Tác giả: Dan Brown
--96--
Thế là hết.
Elizabeth Sinskey đứng dưới chân cầu thang dẫn xuống bể chứa và trân trân nhìn cái lòng hang trống rỗng. Hơi thở của bà như tắc nghẽn qua lớp mặt nạ phòng độc. Mặc dù có lẽ đã bị phơi nhiễm với thứ dịch bệnh gì đó ở dưới này, nhưng Sinskey vẫn cảm thấy nhẹ nhõm trong bộ đồ phòng độc khi cùng nhóm SRS bước vào không gian tiêu điều này. Họ khoác trên người bộ đồ màu trắng phình lên với mũ bảo hiểm kín mít, và cả nhóm trông như một đội phi hành gia đang rời khỏi một con tàu vũ trụ xa lạ.
Sinskey biết rằng ngoài đường phố ở phía trên, hàng trăm người đi dự hòa nhạc và các nhạc công đang ngơ ngác túm tụm lại, nhiều người đang được điều trị các vết thương sau quá trình giẫm đạp. Những người khác đã rời khỏi khu vực. Bà cảm thấy may mắn vì đã thoát ra mà chỉ bị bầm tím một bên gối và vỡ mất chiếc bùa.
Chỉ có một dạng lây lan đi nhanh hơn vi rút, Sinskey nghĩ. Đó là tâm lý sợ hãi.
Giờ những cánh cửa bên trên đã được khóa chặt, niêm phong, và được chính quyền địa phương canh gác. Sinskey đã lường trước sẽ có một cuộc đối chất pháp lý với lực lượng cảnh sát địa phương đang trên đường đến đây, nhưng bất kỳ cuộc va chạm tiềm tàng nào cũng đều tan biến ngay lập tức khi họ nhìn thấy thiết bị chống chất độc sinh học của nhóm SRS và nghe Sinskey cảnh báo về một hiểm họa dịch bệnh.
Chỉ còn chúng ta tự xoay xở thôi, giám đốc WHO nghĩ thầm, mắt trân trân nhìn cả rừng cột trụ phản chiếu trong đầm nước. Không ai muốn xuống đây cả.
Phía sau bà, hai đặc vụ đang trải một tấm polyurethane lớn trên nền khu cầu thang và dính chặt nó vào tường bằng súng nhiệt. Hai người nữa đã tìm được một chỗ trống trên lối đi lót ván và bắt đầu bố trí các thiết bị điện tử, như thể đang chuẩn bị phân tích một hiện trường tội ác.
Chính xác là như vậy, Sinskey nghĩ. Một hiện trường tội ác.
Bà lại nghĩ đến người phụ nữ mặc áo choàng ướt sũng chạy trốn khỏi bể chứa. Rõ ràng, Sienna Brooks đã mạo hiểm mạng sống của mình để phá mọi nỗ lực ngăn chặn của WHO và hoàn thành nhiệm vụ điên rồ của Zobrist. Cô ta xuống đây và phá vỡ cái túi Solublon…
Langdon đã đuổi theo Sienna ngay trong đêm, và Sinskey vẫn chưa nhận được tin gì liên quan đến cả hai người.
Mình hy vọng giáo sư Langdon an toàn, bà nghĩ.
Đặc vụ Brüder đứng trên lối đi lót ván, nước từ trên người nhỏ xuống tong tong, đưa mắt nhìn vô định chiếc đầu Medusa xoay ngược và tự hỏi cần phải xử lý như thế nào.
Là một đặc vụ SRS, Brüder được đào tạo để học được khả năng suy nghĩ ở cấp vĩ mô, gạt hết những mối bận tâm về cá nhân hay đạo đức nhất thời để hoàn toàn tập trung vào việc cứu được càng nhiều sinh mạng càng tốt. Những đe dọa đối với sức khỏe của chính anh không còn quan trọng nữa kể từ thời khắc này. Ta đã lội xuống chỗ này, anh ấy nghĩ, thầm trách mình đã có hành động mạo hiểm nhưng cũng biết rõ là bản thân không có nhiều lựa chọn. Chúng ta cần đánh giá tình hình ngay lập tức.
Brüder buộc mình phải nghĩ đến nhiệm vụ trước mắt - triển khai kế hoạch B. Thật không may, trong một cuộc khủng hoảng ngăn chặn, kế hoạch B luôn như nhau: Mở rộng bán kính. Ứng phó với bệnh lây nhiễm thường giống như ứng phó với một đám rừng: Đôi khi bạn phải lùi lại phía sau và chấp nhận thua một trận để có hy vọng giành chiến thắng trong cả cuộc chiến.
Đến thời điểm này, Brüder vẫn không từ bỏ ý nghĩ rằng có thể thực hiện ngăn chặn đầy đủ. Chắc chắn Sienna Brooks đã phá vỡ cái túi chỉ vài phút trước khi đám đông hỗn loạn và bỏ chạy. Nếu đúng như thế, thậm chí có hàng trăm người đã rời khỏi hiện trường và ở xa nguồn bệnh đủ để tránh được khả năng bị lây nhiễm.
Tất cả mọi người trừ Langdon và Sienna, Brüder nhận ra như vậy. Cả hai bọn họ đều đã ở địa điểm này, và hiện đang ở đâu đó trong thành phố.
Brüder còn một mối lo khác - một lỗ hổng trong logic vẫn tiếp tục bám riết lấy anh. Lúc ở dưới nước, anh không hề tìm thấy cái túi Solublon bị vỡ. Với Brüder, dường như nếu chính Sienna phá vỡ cái túi - bằng cách đá hoặc xé nó hay bất kỳ hình thức gì - thì anh cũng sẽ tìm thấy phần xác còn sót lại trôi nổi đâu đó trong khu vực.
