Tác giả: Dan Brown
--92--
Đặc vụ Brüder rón rén cúi người, lách qua bên dưới rào chắn và thả người xuống đầm nước sâu tới ngực. Khi cảm giác lành lạnh của nước thấm qua quần áo, các cơ của anh ta căng lên để chống lại. Sàn bể chứa trơn nhẫy dưới đế giày ủng của anh ta, nhưng rất chắc chắn. Anh ta đứng yên một lúc để đánh giá tình hình, quan sát những vòng tròn nước đồng tâm từ chỗ cơ thể mình lăn tăn loang ra khắp đầm nước như những đợt sóng xung kích.
Brüder nín thở một lúc. Di chuyển thật chậm, anh ta tự nhủ. Không gây xáo động.
Trên lối đi lót ván phía trên, Langdon đứng bên rào chắn, quét mắt khắp những lối đi xung quanh.
“Ổn cả”, Langdon thì thào. “Không ai thấy chúng ta.”
Brüder xoay người và nhìn chiếc đầu to tướng chổng ngược của Medusa được chiếu sáng bằng một ngọn đèn rọi đỏ rực. Lúc này khi Brüder đã xuống ngang với nó, trông con quái vật bị xoay đầu càng to lớn hơn.
“Cứ bám theo ánh mắt của Medusa qua bên kia đầm”, Langdon thì thào. “Zobrist rất giỏi về biểu tượng và kịch nghệ… Tôi sẽ không lấy làm lạ nếu hắn bố trí công trình của hắn đúng trên trục ánh mắt chết người của Medusa.”
Những ý tưởng lớn suy nghĩ giống nhau. Brüder thầm cảm ơn vì vị giáo sư người Mỹ đã khăng khăng đòi xuống đây cùng anh ta. Kiến thức chuyên môn của Langdon đã dẫn dắt họ tới góc bể chứa hẻo lánh này gần như ngay lập tức.
Trong khi những giai điệu của bản Giao hưởng Dante tiếp tục ngân nga phía xa thì Brüder rút chiếc đèn bút máy chống nước hiệu Tovatec của mình ra và nhúng sâu xuống nước, bật công tắc lên. Một quầng sáng halogen rực rỡ xuyên qua nước, soi sáng phần sàn bể chứa trước mắt anh ta.
Bình tĩnh, Brüder tự nhủ. Không được gây xáo động một thứ gì.
Không nói thêm một lời, anh ta bắt đầu thận trọng thực hiện lộ trình của mình vào sâu trong đầm nước, chậm rãi lội, di chuyển cây đèn pin của mình tới lui nhịp nhàng, giống như một chuyên gia dò mìn dưới nước.
Bên rào chắn, Langdon bắt đầu thấy cổ họng căng cứng rất đáng ngại. Không khí trong bể chứa, mặc dù ẩm ướt, nhưng lại thiếu vị tanh và thiếu dưỡng khí. Trong khi Brüder thận trọng lội sâu vào đầm nước, vị giáo sư tự trấn an mình rằng mọi thứ sẽ ổn thỏa.
Chúng ta đã đến kịp lúc.
Tất cả vẫn còn nguyên.
Nhóm của Brüder có thể chặn được thứ này lại.
Cho dù vậy, Langdon vẫn cảm thấy rất bồn chồn. Là người suốt đời mang chứng sợ không gian kín, anh biết trong bất kỳ hoàn cảnh nào mình cũng đều rất bồn chồn khi ở dưới này. Cảm giác gì đó về hàng nghìn tấn đất đá lơ lửng trên đầu, không có thứ gì chống đỡ ngoài những cây cột cũ kỹ.
Anh cố xua ý nghĩ đó ra khỏi đầu và liếc nhìn lại đằng sau xem có ai chú ý đến họ không đúng lúc không.
Chẳng có gì.
Những người duy nhất ở gần đó đều đang đứng trên những lối đi khác, và họ đều nhìn theo hướng ngược lại, về phía dàn nhạc. Dường như không ai chú ý đến Brüder đang từ từ di chuyển trong nước ở góc bể chứa sâu tít này.
Langdon đưa mắt về phía đội trưởng đội SRS, với chùm ánh sáng halogen chìm dưới nước vẫn đong đưa trước mặt, soi sáng đường đi.
Langdon chăm chú nhìn, và chợt nhận ra có sự chuyển động bên trái - một cái bóng đen đúa đáng ngại đang trồi lên khỏi mặt nước ngay trước mặt Brüder. Langdon xoay người và đăm đăm nhìn vào khoảng tối om, cho rằng mình sẽ nhìn thấy một giống thủy quái nào đó trồi lên từ dưới nước.
Brüder dừng phắt lại, rõ ràng cũng đã nhìn thấy thứ đó.
Ở góc phía xa, một hình thù đen đúa chờn vờn nhô cao khoảng chín mét trên tường. Cái bóng ma quái đó trông khá giống cái bóng của vị bác sĩ dịch hạch xuất hiện trong đoạn video của Zobrist.
Nó là một cái bóng, Langdon nhận ra và thở phào. Bóng của Brüder.
Cái bóng xuất hiện khi Brüder di chuyển qua một chiếc đèn rọi chìm vào trong đầm nước, và dường như nó đúng y cái bóng Zobrist trong đoạn video.
“Chính là vị trí đó”, Langdon gọi Brüder. “Anh tới gần rồi đấy.”
Brüder gật đầu và tiếp tục nhích dần tới trong đầm. Langdon di chuyển men theo rào chắn, ở vị trí ngang với anh ta. Khi anh chàng đặc vụ tiến xa dần, Langdon lại liếc nhanh về phía dàn nhạc để đảm bảo rằng Brüder không bị chú ý.
Không có gì cả.
Lúc đưa mắt trở lại đầm nước, mắt Langdon thoáng bắt được một vệt sáng phản chiếu trên lối đi dưới chân.
Anh nhìn xuống và thấy một vũng nhỏ chất lỏng màu đỏ.
Máu.
Lạ thay, chính Langdon lại đang đứng trong cái vũng ấy.
