Hỏa Ngục: SỐ 22

http://truyenhiepsi.blogspot.com

Tác giả: Dan Brown


--88--

Kỳ quan thế giới thứ tám, một số người gọi nơi này như vậy, nhưng lúc này đứng bên trong, Langdon không có ý định tranh luận về đánh giá đó.

Khi cả nhóm bước qua ngưỡng cửa tiến vào khu điện thờ đồ sộ, Langdon sực nhớ rằng Hagia Sophia có thể gây được ấn tượng với khách tham quan về quy mô tráng lệ của nó chỉ trong nháy mắt.

Gian phòng này lớn đến mức dường như ngay cả những đại giáo đường của châu Âu cũng biến thành những chú lùn. Langdon biết rằng, sự choáng ngợp của nó một phần là ảo giác - một hiệu ứng phụ nhờ phần mặt sàn kiểu Byzantine, với toàn bộ không gian thờ cúng tập trung trong một gian phòng vuông vức duy nhất, chứ không phải trải ra theo bốn nhánh của bố cục hình thập tự - vốn là phong cách được sử dụng cho các thánh đường sau này.

Tòa nhà này còn nhiều tuổi hơn Notre-Dame đến bảy trăm năm, Langdon nghĩ bụng.

Sau khi mất một lúc mới quan sát được hết quy mô rộng lớn của gian phòng, Langdon ngước mắt nhìn lên, phải hơn bốn mươi lăm mét phía trên đầu, về phía mái vòm màu vàng sáng lấp lánh trùm lấy gian phòng. Từ điểm trung tâm, bốn mươi gọng vòm tỏa đều ra như những tia nắng mặt trời, chạy tới dãy tường cuốn hình tròn gồm bốn mươi ô cửa sổ vòng cung. Vào ban ngày, ánh sáng tràn qua những ô cửa sổ này phản chiếu và khúc xạ những mảnh kính khảm chặt trên lớp mái vàng, tạo ra “thứ ánh sáng kỳ ảo”, điểm nổi tiếng nhất của Hagia Sophia.

Langdon từng một lần duy nhất thấy cái không gian mạ vàng của gian phòng này được nắm bắt một cách chính xác trong tranh vẽ. Họa sĩ John Singer Sargent. Không có gì lạ, khi tạo ra bức Hagia Sophia nổi tiếng của mình, vị họa sĩ người Mỹ này chỉ giới hạn bảng màu trong phạm vi những sắc độ khác nhau của một màu duy nhất.

Màu vàng.

Phần mái vòm vàng lấp lánh, thường gọi là “mái vòm của Thiên đường”, được đỡ bằng bốn khung tò vò cực lớn và những khung này lại được cố định bằng rất nhiều kết cấu nửa vòm và lá nhĩ. Rồi lại có một tầng nửa vòm và dãy cuốn nhỏ hơn đỡ dưới các chi tiết này, tạo ra hiệu ứng như thể một thác nước gồm toàn những dạng thức kiến trúc đang từ trên trời tìm đường xuống trái đất.

Chạy từ trên trời xuống đất, mặc dù theo một lộ trình trực tiếp hơn, những sợi cáp dài từ mái vòm lao thẳng xuống và đỡ cả một biển chúc đài được treo thấp đến mức những vị khách cao lớn rất dễ va phải chúng. Nhưng thực tế, đây lại là một ảo giác nữa do sự hoành tráng của không gian này tạo ra, bởi lẽ những ngọn chúc đài đều treo cao cách sàn gần bốn mét.

Cũng như với tất cả các điện thờ khác, kích thước đồ sộ của Hagia Sophia nhằm hai mục đích. Thứ nhất, nó là bằng chứng trước Chúa về những gì con người sẵn sang thực hiện để tỏ lòng tôn kính với ngài. Và thứ hai, nó là hình thức gây sốc với các tín đồ - một không gian vật lý hùng vĩ đến mức những người bước vào đều cảm thấy mình trở nên nhỏ bé, cái tôi của họ tan biến, cái bản thể vật chất cùng tầm quan trọng của họ chỉ còn là một chấm nhỏ nhoi trước Chúa - nguyên tử trong bàn tay của Tạo hóa mà thôi.

Chừng nào con người chẳng là gì cả thì Chúa cũng chẳng thể tạo ra được gì từ anh ta. Martin Luther từng nói những lời này vào thế kỷ XVI, nhưng quan niệm đó đã nằm trong tư duy của những người xây dựng từ thời có những hình mẫu xưa nhất của kiến trúc tôn giáo.

Langdon liếc nhìn Brüder và Sinskey, cũng đang chăm chú nhìn lên và lúc này mới hạ ánh mắt xuống.

“Chúa Jeus”, Brüder nói.

“Phải!” Mirsat hào hứng nói. “Và cả Thánh Allah cùng Đức Muhammad nữa!”

Langdon phì cười khi anh chàng hướng dẫn viên của họ bảo Brüder nhìn bàn thờ chính, nơi này có một bức tranh gốm khảm cao ngất hình Chúa Jeus kèm hai bên là hai chiếc đĩa lớn có tên bằng tiếng Ả Rập của Muhammad và Thánh Allah theo kiểu thư pháp trang trí.

“Bảo tàng này”, Mirsat giải thích, “cố gắng gợi cho khách tham quan nhớ đến những mục đích đa dạng của không gian thiêng liêng, nên lần lượt thể hiện cả biểu tượng Thiên Chúa giáo, từ thời kỳ khi Hagia Sophia còn là một nhà thờ, lẫn biểu tượng Hồi giáo, khi nó được dùng như một giáo đường”. Anh ta mỉm cười tự hào. “Bất chấp sự xích mích giữa hai tôn giáo giữa đời thực, chúng tôi vẫn nghĩ những biểu tượng của họ khá hòa hợp với nhau. Tôi biết anh cũng tán thành, thưa giáo sư.”

Langdon chân thành gật đầu, nhớ lại rằng tất cả những biểu tượng Thiên Chúa giáo đều đã bị che kín bằng vôi khi tòa nhà này trở thành một giáo đường Hồi giáo. Việc phục hồi lại những biểu tượng Thiên Chúa giáo bên cạnh các biểu tượng Hồi giáo đã tạo ra một hiệu quả hấp dẫn, đặc biệt vì những phong cách và đặc điểm nhạy cảm của hai hệ thống biểu tượng này lại là hai cực đối lập nhau.

