Hỏa Ngục: SỐ 20

http://truyenhiepsi.blogspot.com

Tác giả: Dan Brown


--80--

Ở boong trên con tàu The Mendacium, Langdon bám chặt lấy hàng lan can bằng gỗ tếch bóng loáng, gắng trụ vững trên đôi chân đang loạng choạng, và cố lấy lại nhịp thở. Không khí trên biển giờ lạnh hơn, và tiếng ồn của những chiếc máy bay thương mại tầm thấp cho anh biết họ đang đến gần sân bay ở Venice.

Có một vài chuyện tôi phải nói với anh về cô Brooks.

Thị Trưởng và tiến sĩ Sinskey, đứng cạnh anh trên lan can vẫn im lặng nhưng rất chu đáo, cố gắng dành cho anh một khoảng thời gian để lấy lại bình tĩnh. Những gì họ vừa nói với Langdon ở boong dưới khiến anh mất phương hướng và buồn đến mức Sinskey phải đưa anh ra ngoài để hít thở không khí thoáng đãng.

Không khí biển cả thật trong lành, nhưng đầu óc Langdon vẫn không thể nào thông suốt. Tất cả những gì anh có thể làm là nhìn mông lung xuống lằn nước do con tàu tạo ra, cố gắng tìm kiếm một chút logic cho những gì anh vừa được nghe.

Theo lời Thị Trưởng, Sienna Brooks và Bertrand Zobrist là tình nhân đã lâu. Họ cùng nhau tham gia rất tích cực vào phong trào Siêu nhân học ngầm dưới một số hình thức. Tên đầy đủ của cô là Felicity Sienna Brooks, nhưng cô cũng có mật danh FS-2080 liên quan đến tên viết tắt và năm có ngày sinh nhật tròn một trăm của mình.

Không chi tiết nào có ý nghĩa gì cả!

“Tôi biết Sienna Brooks thông qua một nguồn khác”, Thị Trưởng nói với Langdon, “và tôi tin cô ta. Cho nên, khi cô ta đến chỗ tôi năm ngoái và đề nghị tôi gặp một khách hàng tiềm năng giàu có, tôi đồng ý ngay. Ứng viên triển vọng ấy hóa ra là Bertrand Zobrist. Ông ta thuê tôi cung cấp cho ông ta một nơi an toàn để có thể thực hiện ‘kiệt tác’ của mình mà không bị phát hiện. Tôi cứ đinh ninh ông ta đang phát triển một công nghệ mới mà không muốn bị đánh cắp bản quyền… hay có lẽ ông ta đang thực hiện một nghiên cứu di truyền mới nhất nào đó mâu thuẫn với những quy định đạo đức của WHO… tôi không hề đặt câu hỏi, nhưng tin tôi đi, tôi chưa bao giờ nghĩ ông ta đang tạo ra… một đại dịch”.

Langdon chỉ có thể ngơ ngác gật đầu, vô cùng đờ đẫn.

“Zobrist là một kẻ cuồng Dante”, Thị Trưởng nói tiếp, “và do đó ông ta chọn Florence làm nơi ẩn nấp. Vì thế tổ chức của chúng tôi cung cấp cho ông ta mọi thứ mà ông ta cần – một phòng thí nghiệm kín đáo có khu sinh hoạt, nhiều biệt danh khác nhau và đảm bảo các kênh thông tin liên lạc, cùng một tùy viên riêng giám định mọi việc, từ vấn đề an ninh của ông ta đến chuyện mua đồ ăn và nhu yếu phẩm. Zobrist không bao giờ sử dụng thẻ tín dụng của mình hay xuất hiện trước công chúng, cho nên không ai có thể tìm ra ông ta. Chúng tôi thậm chí còn cung cấp cho ông ta những hình thức ngụy trang, mật danh và thay đổi hồ sơ để đi lại mà không bị chú ý”. Ông ta ngừng lại. “Rõ ràng Zobrist đã làm đúng như vậy khi đặt cái túi Solublon vào chỗ đó.”

Sinskey thở hắt ra, cố gắng che giấu nỗi thất vọng. “WHO đã cố gắng kiểm soát ông ta kể từ năm ngoái, nhưng dường như ông ta đã biến mất khỏi trái đất.”

“Thậm chí xa lánh cả Sienna", Thị Trưởng nói.

“Sao cơ?”, Langdon ngước lên, cố nuốt cảm giác nghèn nghẹn trong họng. “Tôi tưởng ông nói họ là tình nhân cơ mà?”

“Đúng vậy, nhưng ông ta cũng đột ngột cắt đứt liên hệ với cô ta khi ở ẩn. Cho dù Sienna chính là người đã tiến cử ông ta với chúng tôi nhưng thỏa thuận của tôi chỉ là riêng với Zobrist, và một phần thỏa thuận của chúng tôi là khi ông ta biến mất, ông ta sẽ biến mất trước toàn thế giới, kể cả Sienna. Rõ ràng sau khi lánh đi, ông ta có gửi cho cô ta một lá thư từ biệt nói rằng ông ta rất ốm, sẽ chết trong vòng một năm nữa, và không muốn cô ta nhìn thấy mình suy sụp.”

Zobrist đã bỏ rơi Sienna chăng?

“Sienna cố gắng liên hệ với tôi để có thông tin”, Thị Trưởng nói, “nhưng tôi từ chối nhận cuộc gọi của cô ta. Tôi phải tôn trọng những mong muốn của khách hàng”.

“Hai tuần trước”, Sinskey tiếp tục. “Zobrist tới một ngân hàng ở Florence và giấu tên thuê một ngăn két an toàn. Sau khi hắn bỏ đi, chúng tôi nhận được tin cho hay phần mềm mới nhận dạng khuôn mặt của ngân hàng đó nhận ra kẻ giả trang chính là Bertrand Zobrist. Nhóm của tôi bay tới Florence và phải mất một tuần mới xác định được ngôi nhà hắn ẩn náu, nhưng nó trống trơn, dù chúng tôi tìm thấy bằng chứng bên trong cho thấy hắn đã tạo ra một mầm bệnh lây lan rất mạnh nào đó và giấu ở nơi khác”.

Sinskey ngừng lại. “Chúng tôi đã dốc hết sức tìm kiếm hắn. Sáng hôm sau, lúc trước bình minh, chúng tôi phát hiện hắn đang đi dọc sông Arno, và chúng tôi lập tức truy đuổi. Đó là lúc hắn leo lên tháp Badia và nhảy xuống tự sát”.

“Có lẽ ông ta đã lên kế hoạch làm việc đó rồi,” Thị Trưởng nói thêm, “Ông ta đinh ninh rằng mình sẽ không sống được lâu.”

