Tác giả: Dan Brown
--10--
“Anh ngồi đi”, Sienna nói. “Tôi có vài câu hỏi cho anh.”
Khi vào bếp, Langdon cảm thấy chân mình bước vững vàng hơn. Lúc này anh mặc bộ đồ hiệu Brioni của hàng xóm vừa như in. Ngay cả đôi giày mềm cũng rất thoải mái, và trong đầu Langdon đã có lưu ý sẽ đổi sang đi giày Ý khi trở về nhà.
Nếu mình về được nhà, anh nghĩ bụng.
Sienna đã thay đổi hẳn – một vẻ đẹp tự nhiên. Cô vừa đổi sang chiếc quần bò rất tôn dáng và áo len màu kem, cả hai thứ trang phục như càng làm thân hình yểu điệu của cô thêm nổi bật. Mái tóc cô vẫn vấn ra sau thành đuôi ngựa, và khi không còn vẻ quyền uy nhờ những vật dung ngành y, dường như cô yếu đuối hơn. Langdon nhận thấy đôi mắt cô sưng đỏ, như thể cô vừa khóc, và cảm giác tội lỗi lại xâm chiếm lấy anh.
“Sienna, tôi rất xin lỗi. Tôi đã nghe hết lời nhắn trên điện thoại. Tôi không biết phải nói sao.”
“Cảm ơn anh”, cô đáp. “Nhưng lúc này chúng ta cần tập trung vào chính bản thân anh. Anh ngồi đi.”
Lúc này giọng cô rắn rỏi hơn, gợi nhớ đến những bài báo mà Langdon vừa đọc về trí tuệ và thời niên thiếu sớm phát triển của cô.
“Tôi cần anh suy nghĩ”, Sienna nói, tay ra hiệu cho anh ngồi xuống. “Anh có nhớ làm thế nào chúng ta tới được căn hộ này không?”
Langdon không dám chắc câu hỏi này có liên quan đến tình hướng trước mặt. “Trên một chiếc taxi”, anh nói, ngồi xuống bên bàn. “Có người bắn chúng ta.”
“Bắn anh, thưa Giáo sư. Chúng ta cần phải rõ ràng về chuyện đó.”
“Vâng. Xin lỗi.”
“Thế anh có nhớ được có mấy phát súng lúc chúng ta còn trên taxi không?”
Câu hỏi ngớ ngẩn. “Có, hai phát. Một trúng gương bên hông xe, và một bắn vỡ cửa kính sau.”
“Tốt lắm, giờ thì anh nhắm mắt lại.”
Langdon nhận ra cô đang kiểm tra trí nhớ của mình. Anh bèn nhắm mắt lại.
“Tôi đang mặc đồ gì?”
Langdon có thể nhìn rõ cô. “Giày đế bằng màu đen, quần bò xanh, và áo len cổ chữ V màu kem. Tóc cô vàng, dài đến vai, vấn ra phía sau. Mắt cô màu nâu.”
Langdon mở mắt và ngắm cô, rất hài lòng khi thấy trí nhớ thị giác của mình vẫn hoạt động bình thường.
“Tốt lắm. Khả năng nhận thức thị giác của anh rất tốt, càng xác nhận chứng mất trí của anh đã không còn, và anh không hề bị thương tổn gì vĩnh viễn liên quan đến quá trình ghi nhớ. Anh có nhớ được điều gì mới về mấy ngày qua không?”
“Thật tiếc là không hề. Thế nhưng tôi lại nhìn thấy những hình ảnh ấy lúc cô ra ngoài.”
Langdon kể cho cô nghe hình ảnh ảo giác về người phụ nữ che mạng, người chết, và những đôi chân có chữ R bị chôn vùi một nửa quẫy đạp. Rồi anh kể cho cô về cái mặt nạ có mỏ hình quái lơ lửng trên bầu trời.
“‘Ta là cái chết’ ư?”, Sienna hỏi, vẻ mặt bồn chồn.
“Vâng, đó là những gì nó nói.”
“Được rồi… Tôi đoán như thế cũng giống ‘Ta là Vishnu, kẻ hủy diệt thế giới’.”
Người phụ nữ trẻ vừa dẫn lại lời Robert Oppenheimer lúc ông ta thử nghiệm quả bom nguyên tử đầu tiên.
“Còn cái mặt nạ mắt xanh lè… mũi hình mỏ chim ư?”, Sienna nói, vẻ khó hiểu. “Anh có ý tưởng gì để lý giải tại sao trí nhớ anh lại gợi ra hình ảnh đó không?”
“Chẳng có ý tưởng gì cả, nhưng kiểu mặt nạ đó rất thịnh hành thời trung cổ”, Langdon dừng lại. “Người ta gọi đó là mặt nạ dịch hạch.”
Trông Sienna mất bình tĩnh một cách kỳ lạ. “Mặt nạ dịch hạch ư?”
Langdon giải thích nhanh gọn rằng trong thế giới biểu tượng của anh, hình dáng đặc thù của chiếc mặt nạ mỏ chim gần như đồng nghĩa với Cái chết Đen – trận đại dịch tràn qua châu Âu vào thế kỷ XIV, giết một phần ba dân số ở một vài vùng. Hầu hết mọi người tin rằng chữ “đen” trong tên gọi chỉ tình trạng da thịt nạn nhân tím đen lại do hoại tử và xuất huyết dưới da, nhưng thực tế từ đen là để chỉ nỗi khiếp sợ mà dịch bệnh này gieo rắc trong dân chúng.