Trong khi truyền thống Thiên Chúa giáo ưa những hình ảnh thế tục của các vị thần thánh, Hồi giáo lại tập trung vào thư pháp chữ Ả Rập và những hoa văn kỷ hà để thể hiện vẻ đẹp trong vũ trụ của Chúa trời. Truyền thống Hồi giáo cho rằng chỉ có Chúa trời mới tạo ra cuộc sống, do đó con người không thể tạo ra những hình ảnh của cuộc sống - không thần linh, không con người, thậm chí không động vật.

Langdon nhớ đã từng cố gắng giải thích quan niệm này cho các sinh viên của mình: “Một Michelangelo theo đạo Hồi, xin lấy ví dụ như vậy, sẽ chẳng bao giờ vẽ gương mặt của Chúa trên trần Nhà nguyện Sistine. Ông ấy sẽ khắc tên Chúa trời. Thể hiện gương mặt Chúa bị coi là hành động báng bổ”.

Langdon tiếp tục giải thích lý do của việc này.

“Cả Thiên Chúa giáo và Hồi giáo đều lấy ngôn từ làm trung tâm luận”, anh nói với sinh viên, “có nghĩa là họ tập trung vào Ngôi Lời. Theo truyền thống của Thiên Chúa giáo, Ngôi Lời trở thành xác thịt trong cuốn sách của Thánh John: ‘Và Ngôi Lời đã trở thành xác thịt, và Ngài ở giữa chúng ta’. Do đó, người ta chấp nhận việc mô tả Ngôi Lời có hình dạng con người. Còn trong truyền thống Hồi giáo, Ngôi Lời không trở nên xác thịt, cho nên Ngôi Lời cần giữ nguyên hình dạng của ngôn từ… trong hầu hết các trường hợp, đó là những hình thức thể hiện bằng thư pháp tên của các nhân vật thần thánh trong đạo Hồi”.

Một trong số các sinh viên của Langdon đã đúc kết đoạn lịch sử phức tạp này bằng một ghi chú bên lề vở chính xác đến thú vị rằng: “Người Thiên Chúa giáo thích mặt, người Hồi giáo thích chữ”.

“Trước mặt chúng ta đây”, Mirsat tiếp tục, ra hiệu về phía bên kia gian phòng kỳ vĩ, “các vị thấy một sự hòa trộn độc đáo giữa Thiên Chúa giáo và Hồi giáo”.

Anh ta chỉ rõ sự kết hợp của các biểu tượng ở khu hậu cung hoành tráng, đáng chú ý nhất là hình tượng Đức mẹ Đồng trinh và Chúa Hài đồng nhìn xuống mihrab - chỗ ngách tường hình bán nguyệt trong một giáo đường Hồi giáo cho biết phương hướng của Mecca. Gần đó, một dãy cầu thang chạy đến bục giảng kinh, trông giống kiểu bục dùng làm nơi thực hiện các bài thuyết pháp Thiên Chúa giáo, nhưng trên thực tế lại là một minbar, bục thánh lễ cho thầy tế thực hiện các buổi lễ ngày thứ Sáu. Tương tự, kết cấu hình hoa cúc gần đó trông giống khu vực dành cho đội hợp ca nhà thờ Thiên Chúa giáo nhưng thực tế lại là müezzin mahfili, một loại bục được tôn cao dành cho thầy tu báo giờ quỳ và cầu kinh đáp lại lời cầu nguyện của thầy tế.

“Các giáo đường Hồi giáo và thánh đường Thiên Chúa giáo giống nhau đến kinh ngạc”, Mirsat tuyên bố. “Truyền thống của Đông và Tây không khác biệt nhiều như chúng ta nghĩ!”

“Anh Mirsat?”, Brüder thúc bách, giọng đầy nôn nóng. “Chúng tôi rất muốn vào xem mộ Dandolo, nếu có thể?”

Mirsat có vẻ hơi bực mình, như thể vẻ nóng vội của Brüder chính là một biểu hiện thiếu tôn trọng đối với nhà thờ này.

“Phải”, Langdon nói. “Tôi xin lỗi vì vội vàng, nhưng chúng tôi có thời gian biểu rất sít sao.”

“Cũng được thôi”, Mirsat nói, tay chỉ một ban công khá cao bên trái họ. “Chúng ta lên gác và xem ngôi mộ.”

“Đi lên sao?”, Langdon giật mình đáp lại. “Không phải Enrico Dandolo được chôn cất trong hầm mộ à?” Langdon nhớ rõ về ngôi mộ, nhưng không nhớ vị trí chính xác trong tòa nhà nơi có mộ. Anh hình dung ra những khu vực tối tăm ngầm trong lòng đất của tòa nhà.

Mirsat có vẻ khó chịu trước câu hỏi. “Không, thưa giáo sư, mộ của Enrico Dandolo chắc chắn ở trên tầng.”

Có chuyện quái quỷ gì ở đây vậy nhỉ? Mirsat thắc mắc.

Khi Langdon đề nghị tới thăm mộ Dandolo, Mirsat cảm thấy đề nghị đó như một kiểu nghi trang. Chẳng ai muốn xem mộ Dandolo cả. Mirsat cho rằng thứ Langdon thật sự muốn xem là kho báu bí ẩn ngay bên mộ Dandolo kia - tác phẩm Gốm khảm Deesis - bức chân dung Chúa Toàn năng cổ vẫn được xem là một trong những tác phẩm nghệ thuật bí ẩn nhất của tòa nhà này.

Langdon đang tìm kiếm bức tranh gốm, và đang cố gắng giữ kín điều đó, Mirsat phán đoán, cho rằng vị giáo sư có lẽ đang viết một tác phẩm bí mật về bức Deesis.

Tuy nhiên, đến giờ thì Mirsat không hiểu. Chắc chắn Langdon biết tác phẩm Deesis nằm trên tầng hai, nhưng tại sao anh lại có phản ứng ngạc nhiên như vậy?

Trừ phi đúng là anh ta đang tìm kiếm mộ Dadolo chăng?

Bối rối, Mirsat dẫn họ về phía cầu thang, đi qua một trong hai cái đỉnh nổi tiếng của Hagia Sophia - một đại khí nặng tới gần một nghìn hai trăm năm mươi cân đẽo từ một khối cẩm thạch nguyên khối vào thời kỳ Hy Lạp hóa.