Không lẽ mình đang chảy máu?
Langdon không hề thấy đau, nhưng anh vội vàng kiểm tra khắp người xem có vết thương hay phản ứng gì bất thường trước một thứ độc tố vô hình trong không khí hay không. Anh kiểm tra cả mũi, các móng tay, và tai xem có bị xuất huyết không.
Không tìm thấy chỗ nào chảy máu, Langdon nhìn xung quanh để khẳng định rằng thực tế anh chỉ có một mình trên lối đi vắng vẻ này.
Langdon nhìn xuống vũng nước lần nữa, và lần này anh nhận ra một vệt nước nhỏ xíu đang chảy theo lối đi và đọng lại ở chỗ trũng dưới chân anh. Dường như thứ chất lỏng màu đỏ đang từ chỗ nào đó phía trước chảy tới và dồn xuống chỗ thấp trên lối đi.
Phía trên kia có người bị thương, Langdon cảm thấy như vậy. Anh liếc nhanh ra chỗ Brüder lúc này đang đến gần trung tâm đầm nước.
Langdon sải bước nhanh trên lối đi, lần theo vệt nước. Khi anh tiến về phía lối cụt, vệt nước nhìn to hơn, đang chảy tràn tự do. Thế này là thế quái nào? Đến vị trí này, nó biến thành cả một dòng nước nhỏ. Anh rảo chân thêm, lần theo thứ chất lỏng đang chảy tràn tới tận tường, nơi lối đi đột ngột kết thúc.
Lối cụt.
Trong khoảng tối tăm, anh thấy một bể nước lớn sóng sánh sắc đỏ, như thể ai đó vừa bị giết ở đây.
Vào khoảnh khắc nhìn thấy thứ chất lỏng màu đỏ ấy tràn qua lối đi, nhỏ giọt xuống bể chứa, Langdon nhận ra phán đoán ban đầu của mình là sai lầm.
Không phải máu.
Ánh đèn đỏ của cái không gian rộng lớn này, kết hợp với sắc đỏ của lối đi lót ván, đã tạo ra ảo giác, khiến cho những vệt nước này có sắc đỏ thẫm.
Nó chỉ là nước.
Thay vì mang lại cảm giác nhẹ nhõm, phát hiện đó khiến anh sợ đến đờ đẫn. Anh đăm đăm nhìn xuống vũng nước, lúc này còn thấy cả những vệt nước bắn lên lan can và những dấu chân.
Có người từ dưới nước leo lên ở đây.
Langdon xoay người gọi Brüder, nhưng anh cách quá xa và tiếng nhạc đang đến đoạn hòa âm của kèn và trống. Đinh tai nhức óc. Langdon bỗng cảm thấy bên cạnh mình có người.
Không chỉ có riêng mình ở chỗ này.
Bằng động tác rất chậm rãi, Langdon xoay người về phía bức tường nơi kết thúc lối đi lót ván. Cách đó khoảng ba mét, trong bóng tối, anh nhận ra một khối tròn lẳn, giống như một tảng đá lớn phủ áo choàng đen, ướt sủng nước chảy tong tong. Cái khối đó bất động.
Và sau đó nó cử động.
Cái khối kéo dài ra, cái đầu không rõ nét của nó ngóc lên.
Một người thu mình trong một tấm áo choàng phụ nữ Hồi giáo màu đen, Langdon nhận ra ngay.
Thứ trang phục che kín cơ thể truyền thống của người Hồi giáo ấy không để hở da thịt, nhưng khi cái đầu đã bịt kín mặt xoay về phía Langdon, hai con mắt đen hiện ra, trừng trừng nhìn qua khe hở hẹp của phần mũ che mặt, khóa chặt lấy mắt của Langdon.
Trong khoảnh khắc, anh đã hiểu.
Sienna Brooks bật dậy từ chỗ nấp của mình. Cô bung người, tăng tốc chạy thật nhanh, xô mạnh làm anh ngã xuống sàn rồi chạy vụt theo lối đi lót ván.
--93--
Trong đầm nước ngoài kia, đặc vụ Brüder đã dừng lại. Quầng sáng halogen từ chiếc đèn bút Tovatec của anh ta vừa lướt qua một vệt kim loại sáng ở phía trước, trên nền bể chứa.
Gần như nín thở, Brüder nhẹ bước lại gần hơn, thận trọng không gây ra bất kỳ xáo trộn gì trong nước. Qua mặt nước trong veo, giờ anh có thể nhận ra một hình chữ nhật sáng loáng bằng titan, được bắt vít xuống sàn.
Tấm biển của Zobrist.
Nước trong đến mức anh ta gần như có thể đọc được con số chỉ ngày mai và dòng chữ đi kèm:
TẠI NƠI NÀY, VÀO NGÀY NÀY,
THẾ GIỚI THAY ĐỔI MÃI MÃI.
Xem nào, Brüder trầm ngâm, trong lòng thấy tự tin hơn hẳn. Chúng ta vẫn còn vài giờ để ngăn chặn thứ này trước ngày mai.
Nhớ lại đoạn video của Zobrist, Brüder nhẹ nhàng nhích quầng sáng đèn pin sang bên trái tấm biển để tìm cái túi Solublon đã được cột lại. Khi quầng sáng soi tỏ vùng nước tối tăm, Brüder căng mắt nhìn đầy hoang mang.
Không có cái túi.
Anh ta di chuyển quầng sáng nhích thêm sang trái, tới đúng vị trí nơi cái túi xuất hiện như trong đoạn video.
Vẫn không thấy gì cả.
Nhưng… đúng chỗ này mà!
Brüder nghiến chặt răng trong khi quả quyết bước gần thêm một bước, từ từ quét quầng sáng đèn quanh toàn bộ khu vực.
Không hề có cái túi. Chỉ có tấm biển.
Trong một khoảnh khắc ngắn ngủi đầy hy vọng, Brüder tự hỏi phải chăng mối đe dọa này, giống như nhiều thứ khác hiện nay, chẳng là gì hơn ngoài một vố lừa.
Phải chăng tất cả chỉ là một trò đùa ác ý?!