“Cái mặt nạ mỏ dài đó”, Langdon nói, “được các bác sĩ bệnh dịch hạch thời trung cổ đeo để ngăn không cho bệnh xâm nhập vào lỗ mũi họ trong lúc điều trị người bị nhiễm bệnh. Còn giờ đây, cô chỉ nhìn thấy chúng được dùng làm phục trang trong lễ hội Venice Carnevale – lời nhắc nhở kỳ khôi về một giai đoạn đen tối trong lịch sử nước Ý”.
“Và anh chắc chắn mình nhìn thấy cái mặt nạ như thế trong ảo ảnh của mình chứ?”, Sienna hỏi, lúc này giọng cô run run. “Một mặt nạ của bác sĩ bệnh dịch hạch thời trung cổ à?”
Langdon gật đầu. Một cái mặt nạ mỏ chim thì khó mà nhầm lẫn được.
Cách Sienna nhíu mày khiến Langdon có cảm giác rằng cô đang cố nghĩ ra cách tốt nhất để nói với anh vài tin không hay. “Và người phụ nữ cứ nhắc anh ‘tìm kiếm và sẽ thấy’ phải không?”
“Đúng. Vẫn như lúc trước. Nhưng vấn đề là tôi không rõ mình cần tìm cái gì.”
Sienna từ từ thở hắt ra một hơi dài, nét mặt hết sức nghiêm trọng. “Tôi nghĩ có lẽ tôi biết. Và thêm nữa… Tôi nghĩ có thể anh cũng đã tìm thấy nó.”
Langdon trợn mắt nhìn. “Cô đang nói gì thế?!”
“Robert, đêm qua khi anh tới bệnh viện, anh mang theo một thứ rất không bình thường trong túi áo khoác. Anh còn nhớ nó là gì không?”
Langdon lắc đầu.
“Anh mang theo một vật… một vật khá đáng chú ý. Tôi tình cờ thấy nó khi chúng tôi lau rửa cho anh.” Cô làm hiệu về phía chiếc áo Harris Tweed dính máu của Langdon, vẫn còn nằm trên bàn. “Nó vẫn trong túi áo đấy, nếu anh có ý định nhìn xem.”
Vẻ ngập ngừng, Langdon nhìn chiếc áo. Ít nhất điều đó giải thích tại sao cô ấy quay lại vì chiếc áo của mình. Anh vớ lấy chiếc áo khoác dính máu và lần tìm cái túi, từng cái một. Chẳng có gì cả. Anh lục lại lần nữa. Cuối cùng, anh nhún vai quay về phía cô, “Ở đây chẳng có gì hết.”
“Thế còn túi bí mật thì sao?”
“Cái gì? Áo khoác của tôi làm gì có túi bí mật.”
“Không ư?” Trông cô rất bối rối. “Vậy cái áo này… là của người khác ư?”
Đầu óc Langdon lại rối tung lên. “Không, đây là áo khoác của tôi.”
“Anh chắc chứ?”
Quá chắc, anh nghĩ bụng. Thực tế, nó là hiệu Camcerley mà tôi ưa chuộng đấy.
Anh lật ngược lớp lót áo và chìa cho Sienna xem nhãn hiệu có mang biểu tượng mà anh ưa chuộng trong thế giới thời trang – quả cầu của hãng Harris Tweed được trang trí mười ba viên đá quý hình khuy cùng một chữ thập Maltese trên đỉnh.
Hãy để người Scot triệu hồi các chiến binh Thiên Chúa giáo trên vải dệt chéo.
“Nhìn cái này đi”, Langdon nói, tay chỉ hai chữ cái R.L. được thêu bằng tay thêm vào nhãn hiệu. Anh luôn thích thú những mẫu may đo của Harris Tweed, và vì lý do ấy, anh thường trả thêm tiền để người ta thêu chữ cái tên anh vào nhãn hiệu. Ở trường đại học, nơi hàng trăm chiếc áo khoác vải len liên tục được cởi ra rồi mặc vào trong phòng ăn và trên giảng đường, Langdon không hề muốn bị mặc nhầm áo do cẩu thả.
“Tôi tin anh”, cô nói, cầm lấy chiếc áo khoác từ tay anh. “Giờ anh nhìn đây.”
Sienna mở rộng chiếc áo khoác để lộ lớp lót gần gáy. Chỗ đó, được giấu kín trong lớp vải lót, là một cái túi khá lớn có hình thù rất gọn ghẽ.
Thế quái nào nhỉ?!
Langdon chắc chắn rằng anh chưa bao giờ nhìn thấy cái túi này trước đó.
Cái túi có một đường chỉ giấu kín, được may rất khéo.
“Nó không hề có ở đó lúc trước!”, Langdon dứt khoát.
“Vậy thì tôi đoán rằng anh chưa bao giờ nhìn thấy… thứ này đúng không?” Sienna thò tay vào túi và moi ra một vật kim loại rất đẹp mà cô nhẹ nhàng đặt vào tay Langdon.
Langdon trợn mắt nhìn xuống vật đó với vẻ hoang mang cực độ.
“Anh có biết thứ này là gì không?”, Sienna hỏi.
“Không…”, anh lắp bắp. “Tôi chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì như thế này.”
“Chà, thật không may, tôi lại biết rõ đây là gì. Và tôi tin chắc nó chính là lý do có người tìm cách giết anh.”
o O o
Lúc này điều phối viên Knowlton đang đi đi lại lại trong buồng riêng trên tàu The Mendacium, càng lúc càng thấy bồn chồn khi nghĩ đến đoạn video anh ta được giao phải cung cấp cho cả thế giới biết vào sáng mai.
Ta là Vong linh ư?
Có tin đồn rằng vị khách hàng đặc biệt này bị sang chấn tâm thần trong mấy tháng qua, nhưng đoạn video dường như xác định những lời đồn đó là không có cơ sở.