Lúc này, Mirsat im lặng leo lên cùng cả đoàn, cảm giác hơi bồn chồn. Các cộng sự của Langdon dường như không giống dân học thuật chút nào. Một trong số họ giống một dạng lính tráng nào đó, cơ bắp và cứng nhắc, lại mặc toàn đồ đen. Còn người phụ nữ có mái tóc bạc thì Mirsat cảm thấy như mình đã gặp bà ấy từ trước. Có lẽ trên truyền hình chăng?

Anh ta bắt đầu thấy nghi ngờ rằng mục đích chuyến viếng thăm này không phải như họ nói lúc đầu. Thật sự thì tại sao họ lại đến đây?

“Chỉ một đợt cầu thang nữa thôi”, Mirsat vui vẻ nói khi họ đến chiếu nghỉ. “Chúng ta sẽ thấy mộ của Enrico Dandolo trên tầng, và dĩ nhiên”, anh ta ngừng lại, mắt nhìn Langdon, “bức Gốm khảm Deesis nổi tiếng”.

Không có lấy một chút do dự.

Có vẻ như Langdon, trên thực tế, không hề đến đây vì bức Deesis một tí nào. Anh và các vị khách của mình dường như tập trung một cách khó hiểu vào ngôi mộ của Dandolo.


--89--

Khi Mirsat dẫn đường lên gác, Langdon nhận thấy Brüder và Sinskey rất lo lắng. Phải thừa nhận, việc leo lên tầng hai dường như chẳng có ý nghĩa gì. Langdon cứ nghĩ đến đoạn video ngầm trong lòng đất của Zobrist và bộ phim tài liệu về những khu vực ngầm bên dưới Hagia Sophia.

Chúng ta cần phải đi xuống.

Cho dù như vậy, nếu đây đúng là nơi có ngôi mộ của Dandolo thì họ cũng không còn lựa chọn nào khác ngoài việc làm theo đúng những chỉ dẫn của Zobrist. Hãy quỳ gối bên trong bảo quán mạ vàng của tri thức thánh thiêng, và áp tai xuống mặt đất, lắng nghe tiếng nước nhỏ giọt.

Cuối cùng khi đến tầng hai, Mirsat dẫn họ sang bên phải, đi dọc theo gờ ban công, nơi có tầm nhìn đẹp đến nín thở về khu điện thờ phía dưới. Langdon vẫn hướng về phía trước, rất tập trung.

Mirsat vẫn nhiệt thành nói về bức Gốm khảm Deesis, nhưng Langdon chẳng hề để tâm.

Giờ anh đã nhìn thấy mục tiêu của mình.

Ngôi mộ của Dandolo.

Ngôi mộ vẫn đúng như Langdon còn nhớ - một miếng cẩm thạch trắng hình chữ nhật được khảm vào nền đá nhẵn bóng và được quây lại bằng cọc và xích.

Langdon tiến nhanh lại và xem xét những dòng chữ khắc:

HENRICUS DANDOLO

Khi những người khác tiến đến phía sau, Langdon lập tức hành động, bước nhanh qua xích bảo vệ và đặt chân ngay phía trước bia mộ.

Mirsat lớn tiếng phản đối, nhưng Langdon vẫn tiếp tục, nhanh nhẹn quỳ gối như thể đang chuẩn bị cầu nguyện dưới chân vị tổng trấn bội bạc.

Tiếp đó, bằng một động tác khiến Mirsat thốt lên kinh hãi, Langdon đặt hai tay lên mộ và úp sấp mặt xuống sàn. Lúc ấy, Langdon thấy mình như đang quỳ lạy ở Mecca vậy. Động tác của anh khiến Mirsat cứng đờ, câm bặt, và đột nhiên toàn bộ tòa nhà đột nhiên chìm vào im lặng.

Langdon hít một hơi thật sâu, ngoảnh mặt sang phải và nhẹ nhàng áp tai trái vào mộ. Da thịt anh cảm nhận rõ sự lạnh lẽo của lớp đá.

Thứ âm thanh anh nghe vọng lên qua lớp đá rõ rệt như ban ngày.

Lạy Chúa.

Khúc cuối Hỏa ngục của Dante dường như đang vọng lên từ bên dưới.

Rất chậm rãi, Langdon xoay đầu, đăm đăm nhìn lên Brüder và Sinskey.

“Tôi nghe thấy rồi”, anh thì thào. “Tiếng nước nhỏ giọt.”

Brüder nhảy qua dây xích và quỳ xuống bên cạnh Langdon lắng nghe. Một lúc sau, anh ta gật đầu lia lịa.

Giờ đây khi họ nghe thấy tiếng nước chảy xuống dưới, một câu hỏi vẫn còn đó. Nó chảy đi đâu?

Tâm trí Langdon bỗng nhiên ngập tràn những hình ảnh của một cái hang chìm một nửa, ngập trong thứ ánh sáng màu đỏ kỳ quái, đâu đó bên dưới họ.

“Hãy lần sâu vào tòa cung điện bị chìm…

vì ở đây, trong bóng tối, con quái vật chốn địa phủ chờ đợi,

lặn ngụp trong thứ nước đỏ như máu…

của cái đầm không hề phản chiếu ánh sao.”

Khi Langdon đứng lên và bước qua các cọc rào lần nữa, Mirsat vẫn trừng trừng nhìn anh với vẻ cảnh giác và bị phản bội hiện rõ trên mặt. Langdon đứng cao hơn anh chàng hướng dẫn người Thổ đến hơn gang tay.

“Mirsat”, Langdon bắt đầu nói. “Tôi xin lỗi. Anh có thể thấy đấy, đây là một tình thế rất bất thường. Tôi không có thời gian để giải thích, nhưng tôi có một câu hỏi quan trọng để hỏi anh về tòa nhà này.”

Mirsat cố gắng gật đầu yếu ớt. “Vâng.”

“Ở đây, bên mộ của Dandolo, chúng tôi nghe thấy một dòng nước chảy đâu đó bên dưới lớp đá. Chúng tôi cần biết chỗ nước này chảy đi đâu.”

Mirsat lắc đầu. “Tôi không hiểu. Có thể nghe thấy tiếng nước bên dưới sàn nhà ở khắp mọi chỗ trong Hagia Sophia mà.”

Tất cả mọi người cứng đờ.