Phải chăng Zobrist chỉ muốn dọa chúng ta?!
Bên trái tấm biển, khó khăn lắm mới nhìn thấy trên nền đầm nước, có một sợi dây mềm oặt. Cái sợi dây èo uột trông chẳng khác gì một con sâu không còn sinh khí chìm trong nước. Ở đầu kia của sợi dây là một cái móc nhựa nhỏ xíu vẫn còn dính lại một ít nhựa Solublon.
Brüder nhìn sững tàn tích còn lại của cái túi trong suốt. Nó đính vào đầu sợi dây giống như nút thắt của một quả bóng bay đã bị vỡ.
Sự thật từ từ thấm vào gan ruột anh ta.
Chúng ta đã quá muộn.
Anh ta hình dung ra cảnh cái túi chìm trong nước tan dần và vỡ bung, phát tán thứ chất chết người chứa bên trong vào nước và sủi bọt lên mặt đầm.
Bằng một ngón tay run run, anh ta tắt đèn pin và đứng một lúc trong bóng tối, cố gắng lấy lại tinh thần.
Những ý nghĩ trong đầu nhanh chóng biến thành lời cầu khấn.
Chúa giúp chúng con.
“Đặc vụ Brüder, nói lại xem!”, Sinskey hét lên trong bộ đàm, đang len được nửa đường xuống cầu thang đi vào bể chứa, cố gắng nhích đến chỗ nhận sóng tốt hơn. “Tôi không nghe rõ!”
Luồng hơi ấm phả qua mặt bà, ngược theo cầu thang lên phía khung cửa mở rộng phía trên. Bên ngoài, nhóm SRS đã đến và các thành viên đang chuẩn bị sẵn sàng phía sau tòa nhà, cố gắng không để công chúng nhìn thấy những dụng cụ phòng độc trong lúc đợi tiếp nhận thông tin đánh giá tình hình của Brüder.
“… cái túi đã vỡ…” Tiếng Brüder lạo xạo trong bộ đàm của Sinskey. “… và … đã phát tán.”
Cái gì?! Sinskey cầu nguyện rằng mình đang hiểu nhầm trong lúc lap vội xuống cầu thang. “Nhắc lại xem!”, bà ra lệnh, tiến gần xuống chân cầu thang, nơi tiếng nhạc càng to hơn.
Lần này giọng Brüder rõ hơn. “… và tôi nhắc lại… chất lây bệnh đã bị phát tán!”
Sinskey lảo đảo lao về phía trước, gần như ngã nhào vào lối dẫn tới bể chứa ở chân cầu thang. Sao có thể như thế được?!
“Cái túi đã tan rồi”, giọng Brüder vang lên rất to. “Chất lây bệnh đã hòa vào nước!”
Mồ hôi lạnh túa ra khắp người khi tiến sĩ Sinskey ngước nhìn lên và cố gắng nắm bắt thế giới dưới lòng đất đang ở ngay trước mắt mình. Qua màn hơi đỏ ngầu, bà nhìn thấy một vùng nước rộng với hàng trăm cây cột trụ. Tuy nhiên, trên hết, bà nhìn thấy những con người.
Hàng trăm người.
Sinskey nhìn sững đám đông vẫn chưa hay biết gì, tất cả đều bị nhốt trong cái bẫy chết người dưới lòng đất của Zobrist. Bà phản ứng theo bản năng. “Đặc vụ Brüder, lên ngay lập tức. Chúng ta sẽ bắt đầu sơ tán mọi người ngay.”
Brüder trả lời ngay tức thì. “Tuyệt đối không! Đóng chặt cửa lại! Không ai được ra khỏi đây!”
Là giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới, Elizabeth Sinskey đã quen với việc mệnh lệnh của bà được thi hành mà không ai chất vấn gì. Nhất thời, bà nghĩ bà hiểu sai những lời của đội trưởng SRS. Đóng chặt cửa ư?!
“Tiến sĩ Sinskey!”, Brüder hét át cả tiếng nhạc. “Bà có nghe rõ tôi không?! Đóng hết các cửa lại!”
Brüder nhắc lại yêu cầu, nhưng không cần thiết nữa. Sinskey đã biết rằng anh ta nói đúng. Khi đương đầu với một đại dịch tiềm tàng, ngăn chặn là lựa chọn khả dĩ duy nhất.
Sinskey đưa tay lên và cầm chiếc bùa bằng đá lam ngọc của mình. Hy sinh vài người để cứu nhiều người. Với vẻ đầy quyết tâm, bà giơ bộ đàm lên môi. “Xác nhận, Đặc vụ Brüder. Tôi sẽ ra lệnh đóng chặt cửa.”
Sinskey vừa định quay người rời khỏi cái bể chứa hãi hùng này và ra lệnh phong tỏa khu vực thì bà cảm thấy trong đám đông có sự chuyển biến đột ngột.
Cách đó không xa, một phụ nữ mặc áo choàng che mặt màu đen đang len nhanh về phía bà, men theo một lối đi chật cứng người, dùng tay gạt phăng mọi người để tìm lối thoát. Người phụ nữ che mặt dường như đang tiến thẳng về phía Sinskey và lối ra.
Cô ta đang bị truy đuổi, Sinskey nhận ra như vậy và nhìn thấy một người đàn ông chạy phía sau.
Rồi Sinskey cứng đờ người. Đó là Langdon!
Mắt Sinskey lia trở lại người phụ nữ khoác áo choàng, lúc này đang tiến lại rất nhanh và đang hét ầm ĩ điều gì đó bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ cho tất cả những người ở trên lối đi. Sinskey không biết tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng qua phản ứng hốt hoảng của mọi người, tiếng hô của người phụ nữ kia rất giống như tiếng hô “cháy!” trong một rạp hát đông người.
Cơn hoảng loạn lan nhanh khắp đám đông, và đột nhiên không chỉ người phụ nữ che mặt và Langdon đang phăm phăm lao tới chỗ cầu thang nữa. Tất cả mọi người.
Sinskey xoay lưng nhìn cảnh tượng giẫm đạp đang sắp diễn ra và bắt đầu hét một cách tuyệt vọng với nhóm của mình ở phía trên.