Knowlton biết mình có hai lựa chọn. Anh ta có thể chuẩn bị phát tán đoạn video vào ngày mai như đã hứa, hoặc có thể mang nó lên gác gặp Thị Trưởng để đưa ra ý kiến về quyết định thứ hai.
Mình đã biết ý kiến của ông ấy rồi, Knowlton nghĩ bụng, vì chưa bao giờ thấy Thị Trưởng có hành động gì khác ngoài những việc đã hứa với khách hàng. Ông ấy sẽ bảo mình cung cấp đoạn video này cho thế giới, không cần hỏi làm gì… và ông ấy sẽ nổi điên với mình vì việc này.
Knowlton hướng sự chú ý trở lại đoạn video đã được tua đến một vị trí đặc biệt đáng lo ngại. Anh ta bắt đầu cho chạy lại, và cái hang có thứ ánh sáng kỳ dị lại xuất hiện kèm với tiếng nước róc rách. Bóng người hiện ra lù lù trên vách hang đang nhỏ nước – một gã đàn ông cao lớn với cái mỏ chim dài.
Bằng chất giọng nghèn nghẹt, cái bóng quái dị cất tiếng:
“Đã đến thời kỳ Tăm tối mới.
Nhiều thế kỷ trước, châu Âu chìm sâu trong cảnh khốn cùng – dân chúng túm tụm với nhau, chết đói, chìm trong tội lỗi và vô vọng. Họ giống như một cánh rừng chật chội, ngột ngạt vì những kẻ vô dụng, chờ đợi tia sét của Chúa trời – tia lửa sẽ làm đám cháy bùng lên, lan rộng trên mặt đất và thiêu sạch đám vô dụng, một lần nữa đưa ánh mặt trời tới những gốc cây khỏe mạnh.
Chọn lọc là Quy luật Tự nhiên của Chúa trời.
Hãy tự hỏi bản thân, sau Cái chết Đen là gì?
Tất cả chúng ta đều biết câu trả lời.
Thời kỳ Phục Hưng.
Sự tái sinh.
Luôn là như thế. Tiếp sau cái chết là sự sinh sôi.
Để đến được Thiên đường, con người phải đi qua Hỏa ngục.
Điều này, thầy đã dạy chúng ta.
Thế mà kẻ ngu dốt tóc bạc lại dám gọi ta là quái vật ư? Chắc mụ vẫn không hiểu rõ môn toán học của tương lai chăng? Cả những điều kinh hoàng nó sẽ mang theo nữa?
Ta là Vong linh.
Ta là sự cứu rỗi của các người.
Và vì thế ta đứng lên, sâu trong lòng hang này, phóng mắt nhìn qua đầm nước không một ánh sao phản chiếu. Tại đây, trong dinh lũy đã bị nhận chìm này, Hỏa ngục cháy âm ỉ bên dưới làn nước.
Sớm muộn nó sẽ bùng lên thành ngọn lửa.
Và đến khi đó, chẳng có gì trên trái đất có thể ngăn được nó.”
--11--
Vật nằm trong bàn tay Langdon nặng hơn hẳn so với kích thước của nó. Thon và trơn láng, cái hình trụ bằng kim loại nhẵn thín ấy dài khoảng mười lăm phân và tròn cả hai đầu, giống như một quả ngư lôi thu nhỏ
“Trước khi mạnh tay cầm vào thứ đó”, Sienna lên tiếng, “có lẽ anh cần nhìn mặt bên kia đã”. Cô mỉm cười với anh nhưng khá căng thẳng. “Anh nói anh là giáo sư về các biểu tượng phải không?”
Langdon chăm chú nhìn cái ống trụ, xoay nó trong lòng bàn tay cho tới khi một biểu tượng màu đỏ tươi hiện rõ bên hông ống.
Cơ thể anh ngay lập tức cứng đờ.
Khi còn là sinh viên ngành biểu tượng học, Langdon đã biết rằng một số hình ảnh ghê gớm có sức mạnh gieo rắc nỗi sợ hãi ngay lập tức vào tâm trí con người… nhưng cái biểu tượng trước mắt anh thì khỏi phải nói. Phản ứng của anh hoàn toàn mang tính bản năng và ngay tức thì, anh đặt cái ống lên bàn rồi ngồi phịch xuống ghế.
Sienna gật đầu. “Vâng, phản ứng của tôi cũng y như vậy.”
Dấu hiệu trên ống là một biểu tượng ba nhánh đơn giản.
Biểu tượng khét tiếng này, như Langdon từng đọc được, do Dow Chemical nghĩ ra vào những năm 1960, để thay thế cho chuỗi đồ họa cảnh báo được sử dụng không mấy hiệu quả trước đó. Như tất cả những biểu tượng thành công khác, biểu tượng này đơn giản, đặc trưng và dễ tạo. Khéo léo khơi gợi mối liên hệ với mọi thứ, từ cặp càng cua đến những phi tiêu của ninja, biểu tượng “nguy hiểm sinh học” hiện đại này trở thành một nhãn hiệu toàn cầu truyền tải ý nghĩa nguy hiểm trong mọi ngôn ngữ.
“Cái ống nhỏ xíu này là một ống tuýp sinh học”, Sienna nói. “Nó dùng để mang những chất nguy hiểm. Chúng tôi thỉnh thoảng nhìn thấy chúng trong lĩnh vực y khoa. Bên trong là một lớp bọt bao bọc lấy ống chất mẫu để có thể mang đi an toàn. Trong trường hợp này…” Cô chỉ vào biểu tượng nguy hiểm sinh học. “Tôi đoán là một tác nhân hóa học chết người… hoặc có thể là một… loại virus?”, cô ngừng lại. “Các mẫu Ebola [9] đầu tiên được mang về từ châu Phi qua một cái ống y hệt như thế.”