“Vâng”, Mirsat nói với họ, “đặc biệt khi trời mưa. Hagia Sophia có xấp xỉ chín nghìn ba trăm mét vuông mái cần thoát nước, và thường phải mất hàng ngày trời. Và thông thường trời lại đổ mưa trước khi nước kịp thoát hết. Tiếng nước nhỏ giọt rất phổ biến ở đây. Có lẽ các vị biết rằng Hagia Sophia ở bên trên những hang nước rất lớn. Có hẳn một phim tài liệu mà…”.

“Đúng, đúng”, Langdon lên tiếng, “nhưng anh có biết liệu chỗ nước nghe rất rõ ở đây, tại mộ của Dandolo này, chảy tới một chỗ nào đó cụ thể không?”.

“Dĩ nhiên”, Mirsat nói. “Nó chảy tới cùng chỗ mà toàn bộ nước trút xuống từ Hagia Sophia chảy tới. Đó là bể chứa của thành phố.”

“Không”, Brüder lên tiếng, chân bước qua rào chắn. “Chúng tôi không tìm kiếm bể chứa nước. Chúng tôi tìm một không gian ngầm rất lớn, có lẽ còn có cả những cột trụ nữa?”

“Đúng rồi”, Mirsat nói. “Bể chứa nước cổ của thành phố chính là nơi đó - một không gian ngầm rất lớn có cột trụ. Thực tế là rất ấn tượng. Nó được xây dựng vào thế kỷ VI để chứa nguồn cấp nước của thành phố. Còn bây giờ nó chỉ còn khoảng hơn một mét hai nước, nhưng…”

“Nó nằm ở đâu!”, Brüder hỏi, giọng anh ta vang rền trong không gian trống trải.

“Cái… bể nước hả?”, Mirsat hỏi lại, vẻ sợ hãi. “Cách đây một dãy nhà, ngay phía đông tòa nhà này.” Anh ta chỉ tay ra bên ngoài. “Nó được gọi là Yerebatan Sayari.”

Sayari sao? Langdon thắc mắc. Giống như trong Topkapi Sayari à? Tấm biển chỉ dẫn Cung điện Topkapi xuất hiện thường xuyên lúc họ lái xe tới đây. “Thế… sayari có phải nghĩa là ‘cung điện’ không?”

Mirsat gật đầu. “Đúng vậy. Tên bể nước cổ của chúng tôi là Yerebatan Sayari. Nó có nghĩa là… cung điện chìm.”

--90--

Mưa bắt đầu giăng khi tiến sĩ Sinskey bắt đầu lao vội ra khỏi Hagia Sophia cùng với Langdon, Brüder và anh chàng hướng dẫn viên Mirsat đang choáng váng của họ.

Hãy lần sâu vào tòa cung điện bị chìm, Sinskey nghĩ.

Địa điểm bể chứa nước của thành phố - Yerebatan Sayari - rõ ràng ở phía sau Giáo Đường Xanh và hơi chếch về phía bắc.

Mirsat dẫn đường.

Sinskey không còn lựa chọn nào khác là nói cho Mirsat biết họ là ai và rằng họ đang phải chạy đua để ngăn cản một cuộc khủng hoảng y tế có thể nổ ra ngay trong cung điện chìm đó.

“Lối này!”, Mirsat gọi, dẫn họ chạy men theo công viên tối om. Giờ Hagia Sophia đồ sộ như trái núi đã ở phía sau họ, và những ngọn tháp như trong truyện cổ tích của Giáo Đường Xanh lấp lánh phía trước.

Bên cạnh Sinskey, đặc vụ Brüder nói như quát vào điện thoại, cập nhật tình hình cho đội SRS và ra lệnh cho họ gặp nhau tại lối vào bể chứa nước. “Xem ra Zobrist nhắm vào nguồn cấp nước của thành phố”, Brüder nói, thở không ra hơi. “Tôi cần giản đồ của tất cả đường ống ra-vào bể chứa. Chúng ta sẽ thực hiện quy trình ngăn chặn và cách ly hoàn toàn. Chúng ta cần các rào chắn hóa học và vật lý với chân không…”

“Đợi đã”, Mirsat gọi anh ta. “Anh hiểu nhầm tôi rồi. Bể chứa không phải là nguồn cấp nước của thành phố. Không còn chức năng ấy nữa!”

Brüder hạ điện thoại, nhìn sững người hướng dẫn. “Sao cơ?”

“Thời xưa thì bể nước là nguồn cấp nước”, Mirsat nói rõ. “Nhưng không còn thế nữa rồi. Chúng tôi đã hiện đại hóa rồi.”

Brüder dừng phắt lại bên dưới tán cây, và tất cả mọi người cũng dừng lại theo.

“Mirsat”, Sinskey nói, “anh có chắc rằng không còn ai uống nước từ bể chứa không?”.

“Hoàn toàn không”, Mirsat nói. “Nước nằm nguyên dưới đó… cuối cùng tự thẩm thấu vào trong đất.”

Sinskey, Langdon và Brüder cùng nhìn nhau vẻ không chắc chắn. Sinskey không biết mình cảm thấy nhẹ nhõm hay thêm hoảng. Nếu không ai thường xuyên tiếp xúc với nước thì tại sao Zobrist lại chọn đầu độc nơi đó?

“Khi chúng tôi hiện đại hóa nguồn cấp nước từ nhiều thập kỷ trước”, Mirsat giải thích, “bể chứa không còn được sử dụng nữa và trở thành một cái bể lớn trong một gian phòng ngầm dưới đất”. Anh ta nhún vai. “Còn bây giờ thì chỉ là một điểm du lịch thôi.”

Sinskey xoay người về phía Mirsat. Một điểm du lịch ư? “Khoan đã… mọi người có thể đi xuống đó à? Xuống bể nước ấy?”

“Dĩ nhiên rồi”, anh ta nói. “Có đến hàng nghìn người tham quan mỗi ngày. Hang ngầm khá ấn tượng. Có các lối đi lót ván phía trên mặt nước… và thậm chí còn có một quán cà phê nhỏ. Thông khí hơi hạn chế nên không khí khá ngột ngạt và ẩm thấp, nhưng nơi đó vẫn rất nổi tiếng.”

Sinskey nhìn sững Brüder, và bà có thể khẳng định rằng cả bà và anh chàng đặc vụ SRS được huấn luyện kỹ càng đều cùng hình dung ra một điều - một hang ngầm ẩm thấp, tối tăm toàn nước đọng trong đó có ủ một thứ mầm bệnh. Cơn ác mộng thêm hoàn chỉnh với sự hiện diện của những lối đi lót ván nơi khách du lịch qua lại suốt ngày, ngay phía trên mặt nước.