“Đóng cửa lại!” Sinskey hét lên. “Phong tỏa bể chứa! NGAY LẬP TỨC!”
Lúc Langdon lần qua góc tường để lao vào khu vực cầu thang, Sinskey đang lên được nửa chừng, cố leo lên mặt đất, cuống cuồng ra lệnh đóng cửa. Sienna Brooks bám sát sau bà, cố đánh vật với chiếc áo choàng ướt nhẹp, nặng trịch trong lúc ì ạch leo lên cầu thang.
Langdon sải bước đằng sau họ, cảm nhận rõ cả một đám đông những người dự hòa nhạc đang hoảng loạn ùa theo sau anh.
“Chặn lối ra!”, Sinskey lại hét lên.
Cặp chân dài của Langdon giúp anh vọt lên ba bậc mỗi lần, dần bắt kịp Sienna. Phía trên anh nhìn thấy những cánh cửa đôi nặng nề của bể chứa bắt đầu đóng lại.
Quá chậm.
Sienna vượt qua Sinskey, tóm lấy vai bà và dùng nó như một đòn bẩy để vọt lên trước, lao nhanh về phía lối ra. Sinskey loạng choạng khuỵu xuống, chiếc bùa yêu quý của bà đập mạnh xuống bậc thang xi măng và vỡ đôi.
Langdon phải cố kìm bản năng dừng lại để giúp người phụ nữ bị ngã. Thay vào đó, anh vọt qua bà, chạy nhanh lên chiếu nghỉ trên cùng.
Sienna chỉ còn cách vài thước, gần như đã trong tầm với, nhưng cô đã tới được chiếu nghỉ, và những cánh cửa đóng không đủ nhanh. Không chút chậm trễ, Sienna nghiêng thân hình mảnh mai của mình và lách qua khe hở hẹp.
Cô lọt được nửa người qua cửa thì chiếc áo choàng mắc phải then cửa, khiến cô chững lại, kẹt cứng giữa cửa, dù chỉ còn vài phân nữa là thoát ra. Trong lúc cô cố vùng vẫy để thoát, tay Langdon đã vươn tới và tóm chặt lấy chiếc áo choàng. Anh giữ chặt, kéo lại, cố gắng lôi cô vào trong, nhưng cô vùng vẫy điên cuồng, và đột nhiên Langdon chỉ còn giữ được một đống vải ướt rượt.
Cánh cửa đóng sầm lại, suýt kẹp đúng tay Langdon. Chiếc áo mắc lại giờ vướng ngay khuôn cửa, khiến cho những người bên ngoài không tài nào đóng hẳn cửa lại được.
Qua khe hở, Langdon nhìn thấy Sienna lao vọt qua một đường phố đông đúc, cái đầu trọc lốc của cô lấp loáng trong ánh đèn đường. Cô vẫn mặc đúng chiếc áo len và quần bò xanh cô mang trên người cả ngày, và Langdon đột nhiên có cảm giác bị phản bội ghê gớm.
Cái cảm giác đó chỉ kéo dài trong khoảnh khắc. Một sức đẩy đột ngột và mạnh mẽ xô Langdon dính chặt vào cửa.
Đám đông hỗn loạn đã đến sát sau anh.
Cả cầu thang ầm ầm những tiếng la hét hoảng loạn và ngơ ngác, trong khi những âm thanh của dàn nhạc giao hưởng biến thành một mớ tạp âm hỗn loạn phía dưới. Langdon cảm nhận rõ sức ép trên lưng tăng dần khi chỗ tắc nghẽn thêm đông người. Lồng ngực của anh bắt đầu thấy đau nhói khi bị ép chặt vào cửa.
Rồi cánh cửa bật tung, và Langdon bị xô văng ra đường phố ban đêm chẳng khác gì một chiếc nút bật ra khỏi chai sâm panh. Anh loạng choạng trên vỉa hè, gần như ngã vật xuống phố. Phía sau anh, cả biển người ào ra như đàn kiến chạy trốn khỏi cái tổ bị nhiễm độc.
Các đặc vụ SRS, nghe thấy tiếng hỗn loạn, lúc này mới từ phía sau tòa nhà xuất hiện. Đồ nghề cùng mặt nạ phòng độc của họ càng làm tình trạng hoảng loạn gia tăng.
Langdon xoay người và nhìn sang bên kia phố tìm kiếm Sienna. Tất cả những gì anh nhìn thấy chỉ là phương tiện giao thông, ánh đèn và vẻ ngơ ngác của người dân.
Nhưng chỉ trong chớp mắt, trên phố phía trái anh, một cái đầu trọc lốc bắt đèn nhá lên trong đêm, đang len lỏi trên vỉa hè đông đúc và biến mất ở một góc phố.
Langdon tuyệt vọng nhìn lại phía sau, cố tìm Sinskey, hay cảnh sát, hay một đặc vụ SRS không mặc bộ đồ phòng độc kềnh càng.
Chẳng có ai cả.
Langdon biết anh phải tự mình hành động.
Không chút chần chừ, anh vọt theo Sienna.
Tít bên dưới, ở nơi sâu nhất của bể chứa, đặc vụ Brüder đứng một mình trong vùng nước sâu tới thắt lưng. Những âm thanh hỗn loạn vang vọng trong bóng tối khi những du khách và nhạc công hoảng loạn chen nhau tìm đường ra phía lối thoát và biến mất trên cầu thang.
Chẳng thể đóng cửa được nữa, Brüder hãi hùng nhìn ra như vậy. Ngăn chặn không thành công rồi.
--94--
Robert Langdon không phải vận động viên chạy, nhưng nhiều năm bơi lội giúp anh có đôi chân cứng cáp, và có thể sải những bước chân rất dài. Anh đến góc phố chỉ trong vài dây và vòng qua đó, thấy mình đã đứng trên một đại lộ rộng rãi hơn. Mắt anh vội quét khắp các vỉa hè dành cho người đi bộ.
Cô ta dứt khoát phải ở đây!