Đây không phải toàn bộ những gì Langdon muốn nghe. “Nhưng nó làm cái quái gì trong áo khoác của tôi chứ! Tôi là một giáo sư lịch sử nghệ thuật mà, tại sao tôi lại mang cái thứ này?”
Hình ảnh những xác người quằn quại lại lóe lên trong trí anh… và lơ lửng phía trên cái mặt nạ dịch hạch.
Rất xin lỗi… Rất xin lỗi!
“Cho dù thứ này từ đâu đến”, Sienna nói, “nó cũng là một vật có độ bền cao. Titan lót chì. Gần như không thể xuyên thủng, thậm chí bằng phóng xạ. Tôi đoán là vấn đề cấp chính phủ.” Cô chỉ vào ô màu đen cỡ bằng con tem ngay bên cạnh biểu tượng nguy hiểm sinh học. “Xác nhận bằng dấu tay. Bảo đảm an ninh trong trường hợp bị thất lạc hoặc đánh cắp. Những ống như thế này chỉ một người đặc biệt mới mở được.”
Mặc dù Langdon cảm giác đầu óc mình lúc này đang làm việc với tốc độ bình thường nhưng anh vẫn thấy như thể đang phải cố hết sức. Mình đang mang theo một ống tuýp niêm phong bằng vân tay.
“Khi tôi phát hiện cái ống này trong áo khoác của anh, tôi muốn cho riêng bác sĩ Marconi xem, nhưng tôi không có cơ hội làm vậy lúc anh chưa tỉnh lại. Tôi đã định thử đặt ngón tay anh lên cái ô kia trong lúc anh đang bất tỉnh, nhưng tôi lại không rõ thứ gì trong ống, và…”
“Ngón tay TÔI ư?”, Langdon lắc đầu. “Làm sao có chuyện thứ này được lập trình để tôi là người mở nó chứ. Tôi có biết gì về hóa sinh đâu. Tôi chưa từng có thứ gì như thế này cả.”
“Anh chắc chứ?”
Langdon rất chắc chắn. Anh vươn tay và đặt ngón cái của mình vào ô vuông. Chẳng có gì xảy ra cả. “Thấy chưa? Tôi đã nói…”
Cái ống titan phát ra tiếng kêu rất to, và Langdon giật tay về như phải bỏng. Khốn nạn. Anh đăm đăm nhìn cái ống như thể nó sắp tự mở toang và bắt đầu xì ra một thứ khí độc chết người. Sau ba giây, nó lại phát ra tiếng động, rõ ràng đang tự khóa lại.
Không nói gì, Langdon quay sang nhìn Sienna.
Cô bác sĩ trẻ thở hắt ra, trông bệch bạc. “Chà, rõ ràng chính anh là người được chỉ định mang nó đi rồi.”
Với Langdon, toàn bộ tấn kịch này thật phi lý. “Không thể như thế. Trước hết, làm cách nào tôi tha được mẩu kim loại này qua chốt an ninh sân bay chứ?”
“Có lẽ anh bay bằng máy bay riêng? Hoặc có lẽ người ta giao cho anh khi anh đến Ý?”
“Sienna, tôi cần gọi cho lãnh sự. Ngay bây giờ.”
“Anh không nghĩ chúng ta cần mở nó ra trước đã à?”
Trong đời mình, Langdon từng có một số hành động hấp tấp, nhưng mở một vật chứa chất độc ngay trong bếp của người phụ nữ này không phải là một trong những hành động như thế. “Tôi sẽ bàn giao thứ này cho giới chức trách. Ngay bây giờ!”
Sienna mím chặt môi, suy tính về mọi khả năng. “Được rồi, nhưng ngay khi thực hiện cuộc gọi đó, anh phải tự giải quyết. Tôi không can dự vào. Đương nhiên anh không thể gặp họ ở đây. Hoàn cảnh di trú của tôi ở Ý rất… phức tạp.”
Langdon nhìn vào mắt Sienna. “Tất cả những gì tôi biết, Sienna, là cô đã cứu mạng tôi. Tôi sẽ giải quyết chuyện này đúng như ý muốn của cô.”
Cô gật đầu cảm ơn và bước lại phía cửa sổ, chăm chú nhìn xuống con phố phía dưới. “Được rồi, chúng ta cần làm như thế này nhé!”
Sienna nhanh nhẹn vạch ra một kế hoạch. Nó rất đơn giản, khôn khéo và an toàn.
Langdon đợi cô bật chế độ chặn hiển thị người gọi trong điện thoại di động và bấm số. Các ngón tay của cô thanh mảnh nhưng di chuyển rất có chủ định.
“Thông tin thuê bao phải không?”, Sienna nói bằng tiếng Ý không thể chê vào đâu. “Xin cho tôi số máy của Lãnh sự quán Hoa kỳ tại Firenze được không?”
Cô đợi và sau đó nhanh nhẹn viết ra một số điện thoại.
“Rất cảm ơn”, cô đáp và ngắt máy.
Sienna chìa số điện thoại cho Langdon cùng với điện thoại của cô. “Anh nói đi. Anh nhớ phải nói gì chưa?”
“Trí nhớ của tôi tốt mà”, anh mỉm cười nói trong lúc bấm số máy ghi trên mẩu giấy. Đường dây bắt đầu đổ chuông.
Chẳng thấy gì cả.
Anh chuyển sang chế độ loa ngoài và đặt điện thoại lên bàn để Sienna cũng có thể nghe được. Đáp lời là một tin nhắn đã ghi âm sẵn, cung cấp thông tin chung về các dịch vụ lãnh sự và giờ làm việc, tức là phải sau 8 giờ 30 phút sáng.