Nhưng Brüder không tìm thấy gì cả. Dường như những gì còn lại của cái túi đã biến mất. Brüder rất nghi ngờ việc Sienna mang theo cái túi Solublon bên mình, vì đến thời điểm này nó chẳng là gì ngoài một thứ đồ bỏ đi nhớp nháp.
Vậy thì nó biến đi đâu?
Brüder có cảm giác rất bất an rằng mình đang bỏ qua một điều gì đó. Cho dù như vậy, anh vẫn phải tập trung vào chiến lược ngăn chặn mới, đòi hỏi phải trả lời một câu hỏi mấu chốt.
Bán kính phát tán hiện tại của dịch bệnh là đến đâu?
Brüder biết câu hỏi sẽ được trả lời chỉ trong vài phút nữa. Nhóm của anh đã thiết lập một loạt thiết bị dò tìm virut dọc lối đi lót ván theo khoảng cách tăng dần tính từ đầm nước. Những thiết bị này - gọi là các bộ PCR - dùng phản ứng tổng hợp dây chuyền nhờ Polymerase để phát hiện sự hiện diện của mầm bệnh dạng vi rút.
Đội trưởng SRS vẫn còn hy vọng. Với điều kiện nước trong đầm không hề lưu chuyển cùng với thời gian trôi qua chưa nhiều, anh tự tin rằng các thiết bị PCR sẽ phát hiện được một khu vực lây nhiễm tương đối hẹp để sau đó, họ có thể xử lý bằng hóa chất và sử dụng phương pháp hút thu.
“Sẵn sàng chưa?”, một kỹ thuật viên gọi qua bộ đàm.
Các đặc vụ có mặt ở trong khu vực bể chứa đều đưa ngón tay cái lên ra hiệu.
“Lấy mẫu”, tiếng bộ đàm vang lên.
Trong khắp lòng hang, các chuyên gia phân tích cúi xuống và bắt đầu khởi động máy PCR cá nhân của mình. Mỗi thiết bị đều bắt đầu phân tích một mẫu lấy tại điểm mà người sử dụng máy đứng, bố trí thành những vòng cung nới rộng dần quanh tấm biển của Zobrist.
Toàn bộ bể chứa chìm vào im lặng khi tất cả mọi người chờ đợi, cùng cầu mong sẽ chỉ nhìn thấy tín hiệu đèn màu xanh.
Và rồi điều đó xảy ra.
Trên chiếc máy gần Brüder nhất, một đèn phát hiện vi rút bắt đầu nhấp nháy đỏ. Các cơ của anh căng cứng, và mắt anh chuyển sang máy tiếp theo.
Nó cũng bắt đầu nhấp nháy đỏ.
Không.
Những tiếng lầm rầm lan khắp lòng hang. Brüder kinh hãi nhìn khi lần lượt tất cả các thiết bị PCR bắt đầu nhấp nháy đỏ, chạy khắp bể chứa ra đến tận lối ra vào.
Ôi, lạy Chúa! Anh nghĩ thầm. Cả một loạt đèn đỏ phát hiện vi rút đang nhấp nháy đã vẽ lên một bức tranh không thể nhầm lẫn.
Bán kính lây nhiễm rất rộng.
Toàn bộ khu vực bể chứa đang tràn ngập vi rút.
--97--
Robert Langdon trân trân nhìn Sienna Brooks ngồi thu lu bên vô lăng chiếc xuồng máy bị đánh cắp, và cố gắng hiểu những gì anh vừa chứng kiến.
“Em biết chắc anh khinh thường em”, cô thổn thức, ngước lên nhìn anh qua đôi mắt đẫm lệ.
“Khinh thường cô ư?!”, Langdon thốt lên. “Tôi không hề biết cô là ai! Tất cả những gì cô đã làm là lừa dối tôi!”
“Em biết”, cô nói khẽ. “Em xin lỗi. Em chỉ cố gắng làm điều đúng đắn thôi.”
“Bằng cách phán tán một thứ dịch bệnh à?”
“Không, Robert, anh không hiểu đâu.”
“Tôi hiểu quá đi chứ!”, Langdon đáp. “Tôi hiểu cô lội xuống nước để phá vỡ cái túi Solublon! Cô muốn giải phóng thứ vi rút của Zobrist trước khi có ai đó phong tỏa nó!”
“Cái túi Solublon ư?” Mắt Sienna toát lên vẻ ngơ ngác. “Em không biết anh đang nói gì nữa. Robert, em đến bể chứa để ngăn vi rút của Bertrand, để đánh cắp nó và cho nó biến mất mãi mãi, để không ai có thể tìm hiểu về nó, kể cả tiến sĩ Sinskey và WHO.”
“Đánh cắp nó? Tại sao phải giấu nó trước WHO chứ?”
Sienna hít một hơi dài. “Có rất nhiều điều anh không biết, nhưng giờ thì có thể thảo luận rồi. Chúng ta đã đến quá muộn, Robert ạ. Chúng ta chẳng bao giờ có cơ hội.”
“Dĩ nhiên, chúng ta đã từng có cơ hội! Thứ vi rút ấy sẽ không bị giải phóng cho tới ngày mai! Đó là cái ngày Zobrist đã chọn, và nếu cô không lội xuống nước…”
“Robert, em không hề giải phóng vi rút!”, Sienna hét lên. “Khi em xuống nước, em cố gắng tìm kiếm nó, nhưng đã quá muộn. Chẳng còn gì cả.”
“Tôi không tin cô”, Langdon nói.
“Em biết anh không tin. Và em không trách anh.” Cô thò tay vào túi và rút ra một tờ giấy ướt sũng. “Nhưng có thể thứ này sẽ giúp ích.” Cô ném tờ giấy cho Langdon. “Em tìm thấy nó ngay trước lúc em lội xuống đầm.”
Anh đón lấy nó và mở ra. Đó là chương trình hòa nhạc gồm bảy màn trình diễn bản Giao hưởng Dante tại bể chứa.