Mưa đã tạnh, và từ góc phố này, Langdon có thể thấy rõ toàn bộ đường phố đèn đuốc sáng trưng. Không có chỗ nào để ẩn nấp cả.
Nhưng dường như Sienna đã biến mất.
Langdon dừng lại, tay chống nạnh, thở hổn hển trong lúc nhìn hết con phố đẫm nước mưa trước mặt. Chuyển động nhanh nhất anh nhìn thấy là cách năm mươi thước phía trước, một chiếc xe buýt hiện đại của Istanbul đang rời khỏi lề đường và tăng tốc lao tới trên đại lộ.
Không lẽ Sienna đã nhảy lên một chiếc xe buýt?
Có vẻ hơi quá mạo hiểm. Chẳng lẽ cô lại thực sự nhốt mình vào trong một chiếc xe buýt khi mà cô biết tất cả mọi người đều đang lùng tìm mình? Lại nữa, nếu cô tin không ai nhìn thấy mình vòng qua góc phố, và nếu chiếc xe buýt vừa tình cờ lăn bánh, mang cho cô một cơ hội đúng lúc thì…
Có lẽ vậy.
Hiện rõ trên nóc xe buýt là tấm biển ghi đích đến - một bảng đèn đã được lập trình hiện rõ một từ duy nhất: GALATA.
Langdon chạy xuống lòng đường, hướng về phía một người đàn ông đã có tuổi đang đứng bên ngoài một nhà hàng bên dưới mái hiên. Ông ấy ăn mặc rất chỉnh tề với áo dài thêu và đội khăn trắng.
“Xin lỗi ông”, Langdon hổn hển nói lúc đi đến trước mặt ông ấy. “Ông có nói được tiếng Anh không?”
“Có chứ”, người đàn ông đáp, vẻ khó chịu vì sắc thái thúc bách trong giọng nói của Langdon.
“Galata?! Đó là một địa danh phải không?”
“Galata à?”, người đàn ông đáp lại. “Cầu Galata? Hay tháp Galata? Cảng Galata?”
Langdon chỉ tay về phía chiếc xe buýt đang chạy đi. “Galata! Chiếc xe buýt kia chạy đi đâu?”
Người đàn ông đội khăn xếp nhìn theo chiếc xe chạy xa dần và ngẫm nghĩ một lúc. “Cầu Galata”, ông ấy đáp. “Nó dẫn ra khỏi thành cổ và bắc qua thủy lộ.”
Langdon lầm bầm, mắt anh lại cuống cuồng nhìn qua phố nhưng không thấy bóng dáng Sienna đâu. Lúc này có tiếng còi hụ khắp mọi nơi, những chiếc xe phản ứng khẩn cấp lao vụt qua họ về phía bể chứa nước.
“Có chuyện gì vậy?”, người đàn ông hỏi, vẻ cảnh giác. “Mọi việc vẫn ổn chứ?”
Langdon lại nhìn theo chiếc xe buýt chạy xa dần và biết đây là một canh bạc, nhưng anh không còn lựa chọn nào khác.
“Không sao, thưa ông”, Langdon đáp. “Tôi đang gặp một tình huống khẩn cấp và cần sự giúp đỡ của ông.” Anh ra hiệu về phía vệ đường, nơi người hầu bàn vừa lái một chiếc xe Bently màu bạc bóng lộn đến. “Xe của ông phải không?”
“Phải, nhưng…”
“Tôi cần đi xe”, Langdon nói. “Tôi biết chúng ta chưa bao giờ gặp nhau, nhưng có chuyện rất tai hại vừa xảy ra. Đây là vấn đề sinh tử.”
Người đàn ông đội khăn xếp nhìn xoáy vào mắt vị giáo sư một lúc lâu, như thể đang cố nhìn thấu gan ruột. Cuối cùng, ông ấy gật đầu. “Vậy thì anh nên lên xe đi.”
Khi chiếc Bently rời khỏi vệ đường, Langdon thấy mình phải bấu chặt vào ghế. Người đàn ông rõ ràng là một tài xế rất có kinh nghiệm và có vẻ rất khoái thử thách luồn lách giữa dòng xe cộ, cố đuổi theo chiếc xe buýt.
Qua chưa đầy ba tòa nhà ông ấy đã đưa chiếc Bently của mình sát sau chiếc xe buýt. Langdon nhổm về phía trước, nheo mắt nhìn qua cửa sổ hậu xe buýt. Đèn trong xe rất tối, và những thứ duy nhất Langdon có thể nhận ra là những cái bóng lờ mờ của hành khách.
“Xin hãy bám sát xe buýt”, Langdon nói. “Mà ông có điện thoại không?”
Người đàn ông rút điện thoại di động từ trong túi và đưa nó cho vị khách của mình. Langdon cảm ơn ông ta rối rít rồi mới chợt nhận ra mình không biết phải liên lạc với ai. Anh không hề có số liên lạc của Sinskey hay Brüder, còn gọi cho các văn phòng của WHO tại Thụy Sỹ thì mất quá nhiều thời gian.
“Tôi gọi cho cảnh sát địa phương bằng cách nào?”, Langdon hỏi.
“Một-năm- năm”, người đàn ông trả lời. “Bất kỳ ở đâu tại Istanbul.”
Langdon bấm ba con số và chờ đợi. Đường dây dường như đổ chuông mãi không thôi. Cuối cùng, một giọng nói đã được ghi âm vang lên, thông báo bằng cả tiếng Thổ Nhĩ Kỳ và tiếng Anh rằng do các đường dây đều bận nên anh cần phải chờ máy. Langdon thắc mắc không biết lý do đường dây bận có phải chính là cuộc khủng hoảng ở bể chứa nước không.
Có lẽ lúc này cung điện chìm đang ở trạng thái hoàn toàn hỗn loạn. Anh hình dung đến cảnh Brüder đang lội ra khỏi đầm nước và những gì anh ta sẽ thấy ở bên ngoài. Langdon có cảm giác nặng trĩu trong lòng.
Sienna đã nhảy xuống nước trước anh ta.