Langdon nhìn đồng hộ trên bàn. Mới chỉ có sáu giờ sáng.
“Nếu đây là tình huống khẩn cấp”, đoạn ghi âm tự động nói, “quý vị có thể gọi tới số 7-7 để báo với nhân viên trực đêm”.
Langdon lập tức bấm số máy lẻ.
Đường dây lại đổ chuông.
“Lãnh sự quán Hoa Kỳ xin nghe”, một giọng nói mệt mỏi trả lời bằng tiếng Ý. “Tôi là nhân viên trực đây.”
“Anh nói được tiếng Anh chứ?”, Langdon hỏi bằng tiếng Ý.
“Đương nhiên”, người đàn ông bên kia đáp lại bằng tiếng Anh Mỹ. Giọng anh ta có vẻ khó chịu vì bị đánh thức. “Tôi giúp gì được anh?”
“Tôi là công dân Mỹ đang có mặt ở Florence và tôi bị tấn công. Tên tôi là Robert Langdon.”
“Xin cho biết số hộ chiếu”, người đàn ông ngáp nghe rõ mồn một.
“Tôi bị mất hộ chiếu. Tôi nghĩ nó bị đánh cắp. Tôi bị bắn vào đầu. Tôi ở trong bệnh viện. Tôi cần giúp đỡ.”
Nhân viên trực đột nhiên tỉnh ngủ hẳn. “Thưa ông! Ông vừa nói ông bị bắn phải không? Xin ông nói lại họ tên đầy đủ được không?”
“Robert Langdon.”
Có tiếng sột soạt trên đường dây và sau đó Langdon nghe rõ tiếng ngón tay của người đàn ông gõ lách cách trên bàn phím. Tiếng máy tính kêu “ping”. Tạm dừng. Rồi lại nghe tiếng ngón tay trên bàn phím. Lại một tiếng “ping”. Tiếp đến là ba tiếng “ping” chói lói.
Tạm dừng lâu hơn.
“Thưa ông?”, người đán ông lên tiếng. “Tên ông là Robert Langdon phải không?”
“Vâng, đúng vậy. Và tôi đang gặp rắc rối.”
“Được rồi, thưa ông, tên ông được đánh dấu lưu ý, và tôi được chỉ dẫn lập tức nối máy cho ông với chánh văn phòng của Tổng lãnh sự.” Người đàn ông ngừng lại, như thể chính anh ta cũng không tin nổi. “Xin hãy giữ máy!”
“Đợi đã! Anh có thể cho tôi biết…”
Đường dây lại đổ chuông.
Bốn lần đổ chuông và máy được nối.
“Collins nghe đây”, một giọng cộc cằn vang lên.
Langdon hít một hơi thật sâu và cố gắng nói thật bình tĩnh và rõ ràng. “Thưa ngài Collins, tên tôi là Robert Langdon. Tôi là một công dân Mỹ đang có mặt tại Florence. Tôi bị bắn. Tôi cần giúp đỡ. Tôi muốn được tới Lãnh sự quán Hoa Kỳ ngay lập tức. Ngài có thể giúp tôi không?”
Không chút do dự, giọng nói bên kia đáp lại. “Ơn Chúa là anh vẫn còn sống, anh Langdon. Chúng tôi đang tìm kiếm anh.”
--12--
Lãnh sự quán biết mình ở đây ư?
Tin ấy khiến Langdon thấy nhẹ cả người. Ngài Collins – người tự giới thiệu là chánh văn phòng của Lãnh sự quán – nói chuyện với giọng chắc nịch, chuyên nghiệp, nhưng cũng có vẻ rất gấp gáp. “Anh Langdon, anh và tôi cần nói chuyện ngay lập tức. Và nhất định không phải trên điện thoại.”
Đến lúc này, dù vẫn chưa hiểu rõ chuyện gì đang xảy ra, nhưng Langdon không có ý định ngắt lời.
“Tôi sẽ cho người đến đón anh ngay”, Collins nói. “Anh ở chỗ nào?”
Sienna lo lắng di chuyển vị trí, cố lắng nghe cuộc trao đổi trên loa điện thoại. Langdon gật đầu trấn an cô, tỏ ý hoàn toàn tuân thủ theo đúng kế hoạch của cô.
“Tôi đang ở một khách sạn nhỏ có tên Pensione la Fiorentina”, Langdon nói, đánh mắt sang bên kia phố về phía khách sạn cũ kỹ Sienna đã chỉ cho mình trước đó. Anh nói cho Collins địa chỉ phố.
“Được rồi”, người đàn ông trả lời. “Đừng di chuyển. Cứ ở trong phòng anh. Sẽ có người đến đó ngay bây giờ. Phòng nào nhỉ?”
Langdon quyết định. “Ba mươi chín.”
“Được rồi. Hai mươi phút”, Collins hạ giọng. “Anh Langdon, dù anh bị thương và hơi rối trí, nhưng tôi cần biết… anh vẫn còn giữ chứ?”
Còn giữ. Langdon cảm thấy câu hỏi này, dù khó hiểu, song chỉ có thể mang một nghĩa. Mắt anh lia tới chỗ cái ống nằm trên bàn bếp. “Vâng, thưa ngài. Tôi vẫn còn giữ.”
Collins thở phào rõ to. “Lúc không nghe được tin gì của anh, chúng tôi cứ nghĩ… Chà, nói thật, chúng tôi nghĩ đến chuyện xấu nhất. Tôi yên tâm rồi. Cứ ở yên chỗ anh. Đừng di chuyển. Hai mươi phút thôi. Sẽ có người tới gõ cửa phòng anh.”