“Hắn tạo ra một dạng thuốc phun sinh học”, Brüder tuyên bố.

“Nghĩa là sao?”, Langdon hỏi.

“Nghĩa là”, Brüder đáp, “nó có thể lan truyền trong không khí”.

Langdon im bặt, và Sinskey thấy rõ lúc này anh đang hình dung mức độ ghê gớm của cuộc khủng hoảng này.

Đã có lúc trong đầu Sinskey nghĩ đến kịch bản một thứ mầm bệnh lan truyền trong không khí, nhưng khi bà tin rằng bể chứa nước chính là nguồn cung cấp nước của thành phố, bà hy vọng có lẽ Zobrist chọn một dạng bệnh lây lan theo nước. Các vi khuẩn sống trong nước rất mạnh và chống chịu được thời tiết, nhưng chúng cũng chậm phát tán.

Các mầm bệnh dựa vào không khí lại lan truyền nhanh.

Rất nhanh.

“Nếu nó tồn tại trong không khí”, Brüder nói, “thì có khả năng là vi rút”.

Một loại vi rút, Sinskey đồng ý. Thứ mầm bệnh lây lan nhanh nhất mà Zobrist có thể lựa chọn.

Phải thừa nhận việc giải phóng một loại vi rút tồn tại trong không khí xuống nước là điều lạ thường, nhưng có điều dạng sống sinh trưởng trong chất lỏng và sau đó nở trong không khí - muỗi, bào tử nấm mốc, những loại vi khuẩn gây bệnh viêm phổi khuẩn, độc tố nấm, thủy triều đỏ [59], và thậm chí cả con người. Sinskey hình dung ra thứ vi rút tỏa ra khắp đầm nước trong bể chứa, và sau đó những giọt nước siêu nhỏ bị lây nhiễm bay lên trong không khí ẩm thấp.

Lúc này Mirsat trân trân nhìn một đường phố ùn tắc với vẻ lo sợ hiện rõ trên mặt. Sinskey nhìn theo ánh mắt của anh ta tới một tòa nhà thấp lát gạch trắng-đỏ có một cánh cửa mở, để lộ ra thứ trông như cầu thang. Một nhóm người ăn mặc chỉnh tề đang đứng dưới những chiếc ô che bên ngoài trong khi một nhân viên gác cửa đang kiểm tra dòng khách khứa theo lối cầu thang đi xuống dưới.

Một sàn nhảy dưới lòng đất thì phải?

Sinskey nhìn dòng chữ vàng khắc trên tòa nhà và cảm thấy ngực đột nhiên thắt lại. Sàn nhảy này được gọi là Bể chứa và được xây dựng vào năm 523 sau công nguyên, cho nên bà nhận ra tại sao Mirsat trông lo lắng như vậy.

“Cung điện chìm”, Mirsat lẩm bẩm. “Dường như… có một buổi hòa nhạc tối nay.”

Sinskey có vẻ hoài nghi. “Hòa nhạc trong một cái bể chứa à?”

“Đó là một không gian trong nhà rất rộng”, anh ta đáp lại. “Nó thường được sử dụng như một trung tâm văn hóa.”

Rõ ràng Brüder cũng đã nghe được đầy đủ. Anh ta lao vội về phía tòa nhà, lách qua dòng xe cộ lộn xộn trên Đại lộ Alemdar. Sinskey và những người khác cũng vội chạy theo, bám sát gót anh chàng đặc vụ.

Khi họ đến lối vào bể chứa, khuôn cửa bị chặn bởi một nhóm người dự hòa nhạc đang đợi đến lượt vào trong - một nhóm ba phụ nữ mặc áo choàng che kín mặt, hai du khách tay nắm tay, một người đàn ông vận lễ phục. Tất cả đều túm tụm bên dưới khung cửa, cố gắng tránh nước mưa.

Sinskey nghe rõ những giai điệu du dương của một tác phẩm âm nhạc cổ điển vang lên từ bên dưới. Berlioz, bà phỏng đoán căn cứ theo cách phối âm rất đặc trưng, nhưng cho dù đó là bản gì thì cũng có cảm giác nó không thích hợp lắm trong khung cảnh những đường phố tại Istanbul này.

Khi họ đến gần cửa hơn, bà cảm nhận được một luồng hơi ấm thổi ngược lên cầu thang, từ tít sâu trong lòng đất và thoát ra từ cái hang kín mít. Luồng hơi mang theo lên mặt đất không chỉ tiếng vĩ cầm, mà cả mùi hơi ấm và mùi đám đông người không lẫn đi đâu được.

Nó còn mang tới cho Sinskey một linh tính vô cùng bất an.

Một nhóm du khách từ dưới cầu thang xuất hiện, vừa đi vừa trò chuyện vui vẻ trong lúc ra khỏi tòa nhà, nhân viên gác cửa liền cho nhóm tiếp theo đi xuống.

Brüder lập tức tiến vào, nhưng nhân viên gác cửa chặn anh ta lại bằng một cái vẫy tay vui vẻ. “Một lát thôi, thưa ông. Bể chứa kín người rồi. Chưa đến một phút nữa là du khách tiếp theo ra thôi. Cảm ơn ông.”

Nhìn Brüder có vẻ sẵn sàng cố chen vào, nhưng Sinskey vẫn đặt một tay lên vai anh ta và kéo sang một bên.

“Đợi đi”, bà ra lệnh. “Nhóm của anh đang trên đường và anh không thể lùng sục ở nơi thế này một mình đâu.” Bà ra hiệu về phía tấm biển trên tường bên cạnh cửa. “Bể chứa rất rộng.”

Tấm biển thông tin nói rõ về một gian phòng dưới lòng đất có kích thước bằng cả một thánh đường - gần chín nghìn ba trăm mét vuông và được chống đỡ bằng cả một khu rừng ba trăm ba mươi sáu cây cột đá cẩm thạch.

“Nhìn xem”, Langdon nói, đứng cách đó vài thước. “Các vị sẽ không tin nổi đâu.”

Sinskey quay lại. Langdon ra hiệu về phía một tấm áp phích hòa nhạc trên tường.

Ôi, lạy Chúa lòng lành.