Phía trước, đèn phanh của chiếc xe buýt sáng lên, và chiếc xe tấp vào một điểm đỗ bên đường, giúp Langdon nhìn rõ những hành khách lên xuống xe. Chỉ có ba người xuống xe - tất cả đều là đàn ông - nhưng Langdon vẫn quan sát từng người thật cẩn thận, vì anh biết quá rõ khả năng cải trang của Sienna.
Mắt anh lại di chuyển về ô cửa sổ hậu. Nó được làm tối đi nhưng lúc này đèn trong xe đều sáng và Langdon có thể nhìn thấy những người trên xe rõ hơn. Anh nhổm về phía trước, ngỏng cổ, áp sát mặt vào kính chắn gió của chiếc Bently để tìm kiếm Sienna.
Xin đừng bảo rằng tôi đã đặt nhầm cửa!
Và anh nhìn thấy cô.
Ở phần sau cùng của chiếc xe hiện rõ một đôi vai mảnh mai cùng phần gáy của một cái đầu cạo trọc đang ngoảnh mặt đi chỗ khác.
Chỉ có thể là Sienna.
Khi chiếc xe buýt tăng tốc, đèn trong xe lại mờ đi. Trong một giây rất nhanh trước khi chìm vào bóng tối, cái đầu ngoái lại, nhìn ra ngoài cửa sổ hậu.
Langdon thụp đầu xuống ghế, khuất vào trong phần tối của chiếc Bently. Cô ta có thấy mình không nhỉ? Người lái xe đội khăn xếp lại đánh xe ra, bám sát theo chiếc xe buýt.
Lúc này con đường chạy dần xuống bờ nước, và phía trước mặt, Langdon có thể nhìn thấy ánh đèn từ một cây cầu thấp vươn dài trên mặt nước. Cây cầu nhìn như tắc nghẽn vì xe cộ. Thực tế, toàn bộ khu vực gần đầu cầu đều bị tắc nghẽn.
“Chợ gia vị”, người đàn ông nói. “Rất tấp nập vào những tối trời mưa.”
Ông ta chỉ tay về phía mép nước, nơi một dãy nhà dài một cách kỳ lạ nép dưới bóng một trong những giáo đường ngoạn mục của Istanbul – Giáo đường Mới, nếu Langdon không nhầm, căn cứ theo chiều cao hai tòa tháp đôi lừng danh của nó. Chợ Gia vị nhìn rộng hơn hẳn hầu hết các khu mua bán của Mỹ, và Langdon thấy rất đông người đang ra vào qua cổng vòm đồ sộ của chợ.
“Alô?!”, một giọng nói lý nhí vang lên đâu đó trong xe. “Trường hợp khẩn cấp phải không? Alô?!”
Langdon cúi nhìn chiếc điện thoại trong tay mình. Cảnh sát.
“Vâng, xin chào!” Langdon lên tiếng, đưa tai nghe lên. “Tên tôi là Robert Langdon. Tôi làm việc cho Tổ chức Y tế Thế giới. Các ông có một cuộc khủng hoảng lớn tại bể chứa nước thành phố, và tôi đang bám theo kẻ chịu trách nhiệm việc đó. Cô ta ở trên một chiếc xe buýt gần chợ Gia vị, đang tiến về…”
“Làm ơn chờ một chút”, nhân viên trực nói. “Để tôi kết nối ông với bộ phận khẩn cấp.”
“Đừng, đợi đã!” Nhưng Langdon lại phải chờ máy.
Người lái chiếc Bently ngẩng sang anh với vẻ mặt sợ hãi. “Một cuộc khủng hoảng ở bể chứa nước thành phố à?!”
Langdon vừa định giải thích thì mặt của người lái xe đột nhiên đỏ bừng lên, như một bộ mặt quỷ.
Đèn phanh!
Người lái xe quay vội đầu lại và chiếc Bently phanh kít ngay sau chiếc xe buýt. Đèn trong xe lại sáng lên và Langdon có thể nhìn rõ Sienna như ban ngày. Cô đang đứng ở cửa sau, liên tục giật sợi dây báo dừng khẩn cấp và đập cửa xe để đòi xuống xe.
Cô ta đã nhìn thấy mình, Langdon nhận ra như vậy. Rõ ràng Sienna cũng đã nhin thấy tình trạng kẹt cứng ở cầu Galata và không muốn bị mắc kẹt trên đó.
Langdon mở cửa rất nhanh, nhưng Sienna đã nhảy xuống xe buýt và tức tốc lao vào màn đêm. Langdon ném điện thoại trả lại cho chủ nhân của nó. “Báo cho cảnh sát những gì vừa xảy ra! Bảo họ bao vây khu vực này!”
Người đàn ông đội khăn xếp gật đầu sợ hãi.
“Và cảm ơn ông!”, Langdon hét vội. “Teşekkürler!”
Nói xong, Langdon lao vội xuống đuổi theo sau Sienna, lúc này đang chạy thẳng về phía đám đông đang chen chúc trong chợ Gia vị.
--95--
Chợ Gia vị ba trăm năm tuổi của Istanbul là một trong những khu chợ có mái che lớn nhất thế giới. Được xây dựng theo hình chữ L, quần thể này có tám mươi tám gian phòng mái vòm chia thành hàng trăm gian hàng, nơi các thương gia địa phương chào bán vô vàn thứ thực phẩm trên khắp thế giới - gia vị, hoa quả, thảo dược, và cả món kẹo Thổ Nhĩ Kỳ rất thịnh hành của Istanbul, thỏa mãn khẩu vị của mọi khách hàng.
Người ta đồn rằng lối vào chợ, một cổng chào bằng đá đồ sộ với vòm cung Gothic, tọa lạc ở góc phố Çiçek Parazi và Tahmis, chứng kiến hơn ba trăm nghìn khách khứa ghé qua mỗi ngày.
Tối nay, khi tiến gần lối vào kín đặc người, Langdon cảm thấy như thể tất cả ba trăm nghìn người đều đang có mặt ở đây tại thời điểm này. Anh vẫn đang chạy rất nhanh, chưa hề rời mắt khỏi Sienna. Giờ cô chỉ còn cách anh hai mươi thước phía trước, tiến thẳng về phía cổng chợ và không hề có ý dừng lại.
