nhanh chóng chuẩn bị thực hiện đúng lời hứa cuối cùng của mình với người đã khuất – chuyển cho người phụ nữ tóc bạc những gì bên trong cái két an toàn ở Florence – và vấn đề thời gian chuyển hàng, như ông ta đã lưu ý, là rất quan trọng.
Không được sớm hơn cái ngày đã khoanh tròn trên lịch của ngài.
Thị Trưởng trao phong bì có chứa mật mã két an toàn cho Vayentha, người được cử đến Florence để lấy thứ bên trong – cái “lưỡi câu nhỏ xíu chế tác rất khéo léo” này. Tuy nhiên, lúc Vayentha gọi lại, tin tức của cô ta vừa gây sốc vừa rất đáng ngại. Những gì bên trong két an toàn đã bị lấy mất, và Vayentha may mắn chạy thoát. Bằng cách nào đó, người phụ nữ tóc bạc biết được tài khoản và đã dùng ảnh hưởng của mình để tiếp cận cái két, đồng thời cũng ra lệnh bắt giữ bất kỳ ai khác xuất hiện để tìm cách mở két.
Việc đó xảy ra ba ngày trước.
Vị khách có ý định rất rõ ràng rằng muốn cái vật đã bị đánh cắp là lời nguyền của ông ta dành cho người phụ nữ tóc bạc – một tiếng nói cay độc từ dưới mồ.
Nhưng nó đã được nói quá sớm…
Từ lúc đó, Consortium bước vào cuộc tranh giành quyết liệt - sử dụng mọi nguồn lực của mình để bảo vệ những nguyện vọng cuối cùng của khách hàng, cũng như bảo vệ chính mình. Trong quá trình ấy, Consortium đã vượt qua rất nhiều ranh giới mà Thị Trưởng biết sẽ rất khó quay trở lại được nữa. Lúc này, trước tất cả những gì đang diễn ra ở Florence, Thị Trưởng đăm đăm nhìn xuống mặt bàn và tự hỏi tương lai sẽ ra sao.
Trên cuốn lịch của ông ta, cái vòng tròn nguệch ngoạc của vị khách trừng trừng nhìn lại - một vòng tròn đỏ thẫm bao quanh một ngày rất đặc biệt.
Ngày mai.
Đầy miễn cưỡng, Thị Trưởng nhìn chai Scotch trên bàn trước mặt mình. Thế rồi, lần đầu tiên trong mười bốn năm, ông ta rót ra một ly và uống cạn chỉ với một hớp duy nhất.
o O o
Ở sàn tàu phía dưới, điều phối viên Laurence Knowlton rút chiếc thẻ nhớ màu đỏ khỏi máy tính và đặt lên bàn trước mặt mình. Đoạn video là một trong những điều lạ lùng nhất anh ta từng xem.
Và nó dài đúng chín phút… nếu tình theo từng giây.
Cảm thấy sợ hãi một cách khác thường, anh ta đứng lên và sải bước trong căn phòng nhỏ xíu của mình, tự hỏi không biết có nên đưa đoạn video kỳ quái kia cho Thị Trưởng hay không.
Cứ việc thực hiện nhiệm vụ của mày, Knowlton tự nhủ. Không hỏi. Không phán xét.
Cố xua đoạn video ra khỏi đầu, anh ta đánh dấu vào sổ công việc một nhiệm vụ phải làm. Ngày mai, đúng như yêu cầu của vị khách, anh ta sẽ tung tệp video ra cho giới truyền thông.