“Hãy nhìn ngày tháng xem”, cô nói.
Langdon đọc ngày tháng và sau đó đọc lại, cảm thấy bối rối trước những gì mình thấy. Vì một lý do gì đó, anh cứ đinh ninh rằng màn trình diễn tối nay là tối mở màn - màn trình diễn đầu tiên trong bảy buổi diễn suốt cả tuần lễ, được vạch ra nhằm thu hút người dân tới khu bể chứa toàn dịch bệnh. Tuy nhiên, chương trình này lại cho biết một câu chuyện khác hẳn.
“Tối nay là tối kết thúc sao?”, Langdon hỏi, đưa mắt khỏi tờ giấy. “Dàn nhạc đã biểu diễn trọn một tuần rồi sao?”
Sienna gật đầu. “Em cũng ngạc nhiên y như anh vậy.” Cô ngừng lại, mắt cô đầy u uất. “Thứ vi rút đó đã thoát ra rồi, Robert ạ. Nó đã thoát ra được một tuần rồi.”
“Không thể như vậy”, Langdon cố cãi. “Ngày mai mới đúng ngày. Zobrist thậm chí còn tạo ra một tấm biển ghi rõ ngày mai trên đó.”
“Phải, em đã nhìn thấy tấm biển đó dưới nước.”
“Vậy cô biết hắn chọn ngày mai mà.”
Sienna thở dài. “Robert, em hiểu rất rõ Bertrand, rõ hơn nhiều so với những gì em từng thừa nhận với anh. Anh ấy là một nhà khoa học, một người chú trọng đến kết quả. Giờ em nhận ra rằng ngày tháng ghi trên tấm biển không phải ngày phát tán vi rút. Nó là thứ khác, thứ quan trọng hơn đối với mục đích của anh ấy.”
“Và nó là… ?”
Sienna trịnh trọng từ dưới xuồng nhìn lên. “Là ngày lây nhiễm trên toàn cầu - một phép chiếu toán học về cái ngày vi rút của anh ấy truyền ra khắp thế giới… và nhiễm vào tất cả mọi người.”
Viễn cảnh ấy khiến Langdon rùng mình kinh hãi, nhưng anh vẫn không thể không nghi ngờ cô đang nói dối. Câu chuyện của cô có một chỗ hổng then chốt, và Sienna Brooks đã chứng tỏ cô vừa nói dối điều gì đó.
“Có một vấn đề, Sienna”, anh nói, mắt nhìn xuống cô. “Nếu thứ dịch bệnh này đã lây lan ra khắp thế giới thì tại sao không có ai bị bệnh?”
Sienna nhìn đi chỗ khác, đột nhiên không dám đón lấy ánh mắt anh.
“Nếu thứ dịch bệnh này đã thoát ra một tuần rồi”, Langdon nhắc lại, “thì tại sao không hề có người nào chết?”.
Cô chậm rãi nhìn lại anh. “Bởi vì…”, cô bắt đầu nói, từng lời như dính trong cổ họng cô. “Bertrand không tạo ra một dịch bệnh.”
Mắt cô lại ầng ậng nước. “Anh ấy tạo ra một thứ gì đó nguy hiểm hơn nhiều.”
--98--
Bất chấp luồng dưỡng khí chạy qua mặt nạ phòng độc của mình, Elizabeth Sinskey vẫn cảm thấy ngột ngạt. Năm phút đã qua kể từ lúc các thiết bị PCR của Brüder cho biết một sự thật hãi hùng.
Khả năng ngăn chặn của chúng ta đã tiêu tan từ lâu.
Cái túi Solublon rõ ràng đã tan hết từ tuần trước, chắc chắn là vào đêm khai mạc chương trình hòa nhạc, mà lúc này Sinskey biết đã biểu diễn bảy tối rồi. Chút ít dấu vết của Solublon gắn chặt với sợi dây không biến mất chỉ là vì nó được phủ một chất kết dính để không bị tác động bởi cái móc khóa của sợi dây.
Dịch bệnh đã thoát ra suốt một tuần rồi.
Giờ đây, khi không còn khả năng cô lập dịch bệnh, các đặc vụ SRS tập hợp mẫu phẩm tại phòng thí nghiệm tạm thời trong bể chứa và thực hiện quy trình thông thường của họ - phân tích, phân loại và đánh giá mức độ đe dọa. Cho đến giờ, các thiết bị PCR chỉ cung cấp một dữ liệu vững chắc duy nhất, và phát hiện đó không khiến mọi người ngạc nhiên.
Vi rút giờ đang ở trong không khí.
Những gì bên trong cái túi Solublon rõ ràng đã trồi lên mặt nước và các phân tử vi rút đã phát tán vào không khí. Không mất nhiều công sức, Sinskey biết. Đặc biệt trong khu vực kín mít như thế này.
Một loại vi rút - khác với vi khuẩn hay mầm bệnh hóa học - có thể lây lan trong dân chúng với tốc độ và khả năng xâm nhập cao đến kinh ngạc. Là loại sống ký sinh, các vi rút xâm nhập vào sinh vật và bám chặt vào tế bào chủ theo một quá trình gọi là “hút bám”. Sau đó, chúng bơm DNA hoặc RNA của chính mình vào tế bào đó, trưng dụng tế bào bị xâm chiếm, và buộc tế bào này phải sản sinh thật nhiều vi rút. Một khi đã có đủ số lượng nhân bản, các phân tử vi rút mới sẽ giết chết tế bào và phá vỡ thành tế bào, tràn ra tìm kiếm các tế bào chủ mới để tấn công, quá trình này cứ thế lặp đi lặp lại.
Một cá thể bị lây nhiễm sẽ thở ra hoặc hắt hơi, truyền những hạt khí nhỏ xíu ra khỏi cơ thể mình. Những hạt này sẽ lơ lửng trong không khí cho tới khi chúng lại được các chủ thể khác hít vào, và quá trình như vậy lại bắt đầu.
