Hỏa Ngục: SỐ 21

http://truyenhiepsi.blogspot.com

Tác giả: Dan Brown


--84--

Đêm đã buông xuống cố đô Byzantine.

Suốt dọc bờ biển Marmara, những ngọn đèn pha nhấp nháy chiếu sáng, soi tỏ đường chân trời với những giáo đường sáng đèn và những ngọn tháp mảnh mai. Lúc này là giờ aksam – giờ hành lễ tối, và những chiếc loa phóng thanh bố trí khắp thành phố đang ngân vang lên tiếng adhãn, lời mời gọi đến cầu nguyện.

La-ilaha-illa-Allah.

Không có thần thánh nào ngoài Đức Thánh.

Trong khi các tín đồ hối hả tới các giáo đường thì bộ phận còn lại của thành phố vẫn tiếp tục mọi việc mà chẳng hề bận tâm: Đám sinh viên đại học tiếp tục uống bia, giới doanh nhân chốt lại những thỏa thuận làm ăn, những nhà buôn rao bán gia vị và thảm, còn khách du lịch thì ngỡ ngàng nhìn ngắm tất cả.

Đây là một thế giới bị chia rẽ, một thành phố của những đối nghịch – tôn giáo và thế tục, cổ xưa và hiện đại, phương Đông và phương Tây. Với biên giới địa lý trải ra giữa châu Âu và châu Á, thành phố không chịu ảnh hưởng của thời gian này đúng là cây cầu từ Cựu Thế giới, nổi sang một thế giới thậm chí còn xưa cũ hơn nữa.

Istanbul.

Mặc dù không còn là thủ đô của Thổ Nhĩ Kỳ, nhưng trong nhiều thế kỷ, nơi đây là tâm điểm của ba đế chế tách biệt – Byzantine, La Mã và Ottoman. Vì lý do này, Istanbul vẫn được xem là một trong những địa điểm có lịch sử phong phú nhất trên trái đất. Từ cung điện Topkapi cho đến Giáo đường Xanh hay lâu đài Bảy ngọn tháp, thành phố này có vô số câu chuyện dân gian về các trận đánh, niềm vinh quang và cả thất bại.

Tối nay, tít cao trên bầu trời đêm phía trên những đám đông náo nhiệt của thành phố, một chiếc máy bay vận tải C-130 đang hạ thấp dần qua một vùng biên bão đang hình thành, tiếp cận sân bay Atatürk. Trong khoang lái, Robert Langdon ngồi chắc chắn trong chiếc ghế phụ lật phía sau phi công, nhìn qua kính chắn gió, cảm thấy nhẹ nhõm vì anh được dành một ghế ngồi có thể nhìn ra ngoài.

Sau khi được ăn một chút và ngủ gà gật ở phía cuối máy bay trong gần một tiếng nghỉ ngơi quý giá, Langdon đã phần nào tỉnh táo trở lại.

Lúc này, ở phía bên phải, Langdon nhìn rõ những ánh đèn của Istanbul, một bán đảo lấp lánh ánh sáng hình chiếc sừng nhô ra vùng đen thẫm của biển Marmara. Đây là phần phía châu Âu, tách biệt với phần châu Á bằng một dải tối chạy ngoằn nghoèo.

Thủy lộ Bosporus.

Mới nhìn qua, Bosporus có vẻ chỉ là một dòng nước rộng chia tách Istanbul làm đôi. Nhưng thực tế, Langdon biết con kênh này chính là huyết mạch thương mại của Istanbul. Bên cạnh việc cung cấp cho thành phố hai đường bờ biển thay vì chỉ có một, kênh Bosporus còn giúp tàu bè đi từ Địa Trung Hải vào Hắc Hải, cho phép Istanbul trở thành một trạm dừng giữa hai thế giới.

Khi máy bay hạ thấp qua một lớp sương mờ, Langdon dõi mắt nhìn về thành phố phía xa, cố xác định vị trí tòa nhà đồ sộ mà họ đang tìm kiếm.

Vị trí phần mộ của Enrico Dandolo.

Hóa ra Enrico Dandolo – vị tổng trấn bội bạc của Venice – lại không được an táng ở Venice, thay vào đó, hài cốt của ông ta được chôn ngay chính giữa pháo đài mà ông ta chinh phục được năm 1202 – thành phố trải dài bên dưới họ. Rất thích hợp là Dandolo lại yên nghỉ trong ngôi đền kỳ vĩ nhất ở thành phố này – một công trình cho đến ngày hôm nay vẫn là báu vật của cả vùng.

Hagia Sophia.

Được xây dựng vào năm 360 sau Công nguyên, Hagia Sophia từng là một thánh đường Chính thống giáo phương Đông cho tới tận năm 1204. Khi Enrico Dandolo chiếm được thành phố và biến nó thành một nhà thờ Thiên Chúa giáo vào cuộc Thập tự chinh lần thứ tư. Sau đó, vào thế kỷ XV, sau khi Fatih Sultan Mehmed chiếm được Constantinople, nó trở thành một giáo đường Hồi giáo, và vẫn là nơi thờ nguyện của đạo Hồi cho tới năm 1935, khi tòa nhà được thế tục hóa và trở thành một bảo tàng.

Tòa bảo quán mạ vàng của tri thức thánh thiêng, Langdon thầm nghĩ.

Hagia Sophia không chỉ được trang hoàng bằng số gạch lát vàng nhiều hơn cả thánh đường St. Mark mà tên gọi của nó – Hagia Sophia – theo đúng nghĩa đen cũng là “Tri thức thánh thiêng”.

Langdon hình dung ra tòa nhà đồ sộ, cố gắng nghĩ về thực tế rằng đâu đó bên dưới nó, có cái đầm tối tăm chứa một chiếc túi đang dập dờn trong nước, từ từ tan dần và chuẩn bị giải phóng những gì đựng bên trong.

Langdon cầu mong họ không đến quá muộn.

“Những tầng dưới của tòa nhà đã bị ngập”, Sinskey đã nói trước đó trong lúc bay, phấn chấn ra hiệu cho Langdon theo bà trở lại khu vực làm việc. “Anh sẽ không thể tin nổi những gì chúng tôi phát hiện ra đâu. Anh đã bao giờ nghe nói về một đạo diễn phim tài liệu tên là Goksel Gülensoy chưa?”

Langdon lắc đầu.