“Hóa ra”, Sinskey nói, “Sienna cũng đang tìm kiếm hắn. Bằng cách nào đó, cô ta biết rằng chúng tôi đã tìm tới Florence, và cô ta theo sát động tĩnh của chúng tôi, nghĩ rằng chúng tối có thể tìm ra hắn. Thật không may, cô ta có mặt đúng lúc Zobrist nhảy xuống”. Sinskey thở dài. “Tôi ngờ rằng cô ta bị tổn thương ghê gớm khi chứng kiến người tình và cũng là người thầy của mình tự sát.”

Langdon cảm thấy mệt mỏi, gần như không thể tiếp nhận được những gì mình đang nghe. Người duy nhất trong toàn bộ tấn kịch này mà anh thấy tin tưởng lại chính là Sienna, và những người kia đang nói với anh rằng cô không phải là con người cô nói sao? Cho dù họ nói gì, anh cũng không thể tin Sienna lại tha thứ cho ý nguyện tạo ra một đại dịch của Zobrist.

Hay là cô ưng thuận với hắn?

Anh có dám giết bớt một nửa dân số hôm nay, Sienna đã từng hỏi anh, để cứu lấy loài người chúng ta khỏi diệt vong không?

Langdon cảm thấy rùng mình.

“Khi Zobrist chết đi rồi”, Sinskey giải thích, “tôi dùng ảnh hưởng của mình buộc ngân hàng phải mở cái ngăn két an toàn của Zobrist, trong đó chỉ có đúng 1 lá thư gửi cho tôi… cùng với một thiết bị lạ lùng”.

“Cái máy chiếu”, Langdon đánh bạo.

“Chính xác. Trong bức thư hắn muốn tôi là người đầu tiên ghé thăm ổ dịch, nơi không ai có thể tìm ra nếu không lần theo bức Vực Địa ngục của hắn.”

Langdon nhớ lại bức vẽ của Botticelli đã bị biến cải được chiếu ra từ cái máy chiếu nhỏ xíu.

Thị Trưởng nói thêm, “Zobrist đã thỏa thuận rằng tôi sẽ gửi cho tiến sĩ Sinskey những thứ bên trong két an toàn, nhưng không được gửi trước buổi sáng ngày mai. Khi tiến sĩ Sinskey có được những thứ đó sớm hơn dự kiến, chúng tôi rất hoảng hốt và lập tức hành động ngay, cố gắng lấy lại nó theo đúng mong muốn từ khách hàng của mình”.

Sinskey nhìn Langdon. “Tôi không hy vọng nhiều rằng chúng tôi có thể hiểu được tấm bản đồ kịp thời gian, cho nên tôi mời anh giúp. Giờ anh có nhớ chi tiết nào không?”

Langdon lắc đầu.

“Chúng tôi âm thầm đưa anh bay tới Florence, nơi anh đã có lịch hẹn với một người mà anh nghĩ có thể giúp được mình.”

Ignazio Busino.

“Đêm qua anh đã gặp người đó”, Sinskey nói, “và sau đó anh biến mất. Chúng tôi nghĩ đã có chuyện gì đó xảy ra với anh.”

“Và trên thực tế”, Thị Trưởng nói, “đúng là có chuyện xảy ra với anh. Nhằm cố lấy lại cái máy chiếu, chúng tôi đã phái một đặc vụ tên là Vayentha bám theo anh từ sân bay. Cô ta mất dấu anh ở đâu đó gần Quảng trường Sidnoria”. Ông ta quắc mắt. “Để mất dấu anh là một sai lầm ghê gớm. Và Vayentha cho biết tất cả là do một con chim.”

“Sao cơ?”

“Một con chim bồ câu cất tiếng gù. Theo tường thuật của Vayentha, cô ta ở vị trí rất thuận lợi, theo dõi anh từ một hốc tường tối, đúng lúc có một nhóm du khách đi qua. Cô ta nói rằng có một con bồ câu đột ngột gù rất to từ một ô cửa sổ phía trên đầu cô ta, khiến cho đám du khách dừng lại và chặn mất đường ra của Vayentha. Đến lúc cô ta có thể lách được vào ngõ thì anh đã biến mất.” Ông ta lắc đầu bực bội. “Cô ta mất dấu anh vài giờ liền. Cuối cùng, cô ta lại lần được ra dấu của anh – và đến lúc này thì anh đã đi cùng một người đàn ông nữa.”

Ignazio, Langdon thầm nghĩ. Chắc chắn ông ấy và mình vừa thoát khỏi cung điện Vecchio cùng với chiếc mặt nạ.

“Cô ta bám được theo cả hai anh về hướng quảng trường Signoria, nhưng rõ ràng hai anh đã nhìn thấy cô ta và quyết định lánh đi, đi theo hai hướng khác nhau.”

Ra vậy, Langdon nghĩ, Ignazio chạy trốn cùng chiếc mặt nạ và giấu nó vào trong nhà rửa tội trước khi bị truy tìm.

“Sau đó Vayentha đã phạm một sai lầm khủng khiếp”, Thị Trưởng nói.

“Cô ta bắn vào đầu tôi phải không?”

“Không, cô ta để lộ quá sớm. Cô ta bắt anh để tra hỏi khi anh chưa biết gì cả. Chúng tôi cần biết liệu anh đã giải mã được tấm bản đồ hay đã nói với tiến sĩ Sinskey những gì bà ấy cần biết chưa. Anh không chịu nói một lời. Anh nói anh thà chết còn hơn.”

Tôi đang truy tìm một thứ bệnh dịch chết người! Có lẽ tôi nghĩ các vị là những kẻ đánh thuê đang tìm cách chiếm lấy một thứ vũ khí sinh học!

Động cơ của con tàu đột ngột chuyển sang chế độ lùi, khiến cho con tàu chậm lại khi nó áp sát cầu cảng của sân bay. Phía xa, Langdon có thể nhìn rõ phần thân khó nhận dạng của chiếc máy bay vận tải C-130 đang tiếp hiên liệu. Thân máy bay mang dòng chữ TỔ CHỨC Y TẾ THẾ GIỚI.

Vừa lúc đó Brüder đến, vẻ mặt cau có. “Tôi vừa được biết nhóm phản ứng đủ khả năng duy nhất của chúng ta trong vòng năm tiếng chính là chúng tôi, có nghĩa là chúng ta phải tự xoay sở.”

Sinskey ngồi phịch xuống. “Thế còn việc hợp tác với cơ quan chức năng địa phương?”

Brüder đầy cảnh giác. “Chưa nên. Đó là đề xuất của tôi. Vì không có vị trí chính xác đến thời điểm này cho nên chúng ta chẳng thể làm được gì. Hơn nữa, tác vụ ngăn chặn vượt khỏi tầm chuyên môn của họ, và chúng ta dễ có nguy cơ gặp cảnh lợi bất cập hại.”

“Primum non nocere”, Sinskey gật đầu, khẽ nhắc lại quy tắc cơ bản về đạo đức ngành y bằng tiếng Latin: Trước tiên không được gây hại.