Collins ngắt máy.
Langdon cảm thấy hai vai mình nhẹ nhõm hẳn, lần đầu tiên kể từ khi anh tỉnh dậy trong bệnh viện. Lãnh sự quán biết rõ chuyện gì đang xảy ra, và chỉ lát nữa mình sẽ có câu trả lời. Langdon nhắm mắt lại và thở ra từ từ, lúc này gần như an tâm. Cơn đau đầu đã tan biến.
“Chà, rất MI6”, Sienna lên tiếng, giọng nửa đùa nửa thật. “Anh là điệp viên à?”
Lúc này Langdon chẳng rõ mình là gì nữa. Chuyện mất trí nhớ hai ngày và thấy mình trong một tình thế khó nhận diện làm anh khó hiểu, nhưng anh vẫn ở đây… Hai mươi phút nữa sẽ có cuộc gặp với một quan chức tòa Lãnh sự Hoa Kỳ trong một khách sạn xập xệ.
Chuyện gì đang xảy ra ở đây nhỉ?
Anh liếc nhìn Sienna, nhận ra họ sắp sửa đường ai nấy đi nhưng vẫn có cảm giác họ chưa xong việc. Anh lại nhớ tới vị bác sĩ râu rậm ở bệnh viện, nằm chết trên sàn ngay trước mắt cô. “Sienna”, anh thì thầm, “bạn của cô… bác sĩ Marconi… tôi cảm thấy thật kinh khủng”.
Cô gật đầu quả quyết.
“Và tôi rất xin lỗi đã kéo cô vào vụ này. Tôi biết tình thế của cô tại bệnh viên rất bất thường, và nếu có điều tra…” Tiếng anh tắt dần.
“Không sao”, cô nói. “Tôi không lạ gì chuyện phải di chuyển.”
Langdon cảm nhận được trong đôi mắt xa xăm của Sienna, mọi thứ với cô đều đã thay đổi vào sáng nay. Cuộc sống của chính Langdon lúc này cũng đang hỗn loạn, nhưng anh cảm thấy trái tim mình đang hướng về phía người phụ nữ này.
Cô ấy đã cứu mạng mình… và mình đã hủy hoại cuộc sống của cô ấy.
Họ ngồi im lặng suốt một phút, không khí giữa hai người càng lúc càng nặng nề, như thể cả hai đều muốn nói, nhưng lại chẳng biết nói gì. Suy cho cùng, họ là những người xa lạ trong một hành trình ngắn ngủi kỳ lạ vừa đi tới ngã ba đường, và giờ đây mỗi người đều cần tìm một lối đi riêng.
“Sienna”, cuối cùng Langdon lên tiếng, “khi tối giải quyết xong chuyện này với lãnh sự quán, nếu có việc gì cần tôi giúp, xin hãy…”.
“Cảm ơn anh”, cô thì thầm, và buồn bã hướng mắt ra phía cửa sổ.
o O o
Từng phút trôi qua, Sienna Brooks lơ đễnh nhìn ra ngoài cửa sổ gian bếp và tự hỏi ngày hôm nay rồi sẽ dẫn cô tới đâu. Cho dù là ở đâu, cô đều hiểu rõ rằng đến cuối ngày, thế giới của cô sẽ khác hẳn.
Cô biết, có lẽ chỉ là cảm xúc dâng trào nhất thời, nhưng cô thấy mình bị cuốn hút trước vị giáo sư người Mỹ một cách kỳ lạ. Ngoài vẻ điển trai, dường như anh còn sở hữu một trái tim nhân hậu. Trong cuộc sống tương lai, biết đâu Robert Langdon còn có thể là người cô gắn bó cùng.
Anh ấy sẽ chẳng bao giờ muốn mình, cô nghĩ bụng. Mình đã bị hủy hoại rồi.
Trong lúc cố nén tình cảm lại, bên ngoài cửa số có gì đó khiến cô chú ý. Cô thẳng người lên, áp mặt vào kính và đăm đăm nhìn xuống phố. “Robert, nhìn xem!”
Langdon phóng mắt nhìn xuống chiếc xe hiệu BMW đen bóng dưới phố vừa đỗ xịch trước khách sạn Pensione la Fiorentina. Người điều khiển xe dong dỏng và mạnh mẽ, mặc bộ đồ da đen và đội mũ bảo hiểm. Khi người điều khiển xe điệu nghệ bước xuống và gỡ chiếc mũ bảo hiểm đen bóng ra, Sienna có thể thấy rõ Langdon nín thở.
Cái đầu đinh của người phụ nữ kia không lẫn đi đâu được.
Ả rút ra khẩu súng quen thuộc, kiểm tra bộ phận giảm thanh, và đút súng vào túi áo khoác. Sau đó, với vẻ uyển chuyển chết người, ả bước vào khách sạn.
“Robert”, Sienna thì thào, giọng cô căng lên vì sợ hãi. “Chính phủ Mỹ vừa cử người tới giết anh.”
--13--
Robert Langdon cảm nhận được nỗi hoang mang khi anh đứng bên cửa sổ căn hộ, dán mắt về phía khách sạn bên kia phố. Người đàn bà đầu đinh vừa bước vào, nhưng Langdon không sao hiểu nổi làm cách nào ả có được địa chỉ.
Cảm giác bủn rủn chạy khắp người anh, khiến luồng tư duy của anh gián đoạn lần nữa. “Chính phủ tôi cử người tới giết tôi ư?”