“Trong lúc nghiên cứu về Hagia Sophia”, Sinskey giải thích, “tôi phát hiện ra rằng đã có một bộ phim được làm về địa điểm này. Một phim tài liệu do Gülensoy thực hiện vài năm trước”.

“Có hàng chục bộ phim đã được làm về Hagia Sophia.”

“Đúng”, bà nói lúc đến khu vực làm việc của mình, “nhưng không có bộ phim nào như thế này”. Bà xoay máy tính của mình để anh có thể nhìn rõ. “Hãy đọc nội dung này đi.”

Langdon ngồi xuống và xem bài viết – một bài tổng hợp từ vài nguồn tin thời sự khác nhau, trong đó có tờ Hürriyet Daily News, nói về bộ phim mới nhất của Gülensoy: Dưới những tầng sâu của Hagia Sophia.

Lúc bắt đầu đọc, Langdon lập tức nhận ra tại sao Sinskey lại phấn khích đến vậy. Chỉ mấy từ đầu tiên đã làm cho Langdon phải ngước lên nhìn bà đầy ngạc nhiên. Lặn bằng bình khí?

“Tôi biết”, bà ấy nói. “Cứ đọc đi.”

“LẶN BẰNG BÌNH KHÍ BÊN DƯỚI HAGIA SOPHIA: Nhà làm phim tài liệu Goksel Gülensoy và đội thám hiểm lặn bình khí của ông đã xác định được vị trí những bồn trũng ngập nước nằm sâu hàng trăm sải bên dưới công trình tôn giáo thu hút nhiều du khách của Istanbul.

Trong quá trình ấy, họ đã phát hiện ra nhiều kỳ quan kiến trúc, trong đó có những mộ phần chìm dưới nước có tuổi đời đã tám trăm năm của các trẻ em tử đạo, cũng như những đường hầm chìm nổi Hagia Sophia với Cung điện Topkapi, Cung điện Tekfur, và những không gian mở rộng dưới lòng đất của nhà ngục Anemas người ta vẫn đồn đại bấy lâu nay.

“Tôi tin những gì bên dưới Hagia Sophia còn thú vị hơn cả những gì nổi trên bề mặt”, Gülensoy giải thích, mô tả rõ anh lấy cảm hứng để làm bộ phim sau khi nhìn thấy một bức ảnh cũ chụp các nhà nghiên cứu đang khảo sát phần móng của Hagia Sophia bằng thuyền, bơi qua một đại sảnh bị ngập một phần dưới nước”.

“Rõ ràng anh đã tìm đúng tòa nhà rồi!”, Sinskey kêu lên. “Và có vẻ như những không gian lớn bơi thuyền được ở bên dưới tòa nhà đó, nhiều chỗ có thể tiếp cận được mà không cần thiết bị lặn bình… Điều đó có thể giải thích cho những gì chúng ta thấy trong đoạn video của Zobrist”.

Đặc vụ Brüder đứng phía sau họ, nghiên cứu màn hình máy tính, “Cũng có vẻ như bên dưới tòa nhà có những thủy lộ tỏa ra ngoài tới mọi khu vực khác. Nếu túi Solublon đó bị tan trước khi chúng ta đến thì sẽ không có cách gì ngăn được những thứ chứa bên trong loang rộng ra.”

“Thứ bên trong…”, Langdon đánh bạo, “Các vị có ý kiến gì về nó không? Ý tôi là đích xác ấy? Tôi biết chúng ta đang phải giải quyết một thứ bệnh dịch, nhưng…”

“Chúng tôi đang phân tích đoạn phim”, Brüder nói, “gợi ý rằng thực tế thứ đó là sinh học chứ không phải hóa học… nói thế tức là một thứ gì đó sống. nếu xét số lượng ít ỏi trong cái túi thì chúng tôi cho rằng nó có khả năng lây nhiễm rất cao và có khả năng sinh sôi nảy nở. Chúng tôi chưa dám chắc đó là một loại dịch bệnh dựa vào nước giống như một loại vi khuẩn, hay nó có khả năng lan truyền trong không khí như một loại vi rút khi được giải phóng, nhưng khả năng nào cũng có thể xảy ra”.

Sinskey nói, “Giờ chúng ta đang thu thập dữ liệu về nhiệt độ nước ngầm trong khu vực, cố gắng đánh giá xem những loại chất truyền nhiễm nào có thể phát triển mạnh trong các khu vực dưới lòng đất đó, nhưng Zobrist là người vô cùng tài năng và có thể dễ dàng tạo ra thứ gì đó có những khả năng độc nhất vô nhị. Và tôi dám chắc rằng Zobrist chọn địa điểm này là có lý do”.

Brüder gật đầu rồi nhanh nhẹn trình bày tiếp đánh giá của anh ta về cơ chế phát tán khác thường của cái túi Solublon chìm dưới nước. Và tất cả bọn họ chỉ mới bắt đầu nhận ra sự tài tình đơn giản của nó mà thôi. Bằng cách để cho cái túi ở dưới nước và ngầm trong lòng đất, Zobrist đã tạo ra một môi trường ủ bệnh cực kỳ ổn định: Nơi có nhiệt độ nước không đổi, không có bức xạ mặt trời, có lớp đệm động lực học, và hoàn toàn kín đáo. Bằng cách chọn một cái túi có độ bền đúng mức, Zobrist có thể để mặc thứ bệnh dịch ấy sinh trưởng trong một khoảng thời gian nhất định mà không cần trông coi trước khi nó tự giải thoát đúng hạn định.

Kể cả khi Zobrist không bao giờ quay trở lại nơi đó nữa.

Cú xóc bất ngờ khi máy bay tiếp đất làm Langdon chúi trở lại ghế phụ của mình trong khoang lái. Phi công đạp mạnh phanh và sau đó cho máy bay dừng hẳn lại một nhà chứa khá cách biệt.

Langdon hy vọng sẽ được đón chào bởi cả một đội quân nhân viên WHO trong trang phục phòng dịch. Nhưng lạ thay, người duy nhất đợi họ đến lại là tài xế một chiếc xe thùng màu trắng lớn, mang biểu trưng là một chữ thập cân đối màu đỏ tươi.

Chữ thập đỏ ở đây sao? Langdon nhìn lại, nhận ra còn một chủ thể nữa cũng sử dụng chữ thập đỏ. Đại sứ quán Thụy Sĩ.