“Cuối cùng”, Brüder nói, “chúng tôi vẫn chưa có thông tin gì về Sienna Brooks”. Anh ta nhìn Thị Trưởng. “Ông có biết liệu có người quen nào của Sienna ở Venice có thể giúp đỡ cô ta không?”

“Tôi không lấy làm lạ về điều đó”, ông ta đáp, “Zobrist có đệ tử ở khắp mọi nơi, và theo tôi biết thì Sienna sẽ sử dụng tất cả nguồn lực sẵn có để thực hiện chỉ thị của mình.”

“Các anh không thể để cô ta thoát khỏi Venice”, Sinskey nói. “Chúng ta không biết hiện trạng của cái túi Solublon như thế nào. Nếu có ai đó phát hiện ra, lúc này chỉ một cái chạm nhẹ cũng làm cho lớp nhựa vỡ bung và giải phóng dịch bệnh vào nước.”

Tất cả chìm trong bầu im lặng nặng nề trước tình thế hiện tại.

“Tôi sợ rằng chúng ta còn có những tin xấu nữa”, Langdon nói. “Tòa bảo quản mạ vàng của tri thức thánh thiêng”. Anh ngừng lại. “Sienna biết nó ở đâu. Cô ấy biết chúng ta sẽ đi đâu.”

“Tại sao?”, Sinskey thảng thốt hỏi. “Anh nói rằng anh còn chưa kịp nói cho Sienna những gì anh đã đoán ra kia mà! Anh nói tất cả những gì anh cho cô ta biết là hai người đang ở nhầm quốc gia!”

“Đúng như vậy”, Langdon nói, “nhưng cô ấy biết chúng tôi đang tìm kiếm mộ của Enrico Dandolo. Chỉ cần tìm kiếm nhanh trên web là có thể giúp cô ấy biết rõ nơi đó. Và một khi cô ấy tìm ra mộ của Dandolo… Việc cái túi hòa tan trong nước kia sẽ không còn xa nữa. Bài thơ nói cứ theo tiếng nước chảy nhỏ giọt đi xuống cung điện chìm dưới nước.”

“Mẹ kiếp!”, Brüder buột miệng, và lao ra ngoài.

“Cô ta sẽ chẳng thể thắng chúng ta được”, Thị Trưởng nói. “Chúng ta ra tay trước.”

Sinskey thở dài não nề. “Tôi không chắc. Phương tiện di chuyển của chúng ta chậm lắm, và có vẻ Sienna Brooks cực kỳ tháo vát.”

Khi The Mendacium cập bến, Lamgdon nhấp nhổm nhìn chiếc C-130 kềnh càng trên đường băng. Trông nó như thể không tài nào bay nổi và lại chẳng có cái cửa sổ nào. Mình đã từng ở bên trong cái thứ này rồi sao? Langdon không tài nào nhớ nổi điều gì.

Không rõ do chuyển động của con tàu đang cập bến hay do tâm lý càng lúc càng e ngại về chiếc máy bay kín bưng, nhưng anh đột nhiên cảm thấy buồn nôn.

Anh quay sang Sinskey. “Tôi không dám chắc tôi có đủ khỏe để bay không.”

“Anh không sao đâu”, bà ấy nói. “Ngày hôm nay anh đã quá mệt mỏi rồi, và dĩ nhiên, trong cơ thể anh vẫn còn những độc tố.”

“Độc tố sao?”, Langdon loạng choạng lùi bước lại. “Bà đang nói sao cơ?”

Sinskey ngó đi chỗ khác, rõ ràng đã nói hớ nhiều hơn cần thiết.

“Giáo sư, tôi rất xin lỗi. Rất tiếc, chúng tôi vừa được biết rằng tình trạng sức khỏe của anh hơi phức tạp chứ không chỉ là một vết thương ở đầu.”

Langdon cảm thấy kinh hãi khi hình dung ra vết bầm tím trên ngực Ferris khi ông ta đổ gục trong thánh đường.

“Có chuyện gì không ổn với tôi à?”, Langdon hỏi.

Sinskey có vẻ do dự, như thể không dám chắc nên xử lý thế nào. “Chúng ta hãy lên máy bay trước đã.”

--81--

Nằm ngay phía đông nhà thờ Frari kỳ vĩ, xưởng Pietro Longhi luôn là một trong những nhà cung cấp đồ cổ trang, tóc giả, và các phụ kiện hàng đầu Venice. Danh sách khách hàng của nó bao gồm những công ty điện ảnh và đoàn kịch, cũng như các nhân vật có ảnh hưởng của công chúng, những người phải nhờ cậy đến tay nghề của đội ngũ ở đây để giúp họ phục sức trong những buổi dạ tiệc tốn kém nhất của lễ hội Carnevale.

Nhân viên bán hàng vừa định đóng cửa nghỉ tối thì có tiếng chuông cửa réo vang. Anh ta ngước lên và thấy một phụ nữ quyến rũ với mái tóc đuôi ngựa vàng óng xộc vào. Cô ấy thở không ra hơi, như thể vừa chạy hàng dặm đường. Cô vội tới bên quầy, đôi mắt màu nâu đầy tuyệt vọng và bấn loạn.

“Tôi muốn nói chuyện với Giorgio Venci”, cô ấy hổn hển nói.

Khéo thế, anh chàng nhân viên thầm nghĩ. Làm gì có ai tới để gặp phù thủy đâu.

Giorgio Venci – chuyên gia thiết kế trưởng của xưởng – thực hiện ‘phép màu’ từ sau rèm, hiếm khi trò chuyện với khách hàng và chẳng bao giờ thiếu lịch hẹn. Là người giàu có và có thế lực, Giorgio được phép có một số điểm lập dị nhất định, trong đó bao gồm cả việc ưa thích được cô độc. Ông ấy ăn uống riêng, bay riêng, và không ngớt than phiền về số lượng khách du lịch ngày càng tăng ở Venice. Ông không phải là người ưa thích bầu bạn khách khứa.

“Tôi xin lỗi”. anh chàng nhân viên nói kèm theo một nụ cười nhà nghề. “Tôi sợ rằng ngài Venci không ở đây. Tôi có thể giúp được gì cho cô không?”

“Giorgio ở đây”, cô gái tuyên bố. “Phòng ông ấy trên tầng. Tôi nhìn thấy đèn còn sáng. Tôi là một người bạn của ông ấy. Tình hình rất khẩn cấp.”

Ở người phụ nữ này có sự quyết liệt cháy bỏng. Một người bạn ư? Cô ấy nhận như vậy. “Tôi có thể nói với Giorgio tên cô được không?”

Người phụ nữ vớ lấy một mảnh giấy trên quầy và ghi vội xuống mấy chữ cái và con số.

“Cứ đưa cho ông ấy cái này”, cô ấy nói, trao cho anh chàng nhân viên mẩu giấy. “Và xin nhanh lên cho. Tôi không có nhiều thời gian.”

Anh chàng nhân viên ngần ngừ cầm mảnh giấy lên gác và đặt nó trên một chiếc bàn dài, nơi Giorgio vẫn chăm chú gò lưng bên máy khâu.