Tăng trưởng theo cấp số mũ, Sinskey thầm nhủ, trong đầu nhớ lại những biểu đồ của Zobrist chứng minh về tình trạng bùng nổ dân số loài người. Zobrist dùng phương pháp tăng trưởng cấp số mũ của vi rút để chống lại tăng trưởng cấp số mũ của loài người.
Tuy nhiên, câu hỏi nhức nhối lúc này là: Loại vi rút này sẽ hoạt động như thế nào?
Nói một cách lạnh lùng: Nó sẽ tấn công vật chủ như thế nào?
Vi rút Ebola làm suy yếu khả năng đông máu, gây ra tình trạng xuất huyết không ngừng. Vi rút Hanta làm suy phổi. Rất nhiều loại vi rút có tên oncovirus gây ra bệnh ung thư. Còn vi rút HIV tấn công hệ miễn dịch, gây ra bệnh AIDS. Trong cộng đồng y học, người ta đều biết nếu vi rút HIV biến thành loại lây lan trong không khí thì đó có thể là một thảm họa tuyệt chủng.
Cho nên loại vi rút của Zobrist gây nên chuyện quái quỷ gì?
Cho dù nó gây ra gì thì cũng phải có thời gian mới thấy được những hậu quả, và các bệnh viện gần đây đều chưa thông báo trường hợp bệnh nhân nào có những triệu chứng bất bình thường.
Nôn nóng muốn biết câu trả lời, Sinskey tiến lại phía phòng thí nghiệm. Bà nhìn thấy Brüder đứng gần cầu thang vì tín hiệu trên điện thoại di động rất yếu. Anh đang nói với ai đó bằng giọng khẩn trương.
Bà tiến vội lại, đến nơi vừa lúc anh kết thúc cuộc trò chuyện.
“Được, đã hiểu”, Brüder nói, vẻ mặt anh thể hiện một cảm xúc pha trộn giữa kinh hãi và không dám tin. “Một lần nữa, tôi không biết nói sao để nhấn mạnh mức độ tuyệt mật của thông tin này. Đến lúc này chỉ còn trông vào anh thôi. Gọi lại cho tôi khi anh có thêm thông tin. Cảm ơn.” Anh tắt máy.
“Có chuyện gì vậy?”, Sinskey hỏi.
Brüder từ từ thở hắt ra. “Tôi vừa nói chuyện với một người bạn cũ là chuyên gia vi rút hàng đầu tại CDC ở Atlanta.”
Sinskey nhảy dựng lên. “Anh thông báo cho CDC mà chưa được phép của tôi à?”
“Tôi thực hiện cuộc gọi trên tư cách cá nhân”, anh đáp. “Người bạn tôi sẽ rất kín tiếng, và chúng ta cần thêm nhiều dữ liệu khác chứ không phải chỉ trông vào cái phòng thí nghiệm tạm thời này.”
Sinskey liếc nhìn mấy đặc vụ SRS đang lấy mẫu nước và lúi húi bên các thiết bị điện tử cầm tay. Anh ấy nói đúng.
“Người bạn tôi ở CDC”, Brüder tiếp tục, “đang có mặt trong một phòng thí nghiệm vi sinh có đầy đủ trang thiết bị và đã xác nhận sự tồn tại của một mầm bệnh do vi rút có khả năng lây lan cực mạnh và chưa bao giờ được biết đến”.
“Khoan đã!” Sinskey xen vào. “Làm sao anh cung cấp mẫu cho anh ta nhanh như vậy được?”
“Tôi không cung cấp”, Brüder cay đắng nói. “Anh ta kiểm tra máu của chính mình.”
Chỉ trong khoảnh khắc Sinskey đã hiểu ra tất cả.
Nó đã lan ra khắp toàn cầu.
--99--
Langdon đi chầm chậm, cảm thấy mất phương hướng một cách lạ lùng, như thể đang đi qua một cơn ác mộng cực kỳ sống động. Còn thứ gì nguy hiểm hơn cả một đại dịch chứ?
Sienna không nói gì thêm kể từ lúc leo lên khỏi chiếc xuồng và ra hiệu cho Langdon theo mình rời khỏi cầu cảng, đi dọc một lối đi rải sỏi vắng vẻ, tránh xa bờ nước và đám đông.
Mặc dù Sienna đã thôi khóc, nhưng Langdon vẫn cảm thấy cả một cơn bão lòng đang hình thành trong cô. Anh nghe thấy những tiếng còi rít lên lanh lảnh phía xa, nhưng Sienna có vẻ không chú ý. Cô trân trân nhìn xuống đất, dường như đang bị thôi miên bởi tiếng sỏi lạo xạo nhịp nhàng dưới chân họ.
Họ tiến vào một công viên nhỏ, và Sienna dẫn anh tới một lùm cây rậm, nơi họ có thể lánh xa thế giới. Đến đây, họ ngồi lên một băng ghế nhìn xuống nước. Ở bờ bên kia, tháp Galata cổ kính sáng lấp lánh phía trên những khu nhà im ắng trên triền đồi. Từ đây, thế giới bình yên đến kỳ lạ, Langdon hình dung nó khác xa với những gì có lẽ đang diễn ra ở bể chứa nước. Anh cho rằng đến giờ này, hẳn nhóm SRS cũng đã nhận ra họ đến quá muộn và không thể ngăn chặn được dịch bệnh nữa.
Bên cạnh anh, Sienna đăm đăm nhìn ra biển. “Em không có nhiều thời gian, Robert”, cô nói. “Cuối cùng thì chính quyền cũng sẽ đoán ra em đã đi đâu. Nhưng trước khi họ làm được như vậy, em cần anh nghe toàn bộ sự thật…”
Langdon im lặng gật đầu.