Anh tháo khóa ghế ngồi và tìm kiếm Sinskey khi mọi người chuẩn bị rời máy bay. “Mọi người đâu cả rồi?”, Langdon hỏi, “Nhóm WHO ấy? Rồi cả cơ quan chức năng Thổ Nhĩ Kỳ nữa? Không nhẽ tất cả đều đã đến Hagia Sophia rồi sao?”.

Sinskey nhìn anh lo lắng. “Thực ra”, bà giải thích, “chúng tôi quyết định không đánh động giới chức địa phương. Chúng ta đã có nhóm SRS cừ nhất của Trung tâm Ngăn ngừa và Kiểm soát dịch bệnh châu Âu đi cùng rồi, và có vẻ giữ kín nhiệm vụ này một thời gian thì tốt hơn là tạo ra một cơn hoảng loạn có khả năng lan rộng”.

Gần đó, Langdon nhìn thấy Brüder cùng nhóm của anh ta đang kéo khóa những chiếc túi đen có chứa đầy đủ các dụng cụ đối phó với độc chất – quần áo chống khuẩn, mặt nạ phòng độc, và cả thiết bị dò tìm điện tử.

Brüder xốc túi của mình lên vai và bước lại. “Chúng tôi sẽ thử. Chúng tôi sẽ vào trong tòa nhà, tìm mộ của Dandolo, nghe tiếng nước như bài thơ gợi ý, sau đó sẽ đánh giá lại và quyết định xem liệu có nên gọi những đơn vị chức năng khác đến hỗ trợ không.”

Langdon nhìn ra kế hoạch có vấn đề. “Hagia Sophia sẽ đóng cửa vào buổi chiều, cho nên nếu không có giới chức địa phương, chúng ta không thể vào trong được.”

“Không sao đâu”, Sinskey nói. “Tôi có một đầu mối liên lạc trong sứ quán Thụy Sĩ. Người đó đã liên lạc với người phụ trách Bảo tàng Hagia Sophia và đề nghị một cuộc tham quan riêng hạng VIP ngay khi chúng ta đến nơi. Người phụ trách đã đồng ý rồi.”

Langdon gần như cười phá lên. “Một chuyến tham quan hạng VIP cho giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới sao? Và cả một đội quân mang theo đồ nghề ứng phó với độc chất nữa à? Các vị không nghĩ điều đó có thể khiến một vài người thắc mắc sao?”

“Đội SRS và đồ nghề sẽ ở nguyên trong xe trong khi Brüder, anh và tôi đánh giá tình hình”, Sinskey nói. “Thêm nữa, để cho thật chính xác, tôi không phải là VIP. Chính anh đấy.”

“Bà nói sao cơ?”

“Chúng tôi đã nói với bảo tàng rằng có một vị giáo sư Mỹ nổi tiếng bay tới cùng một nhóm nghiên cứu để viết bài về những biểu tượng của Hagia Sophia, nhưng máy bay của họ bị trễ năm tiếng và anh ta lỡ mất giờ tới tham quan tòa nhà. Vì anh ta cùng nhóm của mình sẽ đi ngay vào sáng mai nên chúng tôi hy vọng…”

“Được rồi”, Langdon nói. “Tôi hiểu ý rồi.”

“Bảo tàng đang cử một nhân viên tới đó để gặp riêng chúng ta. Quả nhiên, anh ta là người rất hâm mộ những bài viết của anh về nghệ thuật Hồi giáo”. Sinskey mỉm cười mỏi mệt với anh, rõ ràng đang cố tỏ ra lạc quan. “Chúng ta được đảm bảo rằng anh có thể tiếp cận tất cả ngóc ngách của tòa nhà.”

“Và quan trọng hơn”, Brüder nói, “sẽ chỉ có chúng ta làm chủ toàn bộ không gian đó”.


--85--

Robert Langdon trân trân nhìn ra ngoài cửa sổ chiếc xe thùng khi nó lao vùn vụt dọc theo xa lộ kề bên bờ nước nối sân bay Atatürk với trung tâm của Istanbul. Các quan chức Thụy Sĩ bằng cách nào đó đã giúp cho thủ tục hải quan dễ dàng, và Langdon, Sinskey cùng những thàng viên khác trong nhóm đã lên đường chỉ trong vài phút.

Sinskey ra lệnh cho Thị Trưởng và Ferris ở lại trên chiếc C-130 cùng với vài nhân viên WHO và tiếp tục truy tìm dấu vết của Sienna Brooks.

Mặc dù không tin Sienna có thể đến Istanbul kịp thời gian nhưng mọi người vẫn có tâm lý e ngại rằng trước khi nhóm Sinskey có thể can thiệp, cô đã kịp gọi điện cho một trong những đệ tử của Zobrist ở Thổ Nhĩ Kỳ và đề nghị trợ giúp thực hiện kế hoạch đầy hoang tưởng của Zobrist.

Liệu có thật sự Sienna dính vào việc giết người hàng loạt không? Langdon vẫn không sao chấp nhận được tất cả những gì đang diễn ra ngày hôm nay. Anh cảm thấy đau đớn khi phải nghĩ về cô như vậy, nhưng anh buộc phải chấp nhận sự thật. Mày chưa bao giờ hiểu cô ta, Robert ạ. Cô ta dắt mũi mày.

Một cơn mưa nhẹ bắt đầu trút xuống thành phố, và Langdon bỗng cảm thấy mệt mỏi khi nghe thấy tiếng rít lặp đi lặp lại của những cần gạt nước trên kính chắn gió. Bên phải anh, trên biển Marmara ngoài kia, anh có thể nhìn thấy ánh đèn quét qua của những du thuyền sang trọng và những tàu chở dầu đồ sộ ra vào hải cảng phía trước mặt. Dọc bờ cảng là những tòa tháp mảnh mai và trang nhã vươn cao phía trên các giáo đường có mái vòm, như âm thầm nhắc người ta nhớ rằng mặc dù Istanbul là một thành phố thế tục hiện đại, nhưng cốt lõi của nó vẫn dựa vào tôn giáo.

Langdon luôn thấy đoạn cao tốc dài mười dặm này là một trong những đoạn đường đẹp nhất ở châu Âu. Là một ví dụ hoàn hảo cho sự va chạm giữa cái cũ và cái mới của Istanbul, cung đường này bám theo một phần bức tường của Constantine, được xây dựng trước cả khi nhân vật được lấy tên cho đại lộ này – John F.Kennedy – cất tiếng khóc chào đời hơn mười sáu thế kỷ. Vị Tổng thống Hoa Kỳ rất ngưỡng mộ tầm nhìn của Kemal Atatürk [54], người đưa nước cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ vươn lên từ đống tro tàn của một đế chế đã sụp đổ.