‘Thưa ông”, anh ta nói khẽ. “Có người đến đây gặp ông. Cô ấy nói là tình huống khẩn cấp.”

Không ngừng tay cũng chẳng nhìn lên, người đàn ông thò một tay và nhặt mẩu giấy, đọc nội dung.

Máy khâu của ông ta chạy lạch xạch rồi dừng lại.

“Dẫn cô ấy lên đây ngay lập tức”, Giorgio ra lệnh trong khi xé vụn mảnh giấy thành những mẩu nhỏ.

--82--

Chiếc máy bay vận tải C-130 to lớn vẫn đang tăng độ cao trong lúc liệng về phía đông nam, ầm ầm bay qua biển Adriatic. Trên máy bay, Robert Langdon vừa cảm thấy tù túng vừa thấy lâng lâng. Anh bức bối vì xung quanh không có những ô cửa sổ, và hoang mang trước tất cả những câu hỏi chưa có lời giải đáp vẫn đang quay cuồng trong tâm trí.

Tình trạng sức khỏe của anh, Sinskey đã nói, hơi phức tạp chứ không chỉ là một vết thương ở đầu.

Mạch đập của Langdon rộn lên khi nghĩ về những gì bà ấy có thể nói với mình, nhưng vào lúc này bà ấy đang bận thảo luận các chiến lược ngăn chặn nhóm SRS. Brüder đang điện thoại gần đó, nói chuyện với các cơ quan chính phủ về Sienna Brooks, cập nhật tình hình tìm kiếm cô ấy của tất cả mọi người.

Sienna…

Langdon vẫn đang cố gắng tiếp nhận sự thật rằng cô có dính dáng đến tất cả chuyện này. Khi chiếc máy bay lấy lại thăng bằng, người đàn ông thấp nhỏ tự gọi mình là Thị Trưởng bước qua khoang lái vầ ngồi xuống đối diện với Langdon. Ông ta chống tay lên cằm và mím môi. “Tiến sĩ Sinskey đề nghị tôi nói chuyện với anh… cố gắng làm rõ thêm tình cảnh của anh.”

Langdon tự hỏi người đàn ông này có thể nói gì để làm cho câu chuyện rối rắm này sáng sủa hơn.

“Như tôi đã nói ban nãy”, Thị Trưởng nói, “có rất nhiều rắc rối xảy ra sau khi đặc vụ Vayentha của tôi bắt anh quá sớm. Chúng tôi không biết anh đã làm những gì cùng với tiến sĩ Sinskey, hay anh đã chia sẻ với bà ấy được chừng nào. Nhưng chúng tôi sợ nếu bà ấy biết được địa điểm dự án nơi khách hàng thuê chúng tôi bảo vệ thì bà ấy sẽ tịch thu hoặc phá hủy nó. Chúng tôi phải tìm ra nó trước bà ấy, và vì thế chúng tôi cần anh làm việc cho chúng tôi… chứ không phải cho bà Sinskey.” Thị Trưởng ngừng lại, đập đập những ngón tay vào nhau. “Rất tiếc chúng tôi đã để lộ kế hoạch của mình… và chắc chắn anh không tin chúng tôi.”

“Cho nên các ông bắn vào đầu tôi phải không?”, Langdon giận dữ đáp lại.

“Chúng tôi lập một kế hoạch để làm cho anh tin tưởng chúng tôi.”

Langdon cảm thấy rối bời. “Làm sao có chuyện các ông làm cho ai đó tin các ông… sau khi các ông bắt cóc và tra khảo anh ta được?”

Giờ người đàn ông có vẻ không thoải mái. “Giáo sư, anh có quen với nhóm các hóa chất vẫn được gọi là benzodiazepine không?”

Langdon lắc đầu.

“Đó là một dòng dược chất được dùng để điều trị chứng căng thẳng sau chấn thương, bên cạnh nhiều tác dụng khác. Như anh có thể biết, khi ai đó trải qua một sự kiện kinh khủng như tai nạn xe hơi hay bị xâm hại tình dục, trí nhớ lâu dài có thể bị suy yếu vĩnh viễn. Thông qua việc sử dụng benzodiazepine, các nhà khoa học thần kinh giờ đây có thể điều trị và ngăn ngừa tình trạng căng thẳng hậu chấn thương.”

Langdon im lặng lắng nghe, không sao hình dung ra được cuộc trò chuyện này sẽ đi tới đâu.

“Khi những ký ức mới được hình thành”, Thị Trưởng tiếp tục, “các sự kiện đó được lưu giữ trong ký ức ngắn hạn của anh khoảng bốn mươi tám tiếng trước khi chuyển sang trí nhớ lâu dài. Sử dụng các hỗn hợp benzodiazepine mới, người ta có thể dễ dàng làm mới lại trí nhớ ngắn hạn… Cơ bản là xóa bỏ nội dung của nó trước khi những ký ức gần đây được chuyển sang ký ức lâu dài, đại để như vậy. Xin lấy ví dụ, một nạn nhân bị tấn công, nếu được cấp một liều benzodiazepine trong vài giờ sau vụ tấn công, anh ta có thể bị xóa sạch những ký ức đó mãi mãi, và cơn tổn thương sẽ không bao giờ trở thành một phần trong tinh thần của người đó nữa. Cái dở duy nhất là người đó cũng mất sạch toàn bộ ký ức về vài ngày trong cuộc đời mình.”

Langdon nhìn sững người đàn ông nhỏ bé mà không tin nổi. “Các ông gây cho tôi chứng quên!”

Thị Trưởng thở dài như xin lỗi. “Tôi e là như vậy. Sử dụng hóa chất. Rất an toàn. Nhưng đúng, đã xóa sạch toàn bộ trí nhớ ngắn hạn của anh.” Ông ấy ngừng lại. “Khi anh ở ngoài kia lúc trước, anh lẩm nhẩm gì đó về một đại dịch, chúng tôi cho là do anh xem những hình ảnh trong chiếc máy chiếu. Chúng tôi chưa bao giờ nghĩ rằng Zobrist đã tạo ra một dịch bệnh thực sự.” Ông ta ngừng lại. “Anh cũng cứ lẩm bẩm một cụm từ mà chúng tôi nghe giống như ‘Rất xin lỗi. Rất xin lỗi’.”

Vasari. Đó chính là tất cả những gì anh nghĩ ra từ chiếc máy chiếu đến thời điểm đó. Cerca trova. “Nhưng… tôi nghĩ chứng quên của tôi là do vết thương trên đầu.”

“Sao cơ?!” Theo bản năng, Langdon đưa tay lần sờ những vết khâu và chỗ đau sưng phồng lên ở phía sau gáy. “Vậy đây là cái quái gì!” Anh vén tóc để lộ ra vùng da bị cạo sạch.