Sienna gạt nước mắt và đổi tư thế để có thể đối diện hoàn toàn với anh. “Bertrand Zobrist…”, cô bắt đầu nói. “Anh ấy là tình yêu đầu của em. Anh ấy trở thành người dẫn dắt em.”
“Tôi đã được nghe kể rồi, Sienna”, Langdon nói.
Cô giật mình nhìn anh nhưng vẫn tiếp tục nói, như thể sợ sẽ đánh mất động lực của mình. “Em gặp anh ấy ở cái tuổi dễ rung động, và những ý tưởng cùng tri thức của anh ấy làm em mê mẩn. Giống như em, Bertrand tin rằng loài người chúng ta đang đứng trên bờ vực diệt vong… rằng chúng ta đang đối mặt với một kết cục đáng sợ, cái kết cục đang lao tới chúng ta còn nhanh hơn những gì bất kỳ ai trong chúng ta dám chấp nhận.”
Langdon không trả lời.
“Toàn bộ tuổi thơ của em”, Sienna nói, “em muốn cứu lấy thế giới. Và tất cả những gì người ta nói với em là: ‘Cô không thể cứu thế giới, cho nên đừng hy sinh hạnh phúc của mình để làm việc đó’”. Cô ngừng lại, mặt đầy căng thẳng, cố kìm nước mắt. “Rồi em gặp Bertrand - một con người xuất chúng, điển trai, anh ấy không chỉ nói với em rằng việc cứu thế giới là khả thi… mà còn nói rằng thực hiện việc đó là nhu cầu đạo đức. Anh ấy giới thiệu với em cả một cộng đồng những con người có cùng chính kiến - những con người với tri thức và năng lực phi thường… những con người thực sự có thể thay đổi tương lai. Lần đầu tiên trong đời mình, em không còn cảm thấy cô độc nữa, Robert ạ.”
Langdon khẽ mỉm cười, cảm nhận được nỗi đau trong những lời của cô.
“Trong đời mình, em đã phải gánh chịu một số việc kinh khủng”, Sienna tiếp tục, giọng cô càng lúc càng run rẩy. “Những điều em gặp phải làm xáo trộn quá khứ…” Cô dứt khỏi ánh mắt của anh và đưa bàn tay lóng ngóng xoa lớp da đầu nhẵn nhụi trước khi định thần và ngoảnh lại nhìn anh. “Và có lẽ đó là lý do tại sao điều duy nhất giúp em đi tới chính là tin rằng chúng ta có thể làm được tốt hơn hiện tại… có thể hành động để tránh một tương lai thảm khốc.”
“Và Bertrand cũng tin như vậy phải không?”, Langdon hỏi.
“Đúng vậy. Bertrand có niềm tin vô hạn dành cho nhân loại. Anh ấy là một người theo phong trào Siêu nhân học có niềm tin rằng chúng ta đang sống ở ngưỡng cửa của một kỷ nguyên ‘hậu nhân loại’ tươi sáng - một kỷ nguyên của biến đổi thật sự. Anh ấy có tư duy của một nhà vị lai, có đôi mắt nhìn ra con đường mà rất ít người có thể hình dung nổi. Anh ấy hiểu sức mạnh ghê gớm của công nghệ và tin rằng chỉ vài thế hệ nữa, loài người chúng ta sẽ trở thành một loài động vật hoàn toàn khác - được tăng cường về mặt di truyền để khỏe hơn, thông minh hơn, mạnh mẽ hơn, và thậm chí nhân ái hơn.” Cô ngừng lại. “Ngoại trừ một vấn đề. Anh ấy không nghĩ rằng chúng ta sống được đủ lâu với tư cách một giống loài để thực hiện được khả năng đó.”
“Do tình trạng quá tải dân số…”, Langdon nói.
Cô gật đầu. “Thảm họa theo thuyết Malthus. Bertrand thường nói với em là anh ấy cảm thấy giống như Thánh George cố gắng hạ gục con quái vật địa phủ.”
Langdon không hiểu kịp ý cô. “Medusa phải không?”
“Nói một cách ẩn dụ thì đúng vậy. Medusa và toàn bộ các thần linh địa phủ sống dưới lòng đất bởi vì họ có liên hệ trực tiếp với Mẹ trái đất. Về mặt phúng dụ, địa phủ luôn là biểu tượng của…”
“Sự sinh sôi”, Langdon nói, giật mình vì đã không nghĩ ra phép so sánh này sớm hơn. Sự sinh sôi. Dân số.
“Vâng, sự sinh sôi”, Sienna đáp. “Bertrand dùng thuật ngữ ‘quái vật địa phủ’ để thể hiện cho hiểm họa đáng sợ là tình trạng sinh bừa bãi của chính chúng ta. Anh ấy mô tả việc sinh sản quá nhiều con cháu giống như một con quái vật đang hiện dần ra ở đường chân trời… Một con quái vật chúng ta cần ngăn chặn ngay lập tức, trước khi nó làm thịt tất cả chúng ta.
Khả năng sinh sản của chúng ta làm hại chính chúng ta, Langdon nhận ra như vậy. Con quái vật địa phủ. “Và Bertrand chiến đấu với con quái vật ấy… bằng cách nào?”
“Xin hãy hiểu cho”, cô lên tiếng bênh vực, “có những vấn đề không dễ giải quyết. Việc lựa chọn thứ tự giải quyết luôn là một quá trình rối beng. Một người cắt rời chân của đứa bé ba tuổi là một tội ác khủng khiếp… trừ phi người đó là một bác sĩ muốn cứu đứa trẻ khỏi bị hoại tử. Đôi khi, lựa chọn duy nhất lại là chọn thứ ít tội lỗi hơn trong hai tội”. Cô lại bắt đầu ứa nước mắt. “Em tin Bertrand có một mục đích cao quý… nhưng phương pháp của anh ấy…” Cô nhìn đi chỗ khác, dường như sắp vỡ òa đến nơi.