Với những góc nhìn ra biển không đâu sánh bằng, Đại lộ Kennedy uốn mình qua những trảng cây tuyệt đẹp cùng các công viên lịch sử, chạy qua bến cảng ở Yenikapi, và cuối cùng len lỏi giữa ranh giới của thành phố với vịnh Bosporus, nơi nó tiếp tục chạy lên phía bắc tới tận mũi Vàng [55]. Ở đó, sừng sững phía trên thành phố là pháo đài của đế chế Ottoman, Cung điện Topkapi. Với tầm nhìn chiến lược cho toàn bộ thủy lộ của Bosporus, cung điện này là một trong những nơi được du khách rất ưa chuộng. Họ tới đây để chiêm ngưỡng cả khung cảnh lẫn bộ sưu tập báu vật Ottoman có một không hai, trong đó có cả áo choàng và thanh gươm được đồn là những vật thuộc về nhà tiên tri Muhammad.

Chúng ta sẽ không đi xa đến thế, Langdon biết như vậy, trong đầu hình dung ra điểm đến của họ ở phía trước, Hagia Sophia, cách trung tâm thành phố không xa lắm.

Khi họ rời khỏi Đại lộ Kennedy và bắt đầu len lỏi vào thành phố dân cư đông đúc, Langdon nhìn những đường phố và vỉa hè tấp nập người, cảm thấy bị ám ảnh bởi những cuộc trò chuyện trong ngày.

Quá tải dân số.

Dịch bệnh.

Những nguyện vọng lệch lạc của Zobrist.

Mặc dù hiểu rõ địa điểm nhóm SRS này đang hướng tới, nhưng cho tới lúc này Langdon mới đánh giá được đầy đủ về nó. Chúng ta đang tiến tới tâm chấn. Anh hình dung ra cái túi đang từ từ tan dần, bên trong chứa chất dịch màu vàng nâu, và tự hỏi làm cách nào anh lại rơi vào tình cảnh này.

Bài thơ lạ lùng mà Langdon và Sienna phát hiện ở mặt sau chiếc mặt nạ người chết của Dante cuối cùng chỉ dẫn anh tới đây, Istanbul. Langdon đã hướng dẫn nhóm SRS tới Hagia Sophia, và biết sẽ có nhiều việc cần làm khi tới đó.

“Hãy quỳ gối bên trong bảo quán mạ vàng của tri thức thánh thiêng,

và áp tai xuống đất,

lắng nghe tiếng nước nhỏ giọt,

Hãy lần sâu vào tòa cung điện bị chìm…

vì ở đây, trong bóng tối, con quái vật chốn địa phủ chờ đợi,

lặn ngụp trong thứ nước đỏ như máu…

của cái đầm không hề phản chiếu ánh sao.”

Langdon lại cảm thấy run bắn khi biết rằng khổ cuối Hỏa ngục của Dante kết thúc bằng một cảnh tượng gần như giống hệt: Sau một hành trình dài đi xuyên qua địa phủ, Dante và Virgil đến điểm thấp nhất của địa ngục. Ở đây không có lối ra, họ nghe thấy tiếng nước chảy nhỏ giọt qua những khối đá dưới chân. Họ đi theo khe nước qua các kẽ nứt và khe hở để rồi tìm được chỗ an toàn.

Dante viết: “Một nơi dưới đó… nơi không thể nhận biết bằng mắt, mà qua tiếng khe nước, chảy xuôi theo chỗ trũng của tảng đá… và theo con đường ẩn kín đó, người dẫn đường của ta và ta bước vào, để trở lại thế giới dương gian”.

Cảnh tượng của Dante rõ ràng chính là cảm hứng cho bài thơ của Zobrist, mặc dù trong trường hợp này, dường như Zobrist đã đảo ngược mọi thứ. Thực tế, Langdon và những người khác đang theo tiếng nước nhỏ giọt, nhưng khác với Dante, họ không rời khỏi hỏa ngục… mà đi thẳng vào trong đó.

Khi chiếc xe thùng chạy qua những đường phố hẹp hơn và đông đúc hơn, Langdon bắt đầu hiểu ra cái logic khác thường khiến Zobrist lựa chọn trung tâm Istanbul là tâm chấn của một đại dịch.

Đông gặp Tây.

Giao lộ của thế giới.

Trong rất nhiều thời điểm của lịch sử, Istanbul từng bị những đại dịch giết người hoành hành, cướp đi số lượng lớn dân cư. Thực tế, trong giai đoạn cuối cùng của Cái chết Đen, thành phố được gọi là “tâm dịch” của cả đế chế và người ta nói đại dịch này đã giết hơn một vạn dân cư một ngày. Đã có một vài bức vẽ Ottoman nổi tiếng mô tả người dân thành phố tuyệt vọng đào những hố dịch hạch để chôn hàng núi xác chết tại các cánh đồng ở Taksim gần đó.

Langdon hy vọng Karl Marx đã sai khi nói, “Lịch sử luôn lặp lại”.

Dọc những con phố mưa rơi, các sinh linh vô tư lự vẫn đang bận rộn với công việc buổi tối của mình. Một phụ nữ Thổ Nhĩ Kỳ xinh đẹp gọi con cái về ăn tối, hai ông già cùng nhâm nhi tại một quán cà phê ngoài trời, một cặp đôi ăn mặc chỉnh tề tay trong tay đi dạo dưới ô, và một người đàn ông mặc áo lễ phục nhảy xuống từ xe buýt và chạy dọc phố, cố giấu hộp đàn vĩ cầm của mình bên dưới áo khoác, rõ ràng vì đến muộn một buổi hòa nhạc.

Langdon xem xét những gương mặt quanh mình, cố gắng hình dung ra những điều phức tạp trong cuộc đời mỗi người.

Đám đông được hình thành từ những cá nhân.