Giám đốc WHO đã đúng khi xác định phong cách âm nhạc là lãng mạn, nhưng tác phẩm đang được biểu diễn không phải do Berlioz biên soạn. Nó là của một nhà soạn nhạc phong cách lãng mạn khác - Franz Liszt.

Tối nay, sâu trong lòng đất, dàn nhạc Giao hưởng Bang Istanbul biểu diễn một trong những tác phẩm nổi tiếng nhất của Liszt - Giao hưởng Dante - một tác phẩm hoàn toàn lấy cảm hứng từ cuộc du hành xuống địa ngục rồi trở về của Dante.

“Nó được trình diễn ở đây một tuần liền”, Langdon nói trong lúc chăm chú đọc tấm áp phích. “Một buổi hòa nhạc mở cửa tự do. Bên dưới ký tên một nhà tài trợ giấu tên.”

Sinskey nghĩ mình có thể đoán ra ai là nhà tài trợ giấu tên đó. Niềm đam mê kịch của Bertrand Zobrist dường như cũng là một chiến lược rất thiết thực nhưng nhẫn tâm. So với bình thường, tuần biểu diễn hòa nhạc miễn phí này sẽ thu hút thêm hàng nghìn du khách kéo xuống bể chứa và nhét họ vào một khu vực chật cứng, nơi họ sẽ hít thở thứ không khí bị nhiễm bệnh, sau đó quay về nhà mình cả ở đây lẫn ở nước ngoài.

“Thưa ông?”, nhân viên gác cửa gọi Brüder. “Chúng tôi có chỗ cho hai người nữa.”

Brüder quay sang Sinskey. “Gọi cho chính quyền địa phương. Cho dù tìm ra thứ gì dưới đó, chúng ta cũng vẫn cần hỗ trợ. Khi nhóm của tôi đến, bảo họ liên lạc với tôi để cập nhật tình hình. Tôi sẽ xuống dưới và xem xem liệu tôi có thể nhận ra Zobrist ém thứ này ở đâu không.”

“Không dùng mặt nạ phòng độc à?”, Sinskey hỏi. “Anh không biết chắc cái túi Solublon còn nguyên vẹn không.”

Brüder cau mày, tay giơ lên luồng khí ấm nóng phả ra khỏi cửa. “Tôi phải nói điều này, nếu thứ bệnh lây này thoát ra thì tôi đoán có lẽ tất cả mọi người trong thành phố này đều bị nhiễm rồi.”

Sinskey cũng đang nghĩ đến chính điều ấy nhưng không muốn nói ra trước mặt Langdon và Mirsat.

“Thêm nữa”, Brüder nói thêm, “tôi đã nhìn thấy chuyện gì sẽ xảy ra với đám đông khi nhóm của tôi tiến vào cùng với trang phục phòng độc. Chúng ta sẽ gặp cảnh hoảng loạn và giẫm đạp lên nhau”.

Sinskey quyết định chiều theo Brüder vì nói cho cùng, anh ta là một chuyên gia và đã ở trong những tình huống như thế này trước đó rồi.

“Lựa chọn thực tiễn duy nhất của chúng ta”, Brüder nói với bà, “là giả định rằng nó vẫn còn an toàn dưới đó, và cố gắng ngăn chặn việc này”.

“Được rồi”, Sinskey nói. “Làm đi.”

“Còn một vấn đề nữa”, Langdon xen vào. “Sienna thì sao?”

“Cô ta sao chứ?”, Brüder hỏi.

“Cho dù ý định của cô ta ở Istanbul này là gì thì cô ta cũng rất giỏi ngôn ngữ và có thể nói chuyện với một số người Thổ Nhĩ Kỳ.”

“Vậy thì sao?”

“Sienna biết bài thơ nói đến ‘cung điện bị chìm’”, Langdon nói. “Và trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ, ‘cung điện bị chìm’ theo nghĩa đen chính là…” Anh chỉ về phía tấm biển YEREBATAN SAYARI phía trên khung cửa. “… đây.”

“Đúng vậy”, Sinskey mệt mỏi đồng ý. “Cô ta có thể đoán ra nơi này và đã bỏ qua Hagia Sophia.”

Brüder nhìn khuôn cửa hiu quạnh và lầm bầm rất khẽ. “Được thôi, nếu cô ta xuống đó và tìm cách phá vỡ cái túi Solublon trước khi chúng ta kịp bao nó lại thì ít nhất cô ta cũng chưa ở đó được lâu. Đó là một khu vực rất rộng, và có lẽ cô ta chưa biết tìm đến chỗ nào. Và có rất nhiều người ở xung quanh, nên cô ta không thể nhảy ùm xuống nước mà không bị chú ý.”

“Thưa ông?”, nhân viên canh cửa lại gọi Brüder. “Ông có muốn vào bây giờ không?”

Brüder nhìn thấy một nhóm người đi dự hòa nhạc nữa đang từ bên kia phố tiến sang, nên gật đầu với nhân viên canh cửa ra ý rằng anh ta đến ngay.

“Tôi sẽ đi cùng anh”, Langdon nói và đi theo.

Brüder xoay lại và đối diện với anh. “Chẳng để làm gì đâu.”

Giọng Langdon rất cương quyết. “Đặc vụ Brüder, một trong những lý do chúng ta ở trong tình thế này là vì Sienna Brooks đã dắt mũi tôi suốt cả ngày nay. Và như anh nói, có thể tất cả chúng ta đều đã bị nhiễm bệnh rồi. Tôi sẽ giúp anh cho dù anh có thích hay không.”

Brüder nhìn anh một lúc rồi dịu lại.

Khi vượt qua ngưỡng cửa và bắt đầu đi xuống cầu thang khá dốc theo sau Brüder, Langdon cảm thấy luồng hơi ấm thổi qua họ từ rất sâu dưới bể chứa. Luồng khí ẩm thấp mang theo nó những giai điệu bản Giao hưởng Dante của Liszt cũng như một thứ mùi quen thuộc nhưng khó tả - thứ mùi của rất nhiều người chen chúc nhau trong một không gian kín mít.

Langdon bỗng cảm thấy có một tấm màn ma quái vây phủ lấy mình, như thể những ngón tay rất dài của một bàn tay vô hình đang vươn lên từ mặt đất và sờn nắn da thịt anh.

Âm nhạc.

Dàn hợp xướng giao hưởng - với một trăm giọng hát - lúc này đang trình bày một đoạn nổi tiếng, đọc rành rẽ từng âm tiết trong lời văn u sầu của Dante.