“Sienna”, Langdon dịu dàng thì thầm. “Anh cần hiểu tất cả chuyện này. Anh cần em giải thích cho anh những gì Bertrand đã làm. Anh ta đã tung ra thế giới thứ gì?”
Sienna lại ngoảnh lại nhìn anh, đôi mắt nâu dịu dàng của cô toát ra một nỗi sợ hãi u ám hơn. “Anh ấy tung ra một loại vi rút”, cô thì thầm. “Một loại vi rút rất đặc biệt.”
Langdon như nín thở. “Kể cho anh đi.”
“Bertrand tạo ra thứ gì đó gọi là vi rút định hướng. Đó là một loại vi rút được tạo ra một cách chủ định nhằm chèn những thông tin di truyền vào tế bào mà nó tấn công.” Sienna ngừng lại để anh nắm được ý tưởng. “Một loại vi rút như thế… thay vì giết chết tế bào chủ… lại chèn một đoạn DNA đã được quyết định trước vào tế bào đó, cơ bản là thay đổi gene của tế bào.”
Langdon cố gắng hiểu ý nghĩa của cô. Loại vi rút này thay đổi DNA của chúng ta sao?
“Bản chất ngầm của loại vi rút này”, Sienna nói tiếp, “là không ai trong chúng ta biết nó đã nhiễm vào mình. Không ai bị bệnh. Nó không hề gây ra những triệu chứng cho thấy nó đang thay đổi chúng ta về mặt di truyền.”
Langdon cảm thấy mạch máu đập rộn lên mất một lúc. “Và nó tạo ra những thay đổi gì?”
Sienna nhắm mắt lại một lúc. “Robert”, cô thì thào, “ngay khi loại vi rút được giải phóng trong đầm nước ở bể chứa, một phản ứng dây chuyền bắt đầu. Tất cả những người xuống dưới cái hang đó và hít thở không khí đều bị nhiễm. Họ trở thành vật chủ… những đồng phạm vô thức lây truyền vi rút cho người khác, làm cho bệnh lây lan nhanh kinh khủng để đến giờ này đã loang khắp hành tinh như một đám cháy rừng. Đến giờ, vi rút đó sẽ xâm nhập vào dân số toàn cầu. “Anh, em… tất cả mọi người.”
Langdon đứng lên khỏi ghế và bắt đầu đi tới đi lui trước mặt cô. “Và nó gây ra điều gì với chúng ta?”, anh nhắc lại.
Sienna im lặng một lúc lâu. “Vi rút ấy có khả năng làm cho cơ thể người… thành vô sinh.” Cô thay đổi tư thế vẻ bứt rứt. “Bertrand tạo ra một loại dịch bệnh gây vô sinh.”
Những lời của cô tác động mạnh đến Langdon. Một loại vi rút làm cho chúng ta vô sinh sao? Langdon biết có tồn tại những loại vi rút có thể gây vô sinh, nhưng một loại bệnh dịch lây lan nhanh trong không khí có thể làm như vậy, bằng cách thay đổi chúng ta về mặt di truyền, dường như chỉ có ở thế giới khác… Một xã hội đọa đầy giả tưởng kiểu Orwell [60].
Bertrand thường đưa ra lý thuyết về một loại vi rút như thế này”, Sienna nói khẽ, “nhưng em chưa bao giờ nghĩ anh ấy sẽ tìm cách tạo ra nó… lại càng không thể thành công. Khi em nhận được lá thư của anh ấy và biết được những gì anh ấy đã làm, em rất sốc. Em ra sức tìm anh ấy, van nài anh ấy hủy bỏ công trình của mình. Nhưng em đã đến quá trễ”.
“Khoan đã”, Langdon xen ngang. “Nếu loại vi rút làm cho tất cả mọi người trên trái đất trở thành vô sinh, thì sẽ không thể có thế hệ mới, và loài người sẽ bắt đầu chết dần… ngay tức thì.”
“Đúng vậy”, cô đáp lời, giọng cô nghe rất nhỏ. “Trừ phi tuyệt chủng không phải là mục tiêu của Bertrand - mà ngược lại, thực tế là vậy - và đó là lý do tại sao anh ấy tạo ra một loại vi rút hoạt động ngẫu nhiên - vi rút Hỏa ngục. Mặc dù lúc này vi rút đã lây nhiễm vào toàn bộ DNA của loài người và sẽ truyền cho tất cả chúng ta từ thế hệ này trở đi, nhưng nó sẽ chỉ ‘hoạt động’ ở một tỷ lệ người rất nhỏ. Nói cách khác, loại vi rút này hiện có trong tất cả mọi người trên trái đất, nhưng nó sẽ chỉ gây vô sinh ở một bộ phận dân số được lựa chọn ngẫu nhiên mà thôi.”
“Bộ phận… nào?”, Langdon nghe rõ chính mình thốt lên, đầy vẻ hoài nghi khi đặt ra một câu hỏi như vậy.
“Chà, như anh đã biết, Bertrand rất lưu tâm đến Cái chết Đen - đại dịch đã giết chết một phần ba dân số châu Âu, không phân biệt ai cả. Anh ấy tin rằng tự nhiên biết cách tự chọn lọc. Khi tính toán tỷ lệ vô sinh, anh ấy đã rất phấn khởi khi phát hiện ra rằng tỷ lệ tử vong một phần ba do bệnh dịch hạch dường như là tỷ lệ chính xác cần thiết để bắt đầu sàng lọc dân số loài người theo một tốc độ có thể điều khiển được.
Đúng là quái đản, Langdon thầm nghĩ.