Anh nhắm mắt lại, ngoảnh mặt khỏi cửa sổ và cố gắng gạt bỏ chiều hướng u ám trong suy nghĩ. Nhưng vết thương đã hằn sâu. Trong khoảng tối tâm trí của anh, một hình ảnh không mong muốn hiện rõ – cảnh tượng hoang tàn trong bức tranh Chiến thắng của Tử thần của Bruegel – một bức đại cảnh gớm ghiếc về dịch hạch, nỗi thống khổ và đau đớn tàn phá một thành phố ven biển.

Chiếc xe thùng ngoặt sang phải vào Đại lộ Torun, và trong khoảnh khắc Langdon nghĩ họ đã đến đích. Bên trái anh, một giáo đường sừng sững xuất hiện trong màn sương.

Nhưng đó không phải là Hagia Sophia.

Giáo đường Xanh, anh nhanh chóng nhận ra nó khi nhìn thấy sáu tòa tháp hình bút chì của đền thờ với nhiều tầng ban công vươn lên bầu trời với chỏm tháp nhọn hoắt. Langdon đã từng đọc được rằng vẻ đẹp như trong chuyện thần tiên của các tòa tháp có ban công ở Giáo đường Xanh đã truyền cảm hứng cho việc thiết kế tòa lâu đài của nàng Cinderella trong công viên Thế giới Disney. Giáo đường Xanh có tên gọi như vậy là do những bức tường bên trong đều được ốp gạch màu xanh dương, chẳng khác gì một vùng biển đẹp đến sững sờ.

Chúng ta đến gần lắm rồi, Langdon nghĩ khi chiếc xe thùng lao vùn vụt về phía trước, ngoặt sang Đại lộ Kabasakal và chạy dọc theo quảng trường Công viên Sultanahmet rộng rãi nằm giữa Giáo đường Xanh và Hagia Sophia, vốn nổi tiếng vì có thể quan sát được hai kỳ quan ấy.

Langdon nheo mắt nhìn qua lớp kính chắn gió ướt mưa, cố tìm kiếm hình dáng Hagia Sophia ở đường chân trời, nhưng mưa và ánh đèn pha làm cho thị lực trở nên khó khăn. Tệ hơn nữa, xe cộ dọc đại lộ dường như đang dừng lại.

Phía trước, Langdon chẳng nhìn thấy gì ngoài một hàng đèn hậu đỏ lòe.

“Có sự kiện gì đó rồi”, người lái xe thông báo. “Tôi nghĩ là một buổi hòa nhạc. Có lẽ đi bộ nhanh hơn.”

“Bao xa?”, Sinskey hỏi.

“Chỉ cần qua công viên này thôi. Ba phút. Rất an toàn.”

Sinskey gật đầu với Brüder và sau đó quay sang đội SRS. “Cứ ở trong xe. Tới càng gần tòa nhà càng tốt. Đặc vụ Brüder sẽ liên lạc lại ngay.”

Nói xong, Sinskey, Brüder và Langdon nhảy ra khỏi chiếc xe thùng xuống phố và tiến thẳng qua công viên.

Những hàng cây lá rộng trong Công viên Sultanahmet che chắn cả nhóm khỏi thời tiết đang càng lúc càng xấu đi khi họ hối hả bước dọc những lối đi dưới vòm lá của công viên. Các lối đi thỉnh thoảng lại có biển chỉ dẫn cho du khách tới nhiều điểm tham quan trong công viên – cột tháp Ai Cập lấy từ quần thể Đền Luxor, cột đồng Rắn biển [56] lấy từ Đền Apollo ở Delphi, và cột mốc Milion từng được xem như “điểm số 0” để đo mọi khoảng cách ở đế quốc Byzantine.

Cuối cùng, họ ra khỏi những tán cây ngay chân một bể nước hình tròn ở trung tâm công viên. Langdon bước ra chỗ trống và ngước mắt nhìn về phía đông.

Hagia Sophia.

Không giống một tòa nhà mà giống như một trái núi.

Vẫn lấp lánh trong màn mưa, hình dáng đồ sộ của Hagia Sophia chẳng khác gì cả một thành phố. Mái vòm trung tâm của tòa nhà lớn đến khó tin và được chống đỡ bằng khung màu xám bạc, như dựa trên cả khối kết hợp gồm những tòa nhà có mái vòm khác được chồng lên xung quanh nó. Bốn ngọn tháp cao vút – mỗi tháp đều chỉ có một ban công duy nhất và phần chóp nhọn màu xám bạc – vươn lên ở bốn góc tòa nhà, cách xa hẳn mái vòm trung tâm khiến cho người ta khó xác định được chúng chính là điểm hợp phần của một tòa nhà duy nhất.

Cả Sinskey và Brüder, cho đến lúc này vẫn chăm chú bước đều, bỗng cùng vượt lên, ngước mắt nhìn lên trên… lên trên nữa… như thể tâm trí của họ cố gắng thu hết toàn bộ chiều cao và bề rộng của công trình sừng sững trước mắt họ

“Lạy Chúa lòng lành”, Brüder khẽ thốt lên như không tin nổi. “Chúng ta sẽ phải tìm kiếm… chỗ đó sao?”


--86--

Mình đang bị tạm giữ, Thị Trưởng cảm thấy như vậy khi ông ta bước tới bước lui trong khoang chiếc máy bay vận tải C-130. Ông ta đồng ý với Istanbul sẽ giúp Sinskey ngăn chặn cuộc khủng hoảng này trước khi nó hoàn toàn vượt khỏi tầm kiểm soát.

Thị Trưởng biết rõ rằng hợp tác với Sinskey có thể giúp giảm mức độ hình phạt mà ông ta có thể phải chịu vì khinh suất dính líu vào cuộc khủng hoảng này. Nhưng giờ Sinskey lại bắt giữ mình rồi.

Ngay khi chiếc máy bay đậu lại bên trong nhà chứa của chính quyền tại sân bay Atatürk, Sinskey và nhóm của bà đã rời khỏi máy bay, và vị giám đốc WHO ra lệnh cho Thị Trưởng cùng một vài nhân viên trong đội ngũ Consortium của ông ta phải ở nguyên trên máy bay.

Thị Trưởng đã tìm cách ra ngoài hít thở một chút không khí nhưng bị mấy tay phi công mặt lạnh như tiền chặn lại. Họ nhắc ông ta nhớ rằng tiến sĩ Sinskey đã yêu cầu tất cả mọi người phải ở nguyên trong khoang máy bay.

Không xong rồi, Thị Trưởng nghĩ thầm, kiếm một chỗ ngồi trong khi thực sự bắt đầu cảm thấy không an tâm về tương lai của mình.