Sienna cũng kinh ngạc không kém. “Robert, như thế có nghĩa là lần tấn công anh lúc đầu ở bệnh viện cũng được sự phê chuẩn của chính phủ anh.” Cô đứng dậy và kiểm tra lại khóa cửa căn hộ. “Nếu Lãnh sự Hoa Kỳ được phép giết anh…” Cô không nói hết suy nghĩ của mình, nhưng cô cũng không cần phải nói ra. Hàm nghĩa quá kinh khủng.
Họ nghĩ mình đã làm chuyện quái gì chứ? Tại sao chính phủ của mình lại săn đuổi mình?!
Lại một lần nữa, Langdon nghe thấy mấy chữ mà anh lẩm bẩm khi lảo đảo bước vào bệnh viện.
Rất xin lỗi… rất xin lỗi!
“Ở đây anh không an toàn”, Sienna nói. “Chúng ta không an toàn ở đây.” Cô ra hiệu về phía bên kia đường. “Người phụ nữ kia nhìn thấy chúng ta cùng chạy khỏi bệnh viện, và tôi dám cá chính phủ của anh cùng cảnh sát đang tìm cách truy lùng tôi. Căn hộ của tôi được cho thuê lại dưới tên của người khác, nhưng cuối cùng họ cũng sẽ tìm ra thôi.” Cô lại chú ý tới cái ống trên bàn. “Anh cần mở thứ đó ra, ngay bây giờ.”
Langdon nhìn cái ống titan, và chỉ thấy cái biểu tượng nguy hiểm sinh học.
“Cho dù bên trong ống đó là cái gì”, Sienna nói, “có lẽ đều có một mã nhận dạng, một nhãn hiệu cơ quan, một số điện thoại, đại loại thế. Anh cần thông tin. Tôi cần thông tin! Chính phủ của anh đã giết bạn tôi”.
Nỗi đau trong giọng nói của Sienna khiến Langdon choàng tỉnh khỏi cơn suy tưởng, và anh gật đầu, biết rõ cô nói đúng. “Được, tôi… rất xin lỗi.” Langdon co rúm người, lại nghe thấy những từ ấy lần nữa. Anh ngoảnh nhìn cái ống trên bàn, băn khoăn không biết bên trong giấu câu trả lời gì. “Mở nó ra có thể vô cùng nguy hiểm.”
Sienna nghĩ một lát. “Bất kỳ thứ gì bên trong đều được giữ gìn cực kỳ kỹ càng, có lẽ trong một cái ống nghiệm bằng thủy tinh Plexiglas không vỡ cũng nên. Cái ống sinh học này chỉ có một vỏ bọc bên ngoài để bảo đảm trong quá trình vận chuyển thôi.”
Langdon nhìn ra ngoài cửa sổ về phía chiếc xe máy màu đen đỗ ngay trước khách sạn. Người phụ nữ vẫn chưa đi ra, nhưng sớm muộn ả cũng đoán được rằng Langdon không ở đó. Anh tự hỏi động thái tiếp theo của ả sẽ là gì… và sẽ mất bao lâu để ả đạp tung cửa căn hộ này.
Langdon suy nghĩ để đưa ra quyết định. Anh nhấc ống titan lên và miễn cưỡng áp ngón cái của mình lên ô nhận diện vân tay. Sau một lúc, cái ống phát ra tiếng cách rất to.
Trước khi cái ống kịp khóa lại lần nữa, Langdon vặn hai nửa theo hai hướng ngược chiều nhau. Mới xoay một phần tư vòng, cái ống lại kêu “ping” lần thứ hai, và Langdon biết mình đã hoàn thành.
Hai tay Langdon ướt đẫm mồ hôi trong lúc anh tiếp tục vặn mở ống. Hai nửa xoay rất trơn tru theo những đường rãnh được gia công hoàn hảo. Anh cứ thế vặn, cảm giác như sắp mở được con búp bê Nga quý giá, ngoại trừ việc anh không hề biết thứ gì sắp rơi ra.
Sau năm lần vặn, hai nửa đã rời ra. Langdon hít một hơi thật sau, nhẹ nhàng tách chúng. Khoảng trống giữa hai nửa mở rộng, và thứ bên trong bọc cao su xốp lộ ra. Langdon đặt nó lên bàn. Lớp đệm bảo vệ trông hơi giống một quả bóng bầu dục hiệu Nerf kéo dài.
Chẳng có gì cả.
Langdon nhẹ nhàng gỡ phần trên của lớp xốp bảo vệ, cuối cùng cũng để lộ ra vật nằm bên trong.
Sienna chăm chú nhìn thứ bên trong và hếch đầu, vẻ ngơ ngác. “Rõ ràng không giống như tôi mường tượng.”
Langdon dự đoán là một dạng ống gì đó lạ lùng, nhưng thứ bên trong cái ống sinh học lại không có vẻ gì là siêu tưởng. Vật được chạm khắc công phu kia rõ ràng làm bằng ngà voi và có kích cỡ xấp xỉ một thanh kẹo Life Savers.
“Trông rất cũ”, Sienna thì thào. “Một dạng…”
“Trụ triện”, Langdon nói với cô, thở hắt ra.
Được người Sumer phát minh vào năm 3500 trước Công nguyên, trụ triện là tiền thân của các con chữ khắc dùng trong in ấn. Mỗi con triện đều được khắc những hình ảnh trang trí và có phần thân rỗng để lồng chốt trục qua, sao cho bề mặt chạm khắc có thể lăn tròn, giống như trục lăn sơn hiện đại, trên đất sét ẩm hoặc sành để “in” tuần hoàn các dải biểu tượng, hình ảnh hoặc văn tự.
Langdon phỏng đoán con triện này đương nhiên rất hiếm có và giá trị, nhưng anh vẫn không hình dung nổi tại sao nó lại được cất kín trong một cái ống titan chẳng khác gì một dạng vũ khí sinh học như vậy.