“Một phần của ảo giác. Chúng tôi tạo ra một vết rách nhỏ trên da đầu anh và sau đó lập tức khâu lại bằng chỉ, để anh tin là mình đã bị tấn công.”

Đây không phải là một vết thương do đạn bắn sao?!

“Khi anh tỉnh dậy”, Thị Trưởng nói, “chúng tôi muốn anh tin rằng người ta đang tìm cách giết anh… rằng anh đang gặp nguy hiểm”.

“Có người tìm cách giết tôi!”, Langdon hét lên, cơn giận của anh khiến những người khác trên máy bay đều phải chú ý. “Tôi thấy vị bác sĩ trong bệnh viện – bác sĩ Marconi – bị bắn gục trong vũng máu!”

“Đó là những gì anh nhìn thấy”, Thị Trưởng vẫn bình thản nói, “nhưng không phải những gì đã xảy ra. Vayentha làm việc cho tôi. Cô ta có một kỹ năng siêu việt dành cho loại công việc này”.

“Giết người à?”, Langdon vặn hỏi.

“Không”, Thị Trưởng bình tĩnh đáp. “Giả vờ giết người.”

Langdon trợn mắt nhìn ông ta một lúc lâu, nhớ lại vị bác sĩ râu xám với đôi lông mày rậm gục đổ trên sàn, máu phun xối xả từ ngực.

“Súng của Vayentha được lắp đạn rỗng”, Thị Trưởng nói. “Nó kích hoạt một mồi nổ điều khiển bằng sóng vô tuyến làm nổ tung một túi máu trên ngực bác sĩ Marconi. Nhưng thật ra ông ấy không sao”.

Langdon nhắm mắt, chết lặng trước những gì đang nghe. “Và… gian phòng bệnh viện?”

“Một sân khấu ứng biến nhanh”, Thị Trưởng nói. “Giáo sư, tôi biết tất cả chuyện này rất khó tiếp nhận. Chúng tôi làm việc rất nhanh, và anh thì đang choáng váng, cho nên không cần phải hoàn hảo lắm. Khi tỉnh dậy, anh nhìn thấy những gì chúng tôi muốn anh thấy – trang bị bệnh viện, một vài diễn viên, và một cảnh tấn công được dàn dựng.”

Langdon như quay cuồng.

“Đây là những điều công ty chúng tôi làm”, Thị trường nói. “Chúng tôi rất giỏi tạo ra những ảo giác.”

“Thế còn Sienna?”, Langdon hỏi, tay giụi mắt.

“Tôi cần đưa ra quyết định, và tôi chọn bắt tay với cô ta. Ưu tiên của tôi là bảo vệ dự án của khách hàng trước tiến sĩ Sinskey, và Sienna với tôi có chung mong muốn đó. Để có được sự tin tưởng của anh, Sienna đã cứu anh khỏi kẻ ám sát và giúp anh trốn vào một ngõ nhỏ phía sau. Chiếc taxi đợi sẵn là của chúng tôi, với một mồi nổ điều khiển bằng sóng vô tuyến khác gắn trên kính chắn gió sau để tạo ra hiệu ứng cuối cùng khi anh chạy trốn. Chiếc taxi đưa anh tới một căn hộ được chúng tôi bố trí sẵn.”

Căn hộ tuềnh toàng của Sienna, Langdon nghĩ, giờ đã hiểu tại sao trông như thể căn hộ được bài trí đồ đạc thanh lý vậy. Và nó cũng giải thích cho sự trùng hợp là “người hàng xóm” của Sienna lại có quần áo hoàn toàn vừa vặn với anh.

Toàn bộ mọi thứ đã được dàn cảnh.

Ngay cả cuộc điện thoại tuyệt vọng của người bạn Sienna ở bệnh viện cũng là giả. Sienna, Danikova đây!

“Khi anh gọi điện cho lãnh sự quán Hoa Kỳ”, Thị Trưởng nói tiếp, “anh gọi tới một số mà Sienna đã bố trí cho chúng tôi. Đó là số đổ chuông trên tàu The Mendacium”.

“Tôi chưa hề gọi đến lãnh sự quán…”

“Chưa hề”.

Cứ ở nguyên chỗ của anh, gã nhân viên lãnh sự quán giả mạo đã nhắc anh. Tôi sẽ cho người đến đón anh ngay. Sau đó, khi Vayentha xuất hiện, Sienna đã dễ dàng phát hiện ra ả ở bên kia phố và kết nối mắt xích lại với nhau. Robert, chính phủ của anh đang tìm cách giết anh! Anh không thể liên lạc với bất kỳ cơ quan công quyền nào! Hy vọng duy nhất của anh là phán doán xem cái máy chiếu kia có ý nghĩa gì.

Thị Trưởng và tổ chức bí ẩn của ông ta – cho dù nó là thứ quái gì – đã rất thành công khi làm cho Langdon ngừng hợp tác với Sinskey và bắt đầu làm việc cho họ. Màn đánh lừa đã hoàn thành.

Sienna dắt mũi mình quá hoàn hảo, anh nghĩ, cảm thấy buồn nhiều hơn là giận. Anh đã thấy cảm mến cô trong quãng thời gian ngắn ngủi bên nhau. Điều phiền toái nhất với Langdon là câu hỏi nhức nhối rằng tại sao một tâm hồn tinh anh và nồng ấm như Sienna lại có thể hoàn toàn ưng thuận giải pháp điên rồ của Zobrist đối với tình trạng quá tải dân số.

Em có thể nói với anh không chút ngờ vực, Sienna đã nói với anh, rằng nếu không có một hình thức thay đổi quyết liệt nào đó, sự cáo chung của giống loài chúng ta sẽ đến… Các phép tính toán không có gì để bàn cãi nữa.

“Thế còn bài báo về Sienna?”, Langdon hỏi, nhớ đến cuốn chương trình biểu diễn kịch Shakespeare và những bài viết về chỉ số IQ cao chất ngất của cô.

“Đều là thật”, Thị Trưởng đáp. “Những màn đánh lừa tốt nhất phải càng liên quan đến thế giới thật càng tốt. Chúng tôi không có nhiều thời gian để bố trí, vì thế máy tính của Sienna và những hồ sơ cá nhân đời thật gần như là tất cả những gì chúng tôi phải sử dụng. Anh chẳng bao giờ thật sự có ý định xem bất kỳ thứ gì trong số đó trừ phi anh bắt đầu thấy nghi ngờ về độ chân thực của cô ta.”

“Cũng như không sử dụng máy tính của cô ấy”, Langdon nói.

“Đúng, chúng tôi mất kiểm soát ở chỗ đó. Sienna không hề nghĩ đội SRS của bà Sinskey tìm ra căn hộ, cho nên khi những người lính ập đến, Sienna rất hoảng hốt và phải ứng biến. Cô ta cùng anh dùng chiếc xe máy bỏ chạy, cố gắng duy trì tấn kịch. Khi toàn bộ nhiệm vụ bị phơi bày, tôi không còn lựa cọn nào khác ngoài việc từ bỏ Vayentha, mặc dù cô ta đã phá bỏ quy trình và đuổi theo bọn anh.”