Thị Trưởng từ lâu đã quen làm người điều khiển, là thế lực tối thượng kiểm soát những sợi dây, nhưng đột nhiên tất cả quyền năng này của ông ta bị tước hết.

Zobrist, Sienna, Sinskey.

Tất cả bọn họ đều coi thường và thao túng chính ông ta.

Lúc này, bị kẹt cứng trong khoang chiếc máy bay vận tải xa lạ không có lấy một ô cửa sổ của WHO, ông ta bắt đầu tự hỏi phải chăng vận may của mình đã chấm hết, nếu như tình thế hiện tại có thể chính là một hình thức trừng phạt tiền oan nghiệt báo đối với cả một đời không lấy gì làm lương thiện của ông ta.

Ta dối lừa để kiếm sống.

Ta là người cung cấp những thông tin sai lệch.

Mặc dù không phải là người duy nhất bán những lời dối trá trên cõi đời này, nhưng Thị Trưởng đã thành danh như là con cá to nhất ao. Những con cá nhỏ hơn là một giống khác hẳn, và Thị Trưởng không thích liên quan gì đến bọn họ.

Cũng hiện diện trên mạng Internet, những công ty với tên gọi kiểu như Công ty Alibi và mạng Alibi kiếm tiền trên khắp thế giới bằng việc giới thiệu những đối tác hôn nhân bội bạc chuyên lừa dối và không để bị phát hiện. Hứa rằng sẽ “cho thời gian ngừng lại” trong khoảnh khắc để khách hàng của họ có thể thoát khỏi chồng, vợ, hoặc con cái, các tổ chức này là bậc thầy trong việc tạo ra những chuyện lừa gạt - thỏa thuận làm ăn giả dối, cuộc hẹn gặp bác sĩ giả dối, thậm chí cả đám cưới giả dối - tất cả mọi hình thức, kể cả những lời mời qua điện thoại, tờ rơi, vé máy bay, mẫu xác nhận của khách sạn, và thậm chí cả số liên lạc đặc biệt nối với tổng đài của Công ty Alibi, nơi các chuyên gia được đào tạo sẽ đóng giả làm bất kỳ nhân viên lễ tân hay đầu mối liên lạc gì mà màn lừa gạt cần có.

Tuy nhiên, Thị Trưởng không bao giờ phí phạm thời gian của mình với những mánh lới như thế. Ông ta chỉ thực hiện những cú lừa dối quy mô lớn, làm việc với những người có khả năng chi hàng triệu đô la để nhận được dịch vụ tốt nhất.

Các chính phủ.

Các tập đoàn lớn.

Những nhân vật VIP cự phú.

Để đạt được mục tiêu, những khách hàng này sẽ có thể tùy ý sử dụng tài sản, nhân sự, kinh nghiệm và khả năng sáng tạo của Consortium. Mặc dù vậy, trên hết, họ nhận được quyền phủ nhận - lời cam kết rằng bất kỳ màn lừa gạt nào được dựng lên để hậu thuẫn cho sự dối trá của họ đều không bao giờ liên can gì tới họ.

Cho dù là chống lưng cho một thị trường chứng khoán, hậu thuẫn một cuộc chiến, giành thắng lợi trong một cuộc bầu cử, hay nhử một kẻ khủng bố ra khỏi chỗ ẩn náu, thì các tay trùm môi giới của thế giới đều phải dựa vào những âm mưu lừa lọc nhằm định hình nhận thức của công chúng.

Luôn luôn theo cách thức như vậy.

Vào những năm 1960, người Nga xây dựng một mạng lưới gián điệp hoàn toàn giả mạo chuyên dùng hộp thư chết khiến người Anh phải tìm cách đề phòng suốt nhiều năm. Năm 1947, Không lực Hoa Kỳ tạo ra một màn đánh lừa về vật thể bay không xác định rất tinh vi nhằm đánh lạc hướng sự chú ý khỏi vụ rơi máy bay ở Roswell, bang New Mexico. Và gần đây hơn, thế giới bị “dắt mũi” để tin rằng Iraq có những vũ khí hủy diệt hàng loạt.

Trong suốt gần ba thập kỷ, Thị Trưởng đã giúp nhân vật quyền thế bảo vệ, duy trì và tăng quyền lực cho họ. Mặc dù đặc biệt cẩn trọng với các nhiệm vụ mà mình tiếp nhận, nhưng Thị Trưởng vẫn luôn sợ rằng sẽ có ngày ông ta đảm nhận một nhiệm vụ sai lầm.

Và giờ cái ngày đó đã đến.

Thị Trưởng tin rằng, mọi thiên hùng ca sụp đổ đều có thể truy vết ngược trở lại một thời điểm duy nhất - một cuộc gặp tình cờ, một quyết định không đúng, một ánh mắt khinh suất.

Trong trường hợp này, ông ta nhận ra rằng, cái khoảnh khắc đó gần như đã đến từ chục năm về trước, khi ông ta đồng ý thuê một sinh viên y khoa trẻ tuổi đang muốn kiếm thêm một chút tiền. Trí thông minh sắc sảo, khả năng ngôn ngữ đáng kinh ngạc, và tài năng ứng biến của cô gái này đã khiến cô ngay lập tức trở thành nhân vật nổi bật tại Consortium.

Sienna Brooks là một tài năng bẩm sinh.

Sienna ngay lập tức hiểu hoạt động của Thị Trưởng, và ông ta cảm thấy cô gái trẻ này không lạ lẫm với việc giữ bí mật. Sienna làm việc cho ông ta suốt gần hai năm, kiếm được một khoản lương rất khá giúp cô trang trải được chi phí học ngành y của mình, và sau đó, hoàn toàn không báo trước, cô tuyên bố đã xong xuôi. Cô muốn cứu thế giới, và như đã nói với Thị Trưởng, cô không thể làm việc đó tại Consortium.

Thị Trưởng không bao giờ nghĩ Sienna Brooks lại xuất hiện trở lại gần một thập kỷ sau đó, mang theo mình một món quà tuyệt vời - một vị khách hàng giàu có kinh khủng.

Bertrand Zobrist.

Thị Trưởng thấy phát điên khi nhớ lại mọi việc.

Đây chính là lỗi của Sienna.

Cô ta luôn tham gia vào kế hoạch của Zobrist.