Sienna đã tới cổng chào vòm cung và gắng chen qua đám đông. Cô lách qua mọi người, cố tiến vào bên trong. Lúc bước qua cổng chợ cô còn liếc lại phía sau. Langdon nhìn thấy trong mắt cô đầy sự hoảng sợ của một cô gái nhỏ bé đang chạy trốn vì hoang mang… tuyệt vọng và không kiểm soát được.
“Sienna!”, anh gọi to.
Nhưng cô đã lẩn vào biển người và biến mất.
Langdon nhào theo sau cô, thúc, đẩy, nhướng cổ cho tới khi phát hiện cô đang len lỏi xuống sảnh phía tây của chợ bên trái anh.
Những thùng gia vị lạ mắt xếp thành dãy ở dọc đường - bột cà ri Ấn Độ, nghệ tây Iran, trà hoa Trung Quốc - màu sắc rực rỡ của chúng tạo thành một đường hầm màu vàng, nâu, và vàng kim. Cứ mỗi bước chân, Langdon lại ngửi thấy một mùi hương mới - những loại nấm hăng hăng, những loại củ ngai ngái, các loại dầu thơm - tất cả quyện trong không khí cùng với bản hợp xướng ồn ào gồm đủ mọi ngôn ngữ trên khắp thế giới. Kết quả là một thứ hỗn hợp những tác nhân kích thích giác quan trong tiếng huyên náo bất tận của con người.
Hàng nghìn người.
Cảm giác sợ không gian chật hẹp bóp nghẹt lấy Langdon, anh gần như đứng lại trước khi tự trấn an và len sâu hơn vào chợ. Anh có thể nhìn thấy Sienna ngay phía trước, cố lách qua đám đông với một sức mạnh rắn rỏi. Rõ ràng cô đang cố đi tới cùng cho dù đó có thể là nơi nào đi nữa.
Có một lúc, Langdon tự hỏi tại sao anh lại đuổi theo cô.
Vì công lý chăng? Nghĩ lại những gì Sienna đã làm, Langdon không thể không hình dung xem hình phạt gì đang đợi cô nếu cô bị bắt.
Để ngăn chặn một đại dịch ư? Bất kỳ việc gì được làm đều đã làm rồi.
Khi cố len qua cả biển người lạ mặt, Langdon đột nhiên nhận ra tại sao anh lại ra sức tìm cách chặn Sienna Brooks lại như vậy.
Mình muốn câu trả lời.
Chỉ mười thước phía trước, Sienna tiến thẳng tới một cửa thoát hiểm ở cuối dãy phía tây của khu chợ. Cô lại liếc nhanh về phía sau, vẻ rất hốt hoảng khi nhìn thấy Langdon quá gần. Lúc ngoảnh lại, cô bất ngờ hụt chân và ngã.
Đầu Sienna chúi về phía trước, đập mạnh vào vai người trước mặt. Khi người đó chúi xuống, tay phải cô vung ra, cố tìm kiếm thứ gì đó để kìm đà ngã. Cô chỉ thấy một cái miệng thùng hạt dẻ khô nên túm lấy một cách tuyệt vọng, kéo nó đổ ụp xuống mình và cả một cơn lũ hạt dẻ tràn ra sàn.
Langdon phải mất ba bước mới tới được chỗ cô bị ngã. Anh nhìn xuống sàn nhưng chỉ nhìn thấy cái thùng đổ nghiêng và hạt dẻ. Không thấy Sienna.
Người chủ cửa hàng đang kêu thét điên dại.
Cô ta biến đâu rồi?!
Langdon xoay tròn một vòng, nhưng bằng cách nào đó Sienna đã biến mất. Lúc ánh mắt anh dừng lại ở lối thoát phía tây chỉ cách đó mười lăm thước, anh biết rằng cú ngã đầy chất kịch của cô không phải là tình cờ.
Langdon lao nhanh tới lối thoát và vọt ra một quảng trường mênh mông, cũng rất đông người. Anh chăm chú quan sát khắp quảng trường, tìm kiếm một cách vô vọng.
Thẳng phía trước, về phía bên lề kia của một đại lộ nhiều làn xe, cầu Galata vươn dài qua vùng nước mênh mông của khu vực Mũi Vàng. Cặp tháp đôi của Giáo đường Mới sừng sững bên tay phải Langdon, sáng rực rỡ phía trên quảng trường. Và bên trái anh không có gì khác ngoài một quảng trường mở, đầy người.
Tiếng còi xe inh ỏi kéo ánh mắt Langdon trở lại phía trước, nơi đường cao tốc chia tách quảng trường với vùng nước. Anh nhìn thấy Sienna, đã ở cách xa một trăm thước, đang băng qua những chiếc xe lao vun vút và vừa kịp tránh không bị nghiền nát giữa hai chiếc xe tải. Cô đang chạy thẳng ra phía biển.
Bên trái Langdon, trên bờ khu Mũi Vàng, một đầu mối giao thông đang bận rộn hoạt động - các bến phà, xe buýt, taxi và cả những chiếc thuyền du lịch.
Langdon chạy nhanh qua quảng trường về phía đường cao tốc. Khi tới rào chắn, anh chọn thời điểm khớp với những ánh đèn pha đang lao đến và an toàn vượt qua làn đường cao tốc hai luồng xe đầu tiên. Trong mười lăm giây, trước những ánh đèn pha chói lòa và tiếng còi xe đầy giận dữ, Langdon khó khăn lắm mới tiến được từ vỉa hè giữa đường tới vỉa hè tiếp theo. Anh dừng lại, di chuyển, len lách cho tới khi anh tới được rào chắn cuối cùng ngay trên bờ biển toàn cỏ.