“Cô ta suýt giết tôi”, Langdon nói, kể lại cho Thị Trưởng tình huống trên tầng áp mái của Cung điện Vecchio, khi Vayentha giơ súng lên và nhắm thẳng vào ngực Langdon. Chỉ đau trong nháy mắt thôi…, nhưng đó là lựa chọn duy nhất của tôi. Sau đó Sienna vọt ra và đẩy cô ta ngã nhào ra ngoài lan can, khiến Vayentha rơi xuống dưới và tử vong.

Thị Trưởng thở dài rất rõ, ngẫm nghĩ những gì Langdon vừa kể. “Tôi không nghĩ Vayentha cố tìm cách sát hại anh… súng của cô ta chỉ bắn đạn rỗng. Hy vọng chuộc lỗi duy nhất của cô ta vào thời điểm đó là kiểm soát được anh. Có lẽ cô ta nghĩ nếu cô ta bắn anh bằng một phát đạn rỗng thì cô ta có thể làm cho anh hiểu cô ta không phải là một kẻ ám sát và rằng anh đang bị đánh lừa.”

Thị Trưởng ngừng lại, ngẫm nghĩ một lúc, và sau đó tiếp tục. “Sienna có định sát hại Vayentha hay chỉ cố gắng can thiệp, tôi không dám mạo muội suy đoán. Tôi bắt đầu nhận ra rằng mình không biết nhiều về Sienna Brooks như tôi nghĩ.”

Tôi cũng vậy, Langdon đồng ý, mặc dù khi nhớ lại vẻ sững sờ và đau đớn trên gương mặt của người phụ nữ trẻ, anh cảm thấy những gì cô làm với người phụ nữ đầu đinh chắc chắn là một sai lầm.

Langdon cảm thấy thông suốt và vô cùng cô độc. Anh ngoảnh ra phía cửa sổ, muốn nhìn ra thế giới bên dưới, nhưng tất cả những gì anh thấy chỉ là vách máy bay.

Mình phải ra khỏi đây.

“Anh ổn chứ?”, Thị Trưởng hỏi, mắt nhìn Langdon vẻ lo lắng.

“Không", Langdon đáp. “Tôi rất không ổn.”

o O o

Anh ta sẽ ổn thôi, Thị Trưởng nghĩ. Anh ta chỉ đang cố gắng xử lý thực tế mới mẻ của mình.

Vị giáo sư người Mỹ trông như thể vừa bị cuốn bay khỏi mặt đất vì một trận lốc xoáy, xoay tít thò lò rồi rơi xuống một vùng đất xa lạ, khiến anh hoàn toàn mất phương hướng và choáng váng.

Những người là mục tiêu của Consortium hiếm khi nhận ra sự thật đằng sau tất cả các sự kiện được dàn dựng mà họ đã chứng kiến, và nếu họ nhận ra thì chắc chắn Thị Trưởng cũng không bao giờ có mặt để nhìn hậu quả. Ngày hôm nay, ngoài cảm giác tội lỗi khi trực tiếp chứng kiến nỗi hoang mang của Langdon, trong lòng Thị Trưởng còn nặng trĩu cảm giác về trách nhiệm đối với cuộc khủng hoảng hiện tại.

Mình đã sai lầm khi chấp nhận một vị khách. Bertrand Zobrist.

Mình đã tin tưởng nhầm một con người. Sienna Brooks.

Giờ Thị Trưởng đang bay về phía mắt bão – khu vực tâm chấn nơi có thể chính là một đại dịch chết người có khả năng hủy hoại cả thế giới. Nếu còn sống sót qua toàn bộ vụ việc này, thì ông ta ngờ rằng Consortium của mình sẽ không tài nào thoát khỏi ảnh hưởng của nó. Sẽ có những cáo buộc và chất vấn liên tu bất tận.

Đây là cách mọi việc kết thúc với mình sao?


--83--

Mình cần không khí, Robert Langdon nghĩ. Một khung cảnh… bất kỳ thứ gì.

Thân máy bay kín mít như đang khép chặt lại xung quanh anh. Dĩ nhiên, câu chuyện lạ lùng về những gì thực sự đã xảy ra với anh hôm nay không giúp được gì cả. Tâm trí anh vẫn quay cuồng với những câu hỏi chưa có lời giải đáp, hầu hết đều liên quan đến Sienna.

Thật lạ, anh lại rất nhớ cô.

Cô ấy đang ra tay, anh tự nhủ. Lợi dụng mình.

Không nói một lời, Langdon rời khỏi chỗ Thị Trưởng rồi đi về phía đầu máy bay. Cánh cửa khoang lái vẫn mở, và ánh sáng tự nhiên lọt qua đó lôi cuốn anh như một ngọn đèn hiệu. Đứng ở khuôn cửa mà những người phi công không hề phát hiện ra, Langdon để cho ánh nắng ấm áp rọi lên mặt mình. Không gian rộng mở trước mắt anh giống như món quà trời ban. Bầu trời xanh trong trông thanh bình đến vĩnh cửu.

Chẳng có gì là vĩnh cửu, anh tự nhủ, trong khi vẫn phải gắng chấp nhận thảm họa tiềm tàng mà họ đang đối mặt.

“Giáo sư?”, một giọng nói khẽ vang lên sau lưng anh, và anh quay lại.

Langdon giật mình lùi lại một bước. Đứng ngay sau anh chính là bác sĩ Ferris. Lần cuối cùng Langdon nhìn thấy người đàn ông này là lúc ông ta đang co quắp trên sàn nhà Thánh đường St. Mark, không tài nào thở nổi. Giờ đây ông ta ở trong chiếc máy bay này, dựa lưng vách ngăn, đội một chiếc mũ bóng chày, mặt ông ta tái nhợt, phủ kín một lớp thuốc calamine. Ngực và nửa thân trên của ông ta được băng kín, còn hơi thở rất yếu ớt. Nếu Ferris có bệnh thì dường như ai cũng nghĩ rằng căn bệnh đó sẽ dễ lây lan.

“Anh còn… sống à?”, Langdon nói, nhìn sững người đàn ông.

Ferris mệt mỏi gật đầu. “Ít nhiều như vậy.” Thái độ của người đàn ông này đã thay đổi thấy rõ, dường như thư thái hơn.

“Nhưng tôi cứ nghĩ…”, Langdon im bặt. “Thực tế… tôi không chắc phải nghĩ gì thêm nữa.”

Ferris mỉm cười với anh đầy thông cảm. “Anh đã nghe rất nhiều lời dối trá ngày hôm nay rồi. Tôi nghĩ tôi cần dành thời gian nói lời xin lỗi. Như anh đoán ra, tôi không hề làm việc cho WHO, và tôi không hề tới để mời anh ở Cambridge.”