Gần đó, bên chiếc bàn hội ý tạm thời trong chiếc C-130, cuộc trò chuyện càng lúc càng sôi nổi, với những nhân viên WHO trao đổi trên điện thoại và tranh luận với nhau.

“Sienna Brooks à?!”, một người như quát trên điện thoại. “Có chắc không đấy?” Nhân viên này lắng nghe một lúc, lông mày cau lại. “Được, cho tôi chi tiết đi. Tôi sẽ giữ máy.”

Anh ta bịt ống nghe và quay sang các cộng sự của mình. “Hình như Sienna Brooks đã rời khỏi Ý ngay sau chúng ta.”

Tất cả mọi người bên bàn đều sững lại.

“Bằng cách nào chứ?”, một nhân viên nữ thắc mắc. “Chúng ta chặn sân bay, cầu, ga tàu…”

“Sân bay Nicelli”, người kia trả lời. “Trên chiếc Lido.”

“Không thể nào”, cô nhân viên phản ứng lại, lắc đầu quầy quậy. “Nicelli rất bé. Không có chuyến bay nào rời đó cả. Nó chỉ phục vụ được các chuyến bay trực thăng trong vùng và…”

“Không hiểu sao Sienna Brooks có thể sử dụng một máy bay riêng đậu tại Nicelli. Họ vẫn đang tìm hiểu về nó.” Anh ta lại đưa ống nghe lên miệng. “Vâng, tôi đây. Các anh có gì rồi?” Trong lúc lắng nghe thông tin cập nhật, vai anh ta càng lúc càng nặng trĩu, anh ta ngồi phịch xuống. “Tôi hiểu. Cảm ơn.” Anh ta kết thúc cuộc gọi.

Các đồng nghiệp của anh ta đều chăm chú nhìn với vẻ mong đợi.

“Máy bay của Sienna hướng về Thổ Nhĩ Kỳ”, anh ta thông báo, tay dụi dụi mắt.

“Vậy thì gọi ngay cho Cục Vận tải Hàng không châu Âu!”, ai đó nói. “Bảo họ cho chiếc máy bay đổi hướng.”

“Không được đâu”, anh chàng nhân viên WHO nói. “Nó đã hạ cánh cách đây mười hai phút tại sân bay riêng Hezarfen, chỉ cách nơi này có mười lăm dặm. Sienna Brooks đã biến mất rồi.”

--87--

Lúc này mưa trút ào ào xuống mái vòm cổ kính của Hagia Sophia.

Suốt gần một nghìn năm, đây là nhà thờ lớn nhất thế giới, và thậm chí bây giờ vẫn khó có thể nghĩ ra thứ gì lớn hơn. Nhìn lại tòa nhà lần nữa, Langdon nhớ rằng Hoàng đế Justinian [57], khi hoàn thành Hagia Sophia, đã bước lùi lại và tự hào tuyên bố, “Này ngài Solomon, tôi đã vượt qua ngài rồi!”.

Sinskey và Brüder quả quyết tiến nhanh về phía tòa nhà đồ sộ, như càng lúc càng phình lên khi họ lại gần.

Các lối đi ở đây đều có hai hàng đạn súng thần công được lực lượng của Mehmet Người Chinh phạt [58] sử dụng - một hình thức trang trí gợi nhớ rằng lịch sử của tòa nhà này thấm đẫm bạo lực vì sau khi bị chinh phục, nó được chuyển đổi công năng để phục vụ nhu cầu tinh thần của những thế lực chiến thắng.

Khi họ tiến gần đến mặt tiền phía Nam, Langdon liếc nhìn sang bên phải, chỗ ba khu phụ trông như những hầm chứa có mái vòm nhô ra khỏi tòa nhà chính. Đây chính là lăng của các vị Sultan, một trong số đó – vua Murad III - theo lời đồn đại, có tới một trăm người con.

Có tiếng chuông điện thoại di động vang lên trong không gian về đêm, và Brüder lấy điện thoại ra, kiểm tra nhận dạng người gọi, rồi trả lời cộc lốc: “Chuyện gì?”.

Trong lúc nghe thông tin, anh ta lắc đầu lia lịa như không tin nổi. “Sao có thể thế được?” Anh ta lắng nghe thêm và thở dài. “Được rồi, liên tục thông báo cho tôi. Chúng tôi sắp vào trong.” Anh ta tắt máy.

“Chuyện gì vây?”, Sinskey hỏi.

“Cần để mắt dè chừng”, Brüder nói, liếc nhìn toàn khu vực. “Chúng ta có thể có bạn đồng hành.” Anh ta đưa mắt nhìn Sinskey. “Có vẻ như Sienna Brooks đã có mặt tại Istanbul.”

Langdon nhìn sững Brüder, vô cùng ngạc nhiên khi nghe nói rằng Sienna đã tìm được cách lọt vào Thổ Nhĩ Kỳ và thêm nữa, sau khi trốn thoát khỏi Venice, cô còn dám bất chấp khả năng bị bắt và thậm chí bị giết để đảm bảo rằng kế hoạch của Bertrand Zobrist sẽ thành công.

Sinskey cũng cảnh giác không kém và hít một hơi dài như thể chuẩn bị hỏi thêm Brüder, nhưng rõ ràng bà đã suy nghĩ lại, nên quay sang Langdon. “Lối nào đây?”

Langdon chỉ sang trái chỗ góc tây nam của tòa nhà. “Đài phun nước Tẩy uế đằng kia”, anh nói.

Điểm gặp gỡ của họ với nhân viên của bảo tàng là một nguồn nước có rào chắn trang nhã từng được sử dụng cho các nghi lễ tẩy uế trước khi thực hiện việc cầu nguyện của đạo Hồi.

“Giáo sư Langdon!”, một giọng nam giới gọi to khi họ tới gần.

Một người đàn ông Thổ Nhĩ Kỳ tươi cười bước ra từ bên dưới vòm bát giác che bên trên đài phun nước. Anh ta vẫy vẫy tay. “Giáo sư, ở đây!”

Langdon và hai người vội vã đi tới.

“Xin chào, tên tôi là Mirsat”, anh ta nói, giọng tiếng Anh nặng trịch đầy nhiệt tình. Đó là một người đàn ông mảnh dẻ với mái tóc lưa thưa, cặp kính nhìn tri thức, và mặc bộ đồ màu xám. “Thật vinh hạnh cho tôi.”