“Lasciate ogne speranza”, họ cất tiếng hát vang, “voi ch’entrate”.

Sáu từ này - chính là dòng thơ nổi tiếng nhất trong toàn bộ phần Hỏa ngục của Dante - vang lên từ tít phía dưới cầu thang chẳng khác gì mùi tử khí đáng sợ.

Kèm theo tiếng kèn cùng tù và vút cao, dàn hợp xướng lại ngân nga lời cảnh báo ấy. “Lasciate ogne speranza voi ch’entrate!”

Vứt bỏ mọi hy vọng, những kẻ bước vào đây!

--91--

Ngập trong thứ ánh sáng màu đỏ, cái hang ngầm âm vang những tiếng nhạc đầy hơi hướng địa ngục - những giọng hát rền rĩ, tiếng dây đàn chói tai, và tiếng trống trầm đục, vang vọng khắp hang như một cơn địa chấn nhẹ.

Theo những gì Langdon nhìn thấy trong tầm mắt, thì nền của cái thế giới ngầm này là một màn nước trong vắt - tối tăm, tĩnh tại, phẳng lặng - giống như lớp băng màu đen ở một hồ nước đóng băng tại New England.

Cái đầm không hề phản chiếu ánh sao.

Nhô lên khỏi mặt nước là hàng trăm cột trụ Doric vững chãi được bố trí kỹ càng thành những hàng lối dường như bất tận, vươn cao đến hơn chín mét để đỡ phần trần uốn vòm cung của lòng hang. Các cột trụ được rọi từ bên dưới nhờ hàng loạt bóng đèn rọi sắc đỏ, tạo thành một cánh rừng siêu thực với những thân cây được chiếu sáng chạy hút vào bóng tối, tựa như một dạng ảo ảnh qua gương.

Langdon và Brüder dừng lại ở chân cầu thang, đứng ngây một lúc ở ngưỡng cửa trước khi tiến vào khoảng không gian trước mặt. Dường như chính lòng hang cũng tỏa ra một thứ sắc đỏ, và khi quan sát xung quanh, Langdon nhận thấy mình đang cố gắng hít thở nhẹ nhàng hết sức.

Không khí dưới này nặng nề hơn anh tưởng.

Langdon nhìn thấy đám đông cách đó một quãng bên tay trái họ. Buổi hòa nhạc đang diễn ra tít sâu trong không gian ngầm này, ở quãng giữa khoảng cách tới bức tường bên kia, và khán giả đều ngồi trên những cái bục. Vài trăm khán giả ngồi thành những vòng tròn đồng tâm được bố trí xung quanh dàn nhạc trong khi có khoảng một trăm người khác đang đứng ở vòng ngoài. Vẫn có thêm những người ở các vị trí bên ngoài, trên những lối đi lót ván gần đó, tựa người vào hàng rào chắn vững chãi và chăm chú nhìn xuống nước trong lúc lắng nghe tiếng nhạc.

Langdon đưa mắt nhìn khắp lượt những cái bóng vô định hình, mắt anh cố tìm kiếm Sienna. Không nhìn thấy cô ở đâu cả. Thay vào đó, anh thấy những bóng người mặc áo đuôi tôm, áo choàng dài, bisht của người Ả Rập, áo che mặt của người Hồi giáo, và thậm chí cả những du khách mặc quần cộc và áo lạnh cộc tay. Cảnh tượng nhiều người tụ lại trong thứ ánh sáng màu đỏ đối với Langdon giống như những người tham dự một nghi thức tế lễ huyền bí nào đó.

Nếu Sienna ở dưới này, anh nhận ra như vậy, thì gần như không thể nào phát hiện ra cô ấy.

Đúng lúc đó, một người đàn ông bệ vệ đi qua họ, len lên cầu thang, ho sặc sụa. Brüder quay phắt lại và nhìn theo người đó, chăm chú quan sát anh ta. Langdon cảm thấy hơi nhột nhạt ở trong cổ họng nhưng tự nhủ đó chỉ là do tưởng tượng.

Lúc này Brüder quả quyết bước lên lối đi lót ván, đưa mắt nhìn vô số khả năng lựa chọn của họ. Lối đi trước mặt họ chẳng khác gì lối vào mê cung của quái vật đầu bò Minotaur. Lối đi lót ván duy nhất nhanh chóng chia làm ba ngả, từng ngả lại tiếp tục chia nhánh, tạo thành một mê cung lơ lửng trên mặt nước, luồn lách qua những cột trụ và chạy hút vào trong bóng tối.

Mình đang ở trong một khu rừng tối tăm, Langdon nghĩ thầm, nhớ đến khổ thơ đầu tiên trong kiệt tác của Dante, vì cái lối đi dễ thấy đã mất dấu rồi.

Langdon ngó qua hàng rào chắn của lối đi, nhìn xuống nước. Nước sâu đến hơn một mét và trong đến kỳ lạ. Có thể nhìn rõ nền lát đá, phủ một lớp bùn mịn.

Brüder nhìn nhanh xuống dưới, bật ra tiếng lầm bầm không rõ thái độ cụ thể, và sau đó lại đưa mắt về phía gian phòng. “Anh có nhìn thấy gì giống như khu vực trong đoạn video của Zobrist không?”

Tất cả mọi thứ, Langdon nghĩ, mắt quan sát những bức tường trơn trượt, ẩm ướt xung quanh họ. Anh ra hiệu về góc hang xa nhất, tít bên phải, cách biệt hẳn với khu sân khấu hòa nhạc đông nghịt. “Tôi đoán ở đâu đó phía sau kia.”

Brüder gật đầu. “Trực giác tôi cũng mách bảo như vậy.”

Hai người vội vã bám theo lối đi lót ván, men theo ngả bên phải dẫn họ rời xa đám đông về hướng xa nhất của cung điện chìm.

Trong lúc họ di chuyển, Langdon nhận ra việc ẩn náu qua đêm tại nơi này mà không bị phát hiện thật quá dễ dàng. Zobrist có thể đã làm như vậy để thực hiện đoạn video của mình. Dĩ nhiên, nếu hắn đã hào phóng đứng tên tổ chức chương trìn hòa nhạc dài cả tuần này thì hắn cũng có thể đề nghị được sử dụng một khoảng thời gian riêng tư ngay trong bể chứa.

Chuyện đó không còn thành vấn đề nữa.