“Cái chết Đen làm vơi dân số và mở đường cho thời Phục Hưng”, cô nói, “và Bertrand tạo ra vi rút Hỏa ngục như một dạng chất xúc tác hiện đại cho quá trình phục hồi toàn cầu - một Cái chết Đen theo thuyết Siêu nhân học. Điểm khác biệt nằm ở chỗ những người bị mắc bệnh, thay vì tử vong, sẽ chỉ bị vô sinh. Giả định rằng vi rút của Bertrand phát huy tác dụng thì giờ đây một phần ba dân số thế giới không còn khả năng sinh sản… và luôn luôn có một phần ba dân số sẽ tiếp tục vô sinh. Ảnh hưởng cũng sẽ giống như tác động của một gene lặn, tức là di truyền cho tất cả con cháu, nhưng chỉ gây ảnh hưởng đến một tỷ lệ nhỏ trong số họ mà thôi”.
Tay Sienna run rẩy trong lúc tiếp tục nói, “Trong lá thư gửi cho em, Bertrand đầy tự hào nói rằng anh ấy coi vi rút Hỏa ngục là một giải pháp rất nhân văn cho vấn đề quá tải dân số”. Mắt cô lại ngân ngấn lệ, và cô vội gạt đi. “So với mức độ nguy hiểm của Cái chết Đen thì em phải thừa nhận cách tiếp cận này ít nhiều nhân hậu. Sẽ không có chuyện các bệnh viện quá tải người bệnh và người hấp hối, không có những xác chết thối rữa trên đường phố, và không có những người sống sót nhưng đau đớn trước cái chết của người thân yêu. Chỉ đơn giản là con người sẽ không có nhiều con cái. Hành tinh của chúng ta sẽ trải qua một giai đoạn suy giảm liên tục tỷ lệ sinh cho tới khi đường cong dân số thay đổi, và tổng số dân của chúng ta bắt đầu giảm xuống.”
Cô ngừng lại. “Kết quả sẽ hiệu nghiệm hơn hẳn dịch hạch, chỉ là khống chế số lượng của con người, tạo ra xu hướng đi xuống tạm thời trên đồ thị tăng dân số. Với Hỏa ngục, Bertrand tạo ra một giải pháp lâu dài, một giải pháp vĩnh viễn… một giải pháp Siêu nhân học. Anh ấy là một chuyên gia di truyền chuỗi phôi. Anh ấy giải quyết các vấn đề ở cấp độ căn nguyên gốc rễ.”
“Như thế là khủng bố di truyền…”, Langdon nói khẽ. “Nó làm thay đổi con người chúng ta lúc này, con người chúng ta vẫn luôn như vậy, ở cấp độ cơ bản nhất.”
“Bertrand không nhìn nhận mọi việc như thế. Anh ấy ao ước có thể giải quyết được khiếm khuyết cốt tử trong quá trình tiến hóa của nhân loại… Sự thật là loài người chúng ta sinh sản quá nhiều. Chúng ta là một sinh vật, mặc dù có trí tuệ vượt trội, song dường như lại không thể kiểm soát được số lượng của chính mình. Không có biện pháp tránh thai tự do, giáo dục hay lời vận động nào của chính phủ có tác dụng cả. Chúng ta cứ có con… cho dù muốn hay không. Anh có biết CDC vừa tuyên bố rằng gần một nửa ca mang thai ở Hoa Kỳ là do vỡ kế hoạch không? Và, ở những quốc gia kém phát triển, con số đó là hơn bảy mươi phần trăm!”
Langdon đã nhìn thấy những số liệu thống kê này trước đó nhưng chỉ đến lúc này anh mới bắt đầu hiểu ý nghĩa của chúng. Là một giống loài, con người cũng giống như giống thỏ rừng được đưa tới một số chuỗi đảo ở Thái Bình Dương, có thể sinh sản thoải mái tới mức tự phá hủy hệ sinh thái của chính mình và cuối cùng tự tuyệt chủng.
Bertrand Zobrist đã thiết kế lại giống loài chúng ta… nhằm cố gắng cứu lấy chúng ta… biến cải chúng ta thành loài có tỷ lệ sinh sản thấp.
Langdon hít một hơi thật sâu và đăm đăm nhìn ra eo biển Bosporus, cảm thấy lâng lâng, giống như những con tàu đang trôi nổi phía xa. Những tiếng còi hụ vẫn càng lúc càng to, đang vọng lại từ phía cầu cảng, và Langdon cảm thấy thời gian đang cạn dần.
“Điều khủng khiếp nhất”, Sienna nói, “không phải là vi rút Hỏa ngục gây ra tình trạng vô sinh, mà là nó có khả năng làm điều đó. Một vi rút định hướng tồn tại trong không khí là một bước tiến vượt bậc - vượt xa thời đại nhiều năm. Bertrand bỗng chốc đưa chúng ta thoát ra khỏi thời kỳ tăm tối của điều khiển di truyền và đẩy chúng ta tiến nhanh vào tương lai. Anh ấy đã mở khóa quá trình tiến hóa và cho nhân loại khả năng định nghĩa lại giống loài của mình bằng những hành động có quy mô và ảnh hưởng sâu rộng. Pandora đã thoát ra khỏi hộp chứa, và không thể nhốt nó trở lại được nữa. Bertrand đã tạo ra chìa khóa để thay đổi loài người… và nếu các chìa khóa đó rơi vào những bàn tay không xứng đáng thì khi đó xin Chúa phù hộ chúng ta. Công nghệ này đáng lẽ không bao giờ được tạo ra. Ngay khi em đọc bức thư của Bertrand giải thích cách anh ấy đạt được mục tiêu của mình, em đã đốt nó đi. Sau đó em thề tìm cho ra vi rút của anh ấy và phá hủy mọi vết tích của nó”.
“Anh không hiểu”, Langdon nói, giọng đầy giận dữ. “Nếu em muốn tiêu diệt loại vi rút đó, tại sao em lại không hợp tác với tiến sĩ Sinskey và WHO? Lẽ ra em nên gọi cho CDC hay ai đó.”