“Chúng tôi cũng rất vinh hạnh”, Langdon đáp, bắt tay Mirsat. “Cảm ơn vì lòng hiếu khách của anh dù chúng tôi thông báo vội vàng.”

“Vâng, vâng!”

“Tôi là Elizabeth Sinskey”, tiến sĩ Sinskey nói, bắt tay Mirsat và sau đó ra hiệu về phía Brüder. “Còn đây là Cristoph Brüder. Chúng tôi đến đây để hỗ trợ giáo sư Langdon. Tôi rất xin lỗi vì máy bay của chúng tôi bị trễ. Anh thật chu đáo khi tiếp đón chúng tôi thế này.”

“Không sao! Không phải suy nghĩ gì đâu!”, Mirsat rối rít. “Vì giáo sư Langdon, tôi sẽ phục vụ riêng bất kỳ giờ nào. Cuốn Những biểu tượng Thiên Chúa giáo trong thế giới Hồi giáo của anh ấy rất được ưa chuộng trong cửa hàng quà tặng của bảo tàng chúng tôi.”

Thật sao. Langdon nghĩ thầm. Giờ thì mình biết nơi duy nhất trên đời đón nhận cuốn sách đó.

“Chúng ta đi chứ?”, Mirsat nói, ra hiệu cho bọn họ đi theo.

Cả nhóm vội vã băng qua một khoảnh sân nhỏ, đi qua lối vào dành cho khách du lịch và tiếp tục đi tới nơi ban đầu là lối vào chính của tòa nhà - ba cổng tò vò khắc sâu với những cánh cửa đồng đồ sộ.

Hai nhân viên an ninh có vũ trang đang đợi sẵn để đón họ. Ngay khi nhìn thấy Mirsat, những nhân viên này mở khóa một cánh cửa và đẩy mạnh ra.

“Sağ olun”, Mirsat nói một trong những cụm từ tiếng Thổ Nhĩ Kỳ mà Langdon quen thuộc - một cách nói “cảm ơn” đặc biệt lịch thiệp.

Cả nhóm bước qua, và các nhân viên an ninh lập tức đóng những cánh cửa nặng nề phía sau lại, tiếng va chạm vang vọng khắp không gian nội thất bằng đá.

Giờ Langdon và mấy người kia đang đứng ở sảnh của Hagia Sophia - một dạng phòng chờ hẹp vốn rất phổ biến trong các nhà thờ Thiên Chúa giáo, có chức năng như một khu đệm kiến trúc giữa không gian linh thiêng với không gian trần tục.

Đường hào tinh thần, Langdon thường gọi khu vực này như vậy.

Cả nhóm đi về phía những cánh cửa tiếp theo, và Mirsat đẩy một bên cửa mở ra. Phía sau, thay vì nhìn thấy điện thờ như dự đoán, Langdon lại thấy một sảnh thứ hai, lớn hơn cái đầu tiên một chút.

Sảnh nội, Langdon nhận ra ngay, dù quên mất rằng điện thờ của Hagia Sophia có đến hai tầng bảo vệ cách ly với thế giới bên ngoài.

Như thể để chuẩn bị cho khách tham quan về những gì nằm ở phía trước, khu sảnh nội này được trang trí cầu kỳ hơn hẳn khu sảnh ngoài, các bức tường đều được làm bằng đá mài bóng loáng nên bắt sáng từ những ngọn đèn chùm rất đẹp. Langdon chăm chú ngắm nhìn bốn cánh cửa ở đầu bên kia của không gian trầm lắng này, phía trên có những bức gốm khảm vô cùng ngoạn mục.

Mirsat bước tới cánh cửa lớn nhất - một cánh cổng đồ sộ bọc đồng. “Hoàng môn”, Mirsat nói khẽ, giọng anh ta nhẹ hẫng nhưng vẫn hết sức nhiệt thành, “cho tôi hỏi, có cái gì các vị đặc biệt muốn xem ở bên trong không?”

Langdon, Sinskey và Brüder đều nhìn nhau.

“Có”, Langdon nói. “Có rất nhiều thứ cần xem, dĩ nhiên rồi, nhưng nếu được, chúng tôi muốn bắt đầu từ mộ Enrico Dandolo.”

Mirsat nghiêng nghiêng đầu như thể không hiểu rõ. “Sao cơ ạ? Các vị muốn xem… mộ Dandolo à?”

“Vâng.”

Mirsat đầy vẻ thất vọng. “Nhưng, thưa… mộ Dandolo rất đơn giản. Không hề có biểu tượng gì cả. Không phải là đề xuất tuyệt nhất của chúng tôi.”

“Tôi biết thế”, Langdon nhã nhặn nói. “Tuy nhiên, chúng tôi rất biết ơn nếu anh có thể đưa chúng tôi đến đó.”

Mirsat nhìn Langdon một lúc lâu, và sau đó anh ta đưa mắt nhìn lên phần gốm khảm ngay trên cánh cửa, nơi Langdon vừa ngắm nhìn. Phần gốm khảm này là hình ảnh từ thế kỷ IX của Chúa Jeus Toàn năng - hình ảnh đã trở thành biểu tượng mô tả Chúa Jeus cầm Kinh Tân ước bên tay trái trong khi tay phải ban phước.

Sau đó, như thể có một tia sáng lóe lên trong tâm trí, khóe miệng Mirsat nhếch lên thành một nụ cười đầy hiểu biết, và anh ta bắt đầu ngoắc ngoắc ngón tay. “Quả là sắc sảo! Rất sắc sảo!”

Langdon nhìn sững. “Tôi không hiểu?”

“Không sao, thưa giáo sư”, Mirsat nói bằng một giọng thì thào đầy mưu mô. “Tôi sẽ không nói cho bất kỳ ai biết lý do thật sự khiến giáo sư tìm đến đây đâu.”

Sinskey và Brüder cũng nhìn Langdon vẻ khó hiểu.

Langdon chỉ biết nhún vai trong khi Mirsat đẩy cửa mở ra và dẫn họ vào trong.
XEM TIEP CHUONG http://truyenhiepsi.blogspot.com

Blog Truyện Hiệp Sĩ

truyenhiepsi

Truyện được sưu tầm chia sẻ trên các web miễn phí...

Tìm Kiếm Truyện

Theo dõi blog!

Nhận bài viết mới qua email. Chỉ cần nhập địa chỉ email của bạn dưới đây nếu bạn muốn đăng ký!