Langdon gật đầu, vì quá mệt mỏi nên chẳng còn tỏ ra ngạc nhiên trước bất kỳ điều gì đến thời điểm này nữa. “Anh làm việc cho Thị Trưởng.”

“Đúng vậy. Ông ấy cử tôi tới để hỗ trợ khẩn cấp cho anh và Sienna… và giúp anh thoát khỏi nhóm SRS.”

“Vậy thì tôi đoán anh đã thực hiện nhiệm vụ của mình rất hoàn hảo”, Langdon nói, nhớ lại chuyện Ferris xuất hiện tại nhà rửa tội, thuyết phục anh tin rằng ông là một nhân viên WHO, sau đó giúp anh và Sienna di chuyển ra khỏi Florence, tránh xa nhóm của Sinskey. “Rõ ràng anh không phải là một bác sĩ.”

Người đàn ông lắc đầu, “Không, nhưng tôi đóng vai đó ngày hôm nay. Công việc của tôi là giúp Sienna duy trì màn kịch để anh có thể phán đoán ra vị trí chiếc máy chiếu chỉ tới. Thị Trưởng định tìm kiếm thứ mà Zobrist tạo ra để có thể bảo vệ nó trước bà Sinskey.”

“Anh không hề biết đó là một dịch bệnh ư?’’, Langdon nói, vẫn rất tò mò về hiện tượng dị ứng lạ lùng và xuất huyết bên trong của Ferris.

“Dĩ nhiên là không rồi! Khi anh nhắc đến dịch bệnh, tôi cứ nghĩ đó là câu chuyện Sienna nói ra để khích lệ anh. Cho nên tôi cũng đóng kịch theo. Tôi đưa tất cả tàu đi Venice… và sau đó, mọi việc thay đổi.”

“Như thế nào?”

“Thị Trưởng nhìn thấy đoạn video đáng sợ của Zobrist.”

Có lẽ là như vậy. “Ông ấy nhận ra Zobrist là một kẻ điên rồ.”

“Chính xác. Thị Trưởng đột nhiên hiểu ra tất cả những gì Consortium đang dính vào, và ông ấy hoảng sợ. Ông ấy lập tức đề nghị nói chuyện riêng với người biết rõ Zobrist nhất – FS-2080 – để xem liệu cô ta có biết những gì Zobrist làm không.”

“FS-2080 ư?”

“Xin lỗi, Sienna Brooks chứ. Đó là bí danh cô ta chọn cho nhiệm vụ này. Một cái tên theo phong trào Siêu nhân học. Và Thị Trưởng không có cách nào tiếp cận được Sienna trừ cách thông qua tôi.”

“Cuộc điện thoại trên tàu”, Langdon nói. “’Bà mẹ già yếu’ của anh.”

“Chà, rõ ràng không thể nhận điện của Thị Trưởng trước mặt anh, cho nên tôi phải ra ngoài. Ông ấy hy vọng Sienna cũng bị lừa gạt, nhưng khi tôi nói với ông ấy rằng anh và Sienna đã nói về dịch bệnh và dường như không có ý định từ bỏ nhiệm vụ, thì ông ấy biết ngay Sienna và Zobrist cùng một phe trong vụ này. Sienna lập tức trở thành đối thủ. Ông ấy bảo tôi giúp ông ấy bám sát vị trí của chúng ta ở Venice… vì ông ấy sẽ cử một nhóm người tới bắt giữ cô ta. Nhóm của đặc vụ Brüder gần như đã tóm được cô ta ở Thánh đường St. Mark… nhưng cô ta lại tìm cách thoát được.”

Langdon nhìn trân trân xuống sàn, vẫn như thấy đôi mắt nâu rất đẹp của Sienna sững sờ nhìn xuống anh trước khi chạy đi.

Em xin lỗi, Robert. Vì tất cả mọi việc.

“Cô ta rất ghê gớm”, người đàn ông nói. “Có lẽ anh không thấy cô ta tấn công tôi tại thánh đường.”

“Tấn công anh sao?”

“Phải, khi những người lính ập vào, tôi định hét to và tiết lộ vị trí của Sienna, nhưng chắc chắn cô ta cảm nhận được chuyện đó. Cô ta đánh thẳng cườm tay của mình vào giữa ngực tôi.”

“Sao cơ?!”

“Tôi không biết thứ gì nện vào mình. Một kiểu động tác võ thuật gì đó, tôi đoán vậy. Vì tôi đã bị bầm tím rất nặng ở đó, đau kinh khủng. Tôi phải mất đến năm phút mới thở lại được. Sienna kéo anh ra ban công trước khi có nhân chứng phát giác ra những gì vừa xảy ra.”

Sững sờ, Langdon nhứ lại người phụ nữ Ý có tuổi quát lên với Sienna – “Ấn vào ngực anh ta!” – và làm động tác ấn tay lên ngực mình.

Không! Sienna đã trả lời. Làm hô hấp nhân tạo sẽ khiến anh ta tử vong! Nhìn ngực anh ta xem!

Khi nhớ lại tấn kịch trong đầu, Langdon mới nhận ra Sienna Brooks đã suy nghĩ thật nhanh. Cô đã khôn khéo ứng biến trước câu tiếng Ý của người phụ nữ. Ấn vào ngực anh ta không phải là gợi ý rằng Sienna làm động tác ép ngực, đó là lời cáo buộc giận dữ: Cô ta đã đánh vào ngực anh ta!

Trong tình thế hỗn loạn lúc đó, Langdon thậm chí còn không chú ý.

Ferris mỉm cười đau đớn với anh. “Chắc anh đã nghe rồi, Sienna Brooks rất ghê gớm.”

Langdon gật đầu. Tôi nghe rồi.

“Người của bà Sinskey đưa tôi trở lại tàu The Mendacium và băng bó cho tôi. Thị Trưởng bảo tôi đi cùng đội hỗ trợ quốc tế, bởi vì tôi là người duy nhất ngoài anh, đã ở cùng Sienna ngày hôm nay.”

Langdon gật đầu, vẫn phân vân vì chứng dị ứng của người đàn ông. “Mặt của anh?”, Langdon hỏi, “Và vết bầm trên ngực anh nữa. Không phải là…”

“Dịch hạch phải không?”, Ferris bật cười và lắc đầu. “Tôi không biết anh đã được thông báo chưa, nhưng thực tế tôi đóng vai hai vị bác sĩ hôm nay.”

“Sao cơ?”

“Khi tôi xuất hiện ở nhà rửa tội, anh nói tôi trông hơi quen.”

“Đúng vậy. Hơi hơi thôi. Đôi mắt anh, tôi nghĩ vậy. Anh bảo tôi đó là vì anh là người đã mời tôi ở Cambridge…”, Langdon ngừng lại. “Điều mà giờ tôi biết là không đúng, cho nên…”

“Tôi trông quen bởi vì chúng ta đã gặp nhau. Nhưng không phải ở Cambridge”. Người đàn ông cố nhìn vào mắt Langdon để xem anh có nhận ra điều gì không. “Thực ra tôi chính là người đầu tiên nhìn thấy anh khi anh tỉnh dậy vào buổi sáng nay trong bệnh viện.”