Trong khi khéo léo xoay con triện qua các ngón tay, anh nhận ra thứ này mang một hình khắc đặc biệt kinh khủng – con quỷ Satan có sừng, ba đầu đang ăn thịt ba người khác nhau cùng một lúc, mỗi miệng một người.
Thật khôi hài!
Mắt Langdon chuyển tới bảy chữ cái khắc ngay bên dưới con quỷ. Những con chữ hoa mỹ được viết đảo ngược, giống như tất cả văn tự trên trục in vậy, nhưng Langdon không gặp khó khăn gì khi đọc chúng – SALIGIA.
Sienna nheo mắt nhìn và đọc to dòng chữ. “Saligia?”
Langdon gật đầu, cảm thấy rợn người khi nghe thấy từ này được đọc to lên. “Đó là một mẹo nhớ bằng tiếng Latin được tòa thánh Vatican phát minh ra ở thời trung cổ nhằm nhắc tín đồ Thiên Chúa giáo về Bảy Trọng tội. Saligia là một từ kết hợp với các chữ cái đầu của superbia, avaritia, luxuria, invidia, gula, ira và acedia.”
Sienna cau mày. “Kiêu ngạo, tham lam, dâm ô, đố kỵ, ham ăn, giận dữ và lười biếng.”
Langdon rất ấn tượng. “Cô biết tiếng Latin.”
“Tôi theo Công giáo từ nhỏ. Tôi biết tội lỗi.”
Langdon cố mỉm cười trong lúc đưa mắt trở lại con triện, trong lòng thắc mắc tại sao nó lại được cất giữ trong một cái ống như một vật rất nguy hiểm.
“Tôi nghĩ nó làm bằng ngà voi”, Sienna nói. “Nhưng đó là xương.” Cô đẩy con triện ra chỗ có ánh nắng và chỉ vào những đường nét trên đó. “Ngà voi tạo thành đường khắc chéo song song hình kim cương với các đường kẻ vằn mờ, còn xương tạo thành các đường kẻ vằn song song và vết lỗ chỗ thẫm màu như thế này.”
Langdon nhẹ nhàng cầm con triện lên và xem xét kỹ những vệt chạm khắc. Các con triện nguyên thủy của người Sumer được chạm khắc những hình thô mộc và hình nêm. Thế nhưng, con triện này lại được chạm khắc tinh xảo hơn nhiều. Từ thời trung cổ, Langdon phán đoán. Thêm nữa, những chi tiết trang trí cho thấy chúng có mối liên hệ đáng lo ngại với những ảo giác của anh.
Sienna nhìn anh lo lắng. “Gì vậy?”
“Chủ đề tuần hoàn”, Langdon nói dứt khoát, và chỉ một những hình khắc trên con triện. “Cô thấy quỷ Satan ba đầu đang ăn thịt người này không? Đó là một hình ảnh quen thuộc từ thời trung cổ - một biểu tượng gắn liền với Cái chết Đen. Ba cái miệng đang nghiến ngấu là biểu tượng cho thấy dịch hạch tiêu diệt dân số kinh khủng thế nào.”
Sienna lo lắng liếc nhìn vào biểu tượng nguy hiểm sinh học trên ống.
Những ám chỉ tới bệnh dịch hạch đang diễn ra trong sáng nay dường như xuất hiện thường xuyên hơn anh nghĩ, và với chút do dự, anh công nhận thêm một mối liên hệ nữa. “Saligia đại diện cho tập hợp các trọng tội của loài người… mà theo quan điểm truyền bá tôn giáo trung cổ…”
“Là lý do để Chúa trời trừng phạt thế giới bằng Cái chết Đen”, Sienna lên tiếng, hoàn tất nốt ý nghĩ của anh.
“Đúng vậy.” Langdon ngừng lại, nhất thời đứt luôn mạch suy nghĩ. Anh vừa nhận ra một điều kỳ cục liên quan đến cái ống. Bình thường, một người có thể nhìn xuyên qua phần lõi rỗng của một trụ triện, như thể xuyên qua lõi một ống rỗng không, nhưng trong trường hợp này, lõi con triện lại kín mít. Có thứ gì đó được nhét bên trong mẩu xương này. Một đầu ống bắt sáng và tỏa ra ánh sáng lờ mờ.
“Có điều gì bên trong”, Langdon nói. “Và trông như được làm bằng thủy tinh.” Anh xoay ngược con triện để kiểm tra đầu bên kia, bên trong có tiếng của một vật nhỏ xíu, chạy từ đầu này mẩu xương sang đầu kia, giống như một viên bi lăn trong ống.
Langdon cứng đờ người, và anh nghe thấy rõ Sienna khẽ thở hổn hển ngay bên cạnh.
Cái quái gì thế nhỉ?!
“Anh có nghe thấy tiếng đó không?”, Sienna thì thào.
Langdon gật đầu và thận trọng nhìn vào đầu ống. “hình như chỗ hở được bịt lại nhờ… thứ gì làm bằng kim loại.” Có lẽ là nắp của ống nghiệm chẳng?
Sienna lùi lại. “Trông nó có phải… đã vỡ không?”
“Tôi không nghĩ vậy.” Anh thận trọng xoay ngược mẩu xương lần nữa để kiểm tra cái đầu có thủy tinh, và tiếng lóc xóc lại vang lên. Trong chớp mắt, phần thủy tinh bên trong trụ triện có biểu hiện hoàn toàn bất ngờ.
Nó bắt đầu phát sáng.
Mắt Sienna trợn lên. “Robert, dừng lại! Đừng cử động!”