Mặc dù Langdon vẫn có thể nhìn thấy Sienna nhưng cô đã cách anh một quãng dài phía trước, vượt qua bến taxi, mấy chiếc xe buýt đang đợi khách và tiến thẳng ra cầu cảng, nơi các loại thuyền bè đang chạy ngược xuôi - xuồng chở khách du lịch, taxi nước, thuyền cá của tư nhân, xuồng cao tốc. Xa xa, những ánh đèn thành phố nhấp nháy trên bờ tây của khu Mũi Vàng, và Langdon tin chắc rằng nếu Sienna đến được bờ bên kia, sẽ không còn hy vọng tìm thấy cô nữa, có lẽ không bao giờ.
Cuối cùng, Langdon cũng đến được bờ nước. Anh ngoặt sang trái và chạy dọc theo lối đi lót ván, khiến những du khách đang xếp hàng lên những chiếc xuồng trang trí lộng lẫy toàn màu vàng kim, có mái vòm kiểu giáo đường Hồi giáo, và đèn nê ông trang trí nhấp nháy, thảng thốt nhìn theo.
Las Vegas ở eo biển Bosporus, Langdon lầm bầm, chân bước nhanh hơn.
Anh nhìn thấy Sienna tít phía trước, và cô không còn chạy nữa. Cô đã dừng lại trên cầu cảng tại khu vực có nhiều xuồng máy tư nhân, đang năn nỉ một chủ thuyền.
Đừng để cô ta lên xuồng.
Trong lúc thu hẹp khoảng cách, anh thấy rõ Sienna đang khẩn khoản nói chuyện với một anh chàng trẻ tuổi đứng ở khoang lái một chiếc xuồng máy rất đẹp đang chuẩn bị rời khỏi cầu cảng. Anh chàng kia mỉm cười nhưng nhã nhặn lắc đầu từ chối. Sienna tiếp tục khua chân múa tay, nhưng người chủ thuyền có vẻ đã quyết định nên ngoảnh mặt trở lại bảng điều khiển xuồng.
Lúc Langdon chạy lại gần hơn, Sienna liếc nhìn anh, nét mặt toát lên vẻ tuyệt vọng. Phía dưới cô, máy thủy gắn ngoài của chiếc xuồng rồ lên, khuấy tung nước và đưa chiếc xuồng rời khỏi cầu cảng.
Sienna đột nhiên tung người lên không, nhảy vọt khỏi cầu cảng. Cô đáp mạnh xuống khoang xuồng làm bằng sợi thủy tinh. Bị chấn động, người lái xuồng ngoảnh lại nhìn với vẻ mặt không thể tin được. Anh ta giật ngược van tiết lưu, cho xuồng dừng lại cách cầu cảng khoảng hai mươi thước. Anh ta xông tới chỗ vị hành khách không mời quát tháo đầy giận dữ.
Khi hai người lái xuồng đến chỗ cô, Sienna dễ dàng né sang bên, tóm lấy cổ tay anh ta và dùng chính sức lao tới của anh ta để nhấc bổng anh ta lên rồi ném qua thành xuồng. Một lúc sau, anh ta ngoi lên mặt nước, phun phì phì và quẫy đạp loạn xa, miệng tuôn ra hàng tràng âm thanh chắc chắn là những lời chửi rủa bằng tiếng Thổ Nhĩ Kỳ.
Dường như không thèm chú ý, Sienna quăng một tấm đệm phao xuống nước, bước tới mép xuồng và đẩy van tiết lưu về phía trước.
Động cơ xuồng rồ lên và chiếc xuồng lao đi.
Langdon đứng trên cầu cảng, thở hổn hển trong lúc nhìn chiếc xuồng màu trắng sang trọng băng băng rẽ nước rời đi, như một bóng ma trong đêm tối. Langdon ngước mắt nhìn về phía chân trời và biết rằng lúc này Sienna sẽ không chỉ tới được bờ bên kia ở rất xa mà còn lọt được vào một mạng lưới thủy lộ gần như bất tận. chạy suốt từ Hắc Hải đến Địa Tung Hải.
Cô ta đã thoát rồi.
Gần đó, người chủ xuồng leo lên khỏi nước, đứng lên và vội vã đi gọi cảnh sát.
Langdon cảm thấy hoàn toàn cô độc khi nhìn ánh đèn trên chiếc xuồng bị đánh cắp nhòa dần. Tiếng động cơ rền rĩ cũng dịa dần.
Và rồi đột ngột tiếng động cơ im bặt.
Langdon đăm đăm nhìn ra xa. Cô ta tắt máy sao?
Đèn trên xuồng dường như không còn khuất dần mà lúc này đang bập bềnh nhẹ nhàng trên những con sóng nhỏ của vùng Mũi Vàng. Vì một lý do gì đó chưa rõ, Sienna Brooks đã ngừng lại.
Lẽ nào cô ta hết nhiên liệu?
Anh khum tay và lắng nghe, và giờ có thể nghe thấy tiếng động cơ rất khẽ ở chế độ ngừng.
Nếu không hết nhiên liệu thì cô ta đang làm gì vậy?
Langdon chờ đợi.
Mười giây. Mười lăm giây. Ba mươi giây.
Sau đó, rất bất ngờ, tiếng động cơ lại rồ lên, lúc đầu có vẻ ngập ngừng, và sau đó quả quyết hơn. Trước vẻ ngạc nhiên của Langdon, ánh đèn của chiếc xuồng bắt đầu ngoặt một vòng rộng, và nó phăm phăm lao về phía anh.
Cô ta quay lại.
Khi chiếc xuồng lại gần, Langdon nhìn thấy Sienna đứng bên vô lăng, trân trân nhìn về phía trước. Còn cách ba mươi thước, cô giảm ga và cho xuồng an toàn cập vào cầu cảng. Sau đó cô tắt máy.
Im lặng.
Phía trên cô, Langdon trân trối nhìn mà không sao tin nổi.
Sienna không hề nhìn lên.
Thay vào đó, cô úp mặt vào hai bàn tay. Cơ thể cô bắt đầu rung lên, hai vai cô rũ xuống và rung bần bật. Cuối cùng, khi ngước lên nhìn Langdon, hai mắt cô đẫm lệ.
“Robert”, cô thổn thức. “Em không thể chạy trốn được nữa. Em chẳng có chỗ nào để đi cả.”