Langdon nhớ lại căn phòng nhỏ ảm đạm trong bệnh viện. Lúc đó anh đứng không vững và thị lực cũng bị ảnh hưởng, cho nên anh chắc chắn rằng người đầu tiên mình nhìn thấy khi tỉnh dậy là một vị bác sĩ đứng tuổi xanh xao, với đoi lông mày và chòm râu xám rậm rạp, chỉ nói tiếng Ý.

“Không”, Langdon nói. “Bác sĩ Marconi là người đầu tiên tôi nhìn thấy khi…”

“Xin chào, giáo sư”, người đàn ông ngắt lời bằng một giọng Ý rất chuẩn. “Nhưng anh không nhớ tôi phải không?” Ông ta cúi khom người như một người đứng tuổi, vuốt vuốt ngược đôi lông mày rậm tưởng tượng và bộ râu không hề tồn tại. “Tôi là bác sĩ Marconi.”

Miệng Langdon há hốc. “Bác sĩ Marconi là… anh sao?”

“Đó là lý do tại sao anh thấy mắt tôi rất quen. Tôi chưa bao giờ đeo râu và lông mày giả, và thật không may là cũng chẳng biết gì cho đến khi bị dị ứng với chất kết dính – một thứ keo chế bằng nhựa cây – khiến cho da mẩn ngứa. Tôi chắc anh rất sợ khi nhìn thấy tôi, nhất là anh đang dè chừng một thứ dịch bệnh có thể bùng phát.”

Langdon chỉ biết nhìn sững, giờ thì anh đã nhớ ra vị bác sĩ Marconi luôn gãi râu trước khi bị Vayentha tấn công khiến ông ấy nằm dài trên sàn bệnh viện, máu chảy loang từ ngực.

“Tệ hơn nữa”, người đàn ông nói, tay chỉ chỗ băng gạc quấn quanh ngực mình, “cái mồi nổ của tôi lệch đi trong lúc thực hiện công việc. Tôi không tài nào kịp chỉnh nó về đúng vị trí, và khi nổ, nó bị lệch. Gãy một xương sườn và bầm tím nặng. Tôi khó thở suốt cả ngày là vì vậy.”

Và tôi cứ nghĩ anh bị bệnh dịch.

Người đàn ông hít hơi thật sâu và nháy mắt. “Thực tế, tôi nghĩ đã đến lúc tôi cần ngồi nghĩ lại.” Khi rời đi, ông ấy ra hiệu về phía sau Langdon. “Có vẻ như anh có bạn đồng hành rồi.”

Langdon quay lại và thấy tiến sĩ Sinskey đang sải bước lên khoang lái, mái tóc dài bạc buông sau lưng. “Giáo sư, anh đây rồi!”

Vị giám đốc WHO trông như kiệt sức, nhưng thật lạ là Langdon lại nhận ra một tia hy vọng trong mắt bà. Bà ấy đã phát hiện ra điều gì đó.

“Tôi rất xin lỗi đã để anh ở lại đây một mình”, Sinskey nói, đến bên cạnh Langdon. “Chúng tôi vừa phối hợp và thực hiện một số tìm kiếm.” Bà làm hiệu về phía buồng lái để ngỏ. “Tôi thấy anh hứng một chút ánh nắng thì phải?”

Langdon nhún vai. “Máy bay của bà cần có cửa sổ.”

Bà mỉm cười thông cảm với anh. “Về vấn đề ánh sáng, tôi hy vọng Thị Trưởng đã soi rọi cho anh một chút về những sự kiện gần đây?”

“Vâng, mặc dù chẳng có gì khiến tôi hài lòng.”

“Tôi cũng vậy thôi”, bà đồng tình, ngó quanh để đảm bảo rằng chỉ có họ. “Tin tôi đi”, bà thì thầm, “sẽ có hình phạt nghiêm khắc cho ông ta và tổ chức của ông ta. Tôi sẽ làm việc đó. Còn lúc này, tất cả chúng ta cần tập trung vào việc tìm cho ra cái túi chứa dịch kia trước khi nó tan ra và làm lây lan dịch bệnh’”

Hoặc là trước khi Sienna tới đó và làm cho nó tan nhanh hơn.

Langdon đã hình dung ra tòa nhà tráng lệ kể từ khi anh nhận ra đó mới chính là đích đến của họ. Tòa bảo quản của tri thức thánh thiêng.

“Tôi vừa biết được một chuyện rất thú vị”, Sinskey nói. “Chúng tôi đã nối máy với một sử gia địa phương”, bà nói. “Ông ấy không biết tại sao chúng ta lại hỏi về mộ Dandolo, nhưng tôi đã hỏi ông ấy có biết những gì nằm dưới mộ không, và anh thử đoán xem ông ấy nói gì.” Bà mỉm cười. “Nước.”

Langdon ngạc nhiên. “Thật sao?”

“Đúng, có vẻ như bên dưới tòa nhà đều bị ngập nước. Suốt nhiều thế kỷ, mực nước dưới tòa nhà đã dâng cao, ngập ít nhất hai tầng bên dưới. Ông ấy nói ở đó có tất cả các dạng túi khí và không gian bị ngập một phần phía dưới.”

Chúa ơi. Langdon nhớ lại đoạn video của Zobrist và cái hang ngầm kỳ quái có những bức tường rêu mốc nơi anh nhìn thấy phần bóng lờ mờ thẳng đứng của những cây cột chống. “Đó là một căn phòng ngập nước.”

“Chính xác.”

“Nhưng vậy thì… làm cách nào Zobrist mò được xuống đó?”

Mắt Sinskey sáng lên. “Đó là một chi tiết kỳ lạ. Anh sẽ không thể tin nổi những gì chúng tôi phát hiện ra đâu.”

o O o

Lúc đó, cách bờ biển Venice chưa đầy một dặm, trên hòn đảo nhỏ có tên Lido, một chiếc Cessna Citation Mustang bóng bẩy cất cánh khỏi sân bay Nicelli và lao vút lên bầu trời đang thẫm dần lúc chạng vạng.

Chủ nhân của chiếc máy bay, nhà thiết kế trang phục lừng danh Giorgio Venci, không có trên máy bay, nhưng ông đã ra lệnh cho phi công của mình đưa vị hành khách trẻ tuổi quyến rũ đi tới bất kỳ đâu cô ấy cần.
XEM TIEP CHUONG http://truyenhiepsi.blogspot.com

Blog Truyện Hiệp Sĩ

truyenhiepsi

Truyện được sưu tầm chia sẻ trên các web miễn phí...

Tìm Kiếm Truyện

Theo dõi blog!

Nhận bài viết mới qua email. Chỉ cần nhập địa chỉ email của bạn dưới đây nếu bạn muốn đăng ký!