Anh nghĩ một cách nghiêm túc xem! Các cơ quan chính phủ là những chủ thể cuối cùng trên trái đất nên được trao quyền tiếp cận với công nghệ này! Hãy nghĩ về điều đó, anh Robert. Trong suốt lịch sử loài người, mọi công nghệ mang tính đột phá từng được giới khoa học nghĩ ra đều bị biến thành vũ khí - từ hỏa khí đơn giản tới năng lượng nguyên tử - và gần như luôn nằm trong tay các chính phủ mạnh. Anh nghĩ các vũ khí sinh học của chúng ta từ đâu mà ra? Chúng khởi nguồn từ những nghiên cứu được thực hiện tại các địa điểm như WHO và CDC đấy. Công nghệ của Bertrand - một loại vi rút dịch bệnh được sử dụng như một phần tử mang thông tin di truyền - là thứ vũ khí hùng mạnh nhất từng được tạo ra. Nó mở đường cho những điều kinh khủng mà chúng ta thậm chí không thể hình dung nổi, kể cả những vũ khí sinh học có mục tiêu. Hãy thử hình dung ra một loại dịch bệnh chỉ tấn công những người mà mã di truyền có chứa những tín hiệu chủng tộc nhất định. Điều đó có thể giúp thực hiện việc loại trừ chủng tộc quy mô lớn ở cấp độ di truyền!”
“Anh hiểu những lo lắng của em, Sienna, anh hiểu, nhưng công nghệ này cũng có thể sử dụng cho những điều tốt đẹp, phải không? Lẽ nào phát hiện này không phải là một may mắn bất ngờ cho lĩnh vực y học di truyền? Một con đường mới để thực hiện tiêm chủng toàn cầu chẳng hạn?”
“Có lẽ như vậy, nhưng rất tiếc, em đã đủ kinh nghiệm để nhận ra những điều tệ hại nhất từ những con người nắm giữ quyền lực.
Phía xa, Langdon nghe thấy tiếng rền vang của một chiếc trực thăng đang phá tan bầu không khí. Anh dõi mắt qua những tán cây về phía chợ Gia vị và thấy những ánh đèn của một chiếc máy bay đang lượn phía trên khu đồi, bay nhanh về phía cầu cảng.
Sienna tỏ ra bồn chồn. “Em cần phải đi”, cô nói, đứng lên và ngó về cầu Atatürk ở phía tây. “Em nghĩ em có thể đi bộ qua cầu, và từ đó tới…”
“Em không đi được, Sienna”, anh nói rất kiên quyết.
“Robert, em quay lại bởi vì em cảm thấy em nợ anh một lời giải thích. Giờ anh đã có rồi.”
“Không, Sienna”, Langdon nói. “Em quay lại bởi vì em đã trốn chạy cả đời mình rồi, và cuối cùng em nhận ra em không thể chạy thêm được nữa.”
Dường như Sienna co rúm lại trước mặt anh. “Em còn lựa chọn nào đây?”, cô hỏi, mắt nhìn chiếc trực thăng đang dõi khắp vùng nước. “Họ sẽ tống em vào tù ngay khi họ tìm thấy em.”
“Em chẳng làm gì sai trái cả, Sienna. Em không hề tạo ra loại vi rút này… cũng không hề giải phóng nó.”
“Đúng, nhưng em đã đi quá xa trong việc ngăn cản Tổ chức Y tế Thế giới tìm ra nó. Nếu không kết thúc mọi chuyện trong một nhà tù Thổ Nhĩ Kỳ thì em cũng sẽ đối mặt với một tòa án quốc tế nào đó với tội danh khủng bố sinh học.”
Khi tiếng động cơ trực thăng nghe to hơn, Langdon nhìn về cầu cảng phía xa. Chiếc máy bay đang lơ lửng tại chỗ, cánh quạt khuấy tung nước trong khi ánh đèn pha của nó quét qua những chiếc thuyền.
Trông Sienna như sẵn sàng lao đi bất cứ lúc nào.
“Nghe anh này”, Langdon nói, giọng dịu hẳn. “Anh biết em đã trải qua quá nhiều việc, và anh biết em sợ, nhưng em cần nghĩ đến một bức tranh lớn hơn. Bertrand tạo ra loại vi rút này. Còn em cố gắng ngăn chặn nó.”
“Nhưng em đã thất bại.”
“Đúng, giờ loại vi rút đó đã thoát ra, cộng đồng khoa học và y học sẽ cần phải hiểu nó một cách đầy đủ. Em là người duy nhất biết rõ về nó. Có lẽ có cách để vô hiệu hóa nó… hoặc làm gì đó để chuẩn bị.” Ánh mắt của Langdon nhìn như xoáy vào cô. “Sienna, thế giới cần biết những gì em biết. Em không thể biến mất được.”
Giờ thân hình mảnh dẻ của Sienna run lên bần bật, như thể toàn bộ nỗi đau khổ và tâm trạng không chắc chắn vỡ òa. “Robert, em… em không biết phải làm gì. Em thậm chí không biết mình là ai nữa. Hãy nhìn em đi.” Cô đưa một tay lên cái đầu trọc lóc của mình. “Em đã biến thành một con quái vật. Làm sao em có thể đối diện với…”
Langdon bước tới và vòng tay quanh người cô. Anh cảm nhận được cơ thể của cô run lên, cảm nhận được sự mỏng manh của cô truyền qua ngực mình. Anh khẽ thì thầm vào tai cô.
“Sienna, anh biết em muốn bỏ đi, nhưng anh sẽ không để em đi. Sớm muộn em cũng cần học cách tin tưởng ai đó.”
“Em không thể…”, cô thổn thức. “Em không chắc phải làm như thế nào.”
Langdon ôm chặt cô hơn. “Em hãy bắt đầu từ điều nhỏ thôi. Một bước đầu tiên đơn giản. Hãy tin tưởng anh.”