Giờ Brüder sải bước nhanh hơn, như thể đang vô thức bắt theo nhịp độ của bản giao hưởng lúc này đã tăng tốc thành cả loạt quãng lửng bán cung thấp dần.

Dante và Virgil đi xuống địa ngục.

Langdon chăm chú nhìn khắp lượt những bức tường rêu trơn trượt phía xa bên phải họ, cố gắng so sánh những gì họ đã thấy trong đoạn video. Đễn mỗi ngã ba mới, họ đều rẽ sang phải, di chuyển rời xa đám đông thêm nữa, tiến về góc xa nhất của cái hang. Langdon ngoái nhìn lại và vô cùng kinh ngạc trước quãng đường mà họ đã đi.

Giờ họ đi rảo chân hơn, vượt qua một vài khách tham quan đang đi vẩn vơ, họ càng tiến vào sâu, số người lại càng thưa dần cho đến khi chẳng còn ai.

Chỉ còn lại Brüder và Langdon.

“Nhìn chỗ nào cũng giống nhau”, Brüder tỏ vẻ thất vọng. “Chúng ta bắt đầu từ đâu đây?”

Langdon cũng chung tâm trạng. Anh còn nhớ rất rành rẽ đoạn video, nhưng dưới này chẳng có gì làm đặc điểm nhận diện cả.

Langdon đọc kỹ những tấm biển thông tin có đèn chiếu sáng được bố trí từng quãng dọc lối đi trong lúc họ di chuyển về phía trước. Một tấm biển ghi rõ không gian này có sức chứa gần tám mươi nghìn mét khối. Một tấm biển khác cho biết có một cây trụ không đồng bộ vì được đoạt về từ một công trình gần đó trong quá trình xây dựng. Và còn một tấm biển khác nữa vẽ một hình chạm cổ giờ đã mờ không còn nhìn rõ nữa - đó là biểu tượng Mắt Gà Nhỏ Lệ - khóc thương cho tất cả những nô lệ đã bỏ mình trong quá trình xây dựng bể chứa này.

Rất lạ là có một tấm biển chỉ vỏn vẹn có một từ duy nhất khiến Langdon dừng sững lại.

Brüder cũng dừng bước, quay trở lại. “Có chuyện gì sao?”

Langdon chỉ tay.

Trên tấm biển, kèm theo một mũi tên chỉ phương hướng, là tên của một yêu nữ đáng sợ - một con quái vật khét tiếng.

MEDUSA ⇒

Brüder đọc tấm biển rồi nhún vai. “Thì sao chứ?”

Tim Langdon đập rộn lên. Anh biết Medusa không chỉ là con quỷ có tóc là những con rắn đáng sợ, với cái nhìn có khả năng biến bất kỳ ai nhìn nó hóa thành đá, mà còn là một nhân vật nổi bật trong hệ thống yêu thần sống trong lòng đất của Hy Lạp - một nhóm đặc biệt thường được biết đến như là những quái vật địa phủ.

Hãy lần sâu vào tòa cung điện bị chìm…

vì ở đây, trong bóng tối, con quái vật chốn địa phủ chờ đợi…

Ả đang chỉ lối, Langdon nhận ra như vậy, và vùng chạy dọc theo lối đi lót ván. Brüder khó khăn lắm mới bắt kịp Langdon trong khi chạy ngoằn ngoèo khuất vào bóng tối, theo đúng những tấm biển mà chỉ dẫn tới chỗ Medusa. Cuối cùng, anh tới một lối cụt chỗ một sàn quan sát nhỏ, gần móng bức tường tận cùng bên phải của bể chứa.

Ở đó, trước mắt anh là một cảnh tượng lạ thường.

Vọt lên khỏi mặt nước là một khối cẩm thạch đồ sộ đã được đục đẽo - chính là đầu Medusa - với mái tóc chính là những con rắn quằn quại. Sự hiện diện của ả ở đây càng kỳ quái hơn nữa vì cái đầu ả được đặt xoay ngược trên cổ.

Đảo ngược như kẻ bị đầy đọa, Langdon nhận ra như vậy, trong đầu lại hình dung ra bức Vực Địa Ngục của Botticelli và những kẻ tội đồ bị xoay ngược đầu mà ông đã đưa vào rãnh quỷ Malebolge.

Brüder hổn hiển đến bên cạnh Langdon chỗ rào chắn, nhìn sững chiếc đầu lộn ngược của Medusa với nét mặt sửng sốt.

Langdon ngờ rằng cái đầu chạm khắc này, hiện có chức năng như chân đế đỡ lấy một chiếc cột, có lẽ được đoạt về từ một nơi nào đó khác và sử dụng ở đây như một hạng mục cung ứng xây dựng không mấy tốn kém. Lý do tư thế đảo ngược của Medusa chắc chắn là do niềm tin có phần mê tín rằng việc xoay ngược như vậy sẽ tước bỏ quyền năng hắc ám của ả. Mặc dù vậy, Langdon vẫn không thể nào xua tan được những ý nghĩ đầy ám ảnh đang dồn dập tấn công anh.

Hỏa ngục của Dante. Đoạn cuối. Trung tâm trái đất. Nơi trọng lực đảo ngược. Nơi lên biến thành xuống.

Lúc này anh thấy nổi gai ốc với lời tiên tri, anh nheo mắt nhìn qua làn hơi nước đỏ ngầu xung quanh cái đầu chạm khắc kia. Phần lớn mái tóc rắn của Medusa ngập chìm trong nước, nhưng đôi mắt của ả thì ở trên mặt nước, ngoảnh sang trái, đăm đăm nhìn qua đầm nước.

Đầy sợ hãi, Langdon nhoài người ra ngoài rào chắn và ngoái đầu, đưa mắt dõi theo ánh mắt của bức tượng về phía góc tường trống trơn khá quen của tòa cung điện chìm.

Trong khoảnh khắc, anh biết rõ.

Đây chính là vị trí cần tìm.

Điểm không bề mặt của Zobrist.
XEM TIEP CHUONG http://truyenhiepsi.blogspot.com

Blog Truyện Hiệp Sĩ

truyenhiepsi

Truyện được sưu tầm chia sẻ trên các web miễn phí...

Tìm Kiếm Truyện

Theo dõi blog!

Nhận bài viết mới qua email. Chỉ cần nhập địa chỉ email của bạn dưới đây nếu bạn muốn đăng ký!