Tác giả: Dan Brown
--76--
Bên ngoài Quảng trường St. Mark, người phụ nữ Gypsy bán những chiếc mặt nạ Venice đang dựa vào bức tường ngoài của thánh đường để nghỉ ngơi. Như mọi khi, bà tìm đến chỗ ưa thích của mình – hốc tường nhỏ giữa hai tấm lưới kim loại trên vỉa hè – một chỗ lý tưởng để đặt số hàng nặng trịch và ngắm mặt trời lặn.
Bà đã chứng kiến nhiều chuyện trên Quảng trường St. Mark trong bấy nhiêu năm, nhưng cái sự kiện quái lạ khiến bà chú ý lúc này không phải diễn ra trên quảng trường, mà ở bên dưới. Giật mình vì một tiếng động lớn dưới chân, người phụ nữ ngó qua tấm lưới nhìn xuống một cái giếng hẹp, có lẽ sâu tới ba mét. Ô cửa sổ dưới đáy mở toang và một chiếc ghế gấp được đẩy lên từ đáy giếng, cào cào vào vìa hè.
Trước vẻ ngạc nhiên của người phụ nữ Gypsy, theo sau chiếc ghế là một cô gái xinh đẹp có mái tóc đuôi ngựa vàng óng, rõ ràng được đun lên từ phía dưới và giờ đang leo qua cửa sổ chui vào lỗ hổng nhỏ hẹp.
Cô gái tóc vàng lách người đứng dậy và lập tức ngước nhìn lên, giật bắn mình khi thấy bà Gypsy đang đăm đăm nhìn xuống qua tấm lưới. Cô gái tóc vàng đưa một ngón tay lên môi và cố mỉm cười. Sau đó cô ta mở ghế và trèo lên, vươn tay về phía lưới sắt.
Cô thấp quá, bà Gypsy nghĩ bụng. Mà cô làm cái gì vậy?
Cô gái tóc vàng tụt khỏi ghế và nói với ai đó bên trong. Mặc dù không có nhiều chỗ để đứng trong lòng giếng chật hẹp bên cạnh cái ghế, nhưng lúc này cô vẫn bước sang bên khi có người thứ hai – một người đàn ông tóc đen cao lớn mặc bộ đồ bảnh bao – tự mình chui lên khỏi tầng hầm thánh đường và lách vào đường ống chật chội.
Anh ta cũng ngước lên, nhìn thẳng vào bà Gypsy qua tấm lưới sắt. Sau đó, anh ta đổi chỗ cho cô gái tóc vàng và trèo lên chiếc ghế yếu ớt. Anh ta cao hơn, và khi vươn người, anh ta có thể tháo được cái then an ninh bên dưới tấm lưới sắt. Anh ta đứng kiễng trên mấy đầu ngón chân, đặt tay lên tấm lưới và đẩy lên trên. Tấm lưới nhấc lên một phân rồi anh ta lại phải đặt nó xuống.
“Giúp chúng tôi một tay được không?”, cô gái tóc vàng gọi với lên chỗ bà Gypsy.
Giúp các người một tay à? Bà Gypsy tự hỏi, không hề có ý định can thiệp. Các người đang làm gì nào?
Cô gái tóc vàng móc ra một chiếc ví đàn ông và rút tờ 100 euro, vẫy vẫy như một lời đề nghị. Tờ tiền còn nhiều hơn bà Gypsy kiếm được với những chiếc mặt nạ trong cả ba ngày trời. Không lạ gì chuyện mặc cả, bà bán mặt nạ lắc đầu và giơ ra hai ngón tay. Người phụ nữ tóc vàng rút ra một tờ tiền nữa.
Không tin nổi vận may của mình, bà Gypsy nhún vai đồng ý vẻ miễn cưỡng, cố gắng tỏ ra dửng dưng trong lúc nhoài xuống và kéo những thanh sắt, nhìn vào mắt người đàn ông để họ có thể hợp lực cho ăn khớp.
Khi người đàn ông đẩy thanh sắt một lần nữa, bà Gypsy kéo mạnh chúng lên bằng đôi tay đã được rèn luyện suốt nhiều năm mang vác hàng, và tấm lưới sắt bung lên nửa chừng. Đúng lúc bà nghĩ họ đã làm được thì có tiếng loảng xoảng rất to bên dưới, và người đàn ông biến mất, rơi tuột xuống giếng khi chiếc ghế gấp gẫy sập dưới chân anh ta.
Ngay lập tức tấm lưới sắt trở nên nặng trĩu trong tay bà, và bà nghĩ mình sẽ phải bỏ nó xuống, nhưng lời hứa 200 euro như tiếp thêm sức mạnh, vậy là bà cố kéo tấm lưới lên và vứt vào bên hông thánh đường, khiến nó vang lên một tiếng rất lớn.
Thở không ra hơi, bà Gypsy ngó xuống giếng chỗ hai con người đang xoắn lấy nhau và cái ghế gãy gập. Khi người đàn ông đứng dậy và phủi bụi trên người, bà Gypsy bèn cúi xuống giếng và chìa tay ra để nhận tiền.
Người phụ nữ tóc đuôi ngựa gật đầu biết ơn và giơ hai tờ giấy bạc lên quá đầu. Bà Gypsy cúi xuống nhưng vẫn còn quá xa.
Đưa tiền cho người đàn ông.
Đột nhiên trong giếng có sự náo loạn – những giọng nói giận dữ vang ầm ầm bên trong thánh đường. Người đàn ông và người phụ nữ đều hoảng hốt, bật ngược lại từ cửa sổ.
Rồi mọi thứ trở nên hỗn loạn.
Người đàn ông tóc sậm màu cúi khom xuống và ra lệnh cho cô gái đặt chân lên những ngón tay khum lại thành một bàn đạp. Cô bước lên, và anh ta đẩy mạnh lên. Cô vọt lên thành giếng, răng cắn chặt mất tờ tiền để giải phóng hai tay trong lúc vươn người cố bám lấy mép. Người đàn ông đẩy lên, cao hơn… cao hơn nữa… nâng cô cho tới khi cô bám được hai tay vào mép giếng.
Lấy hết sức, cô gái đu mình lên hẳn quảng trường giống như một người phụ nữ leo khỏi bể bơi. Cô ta dúi tiền vào tay bà Gyspy và lập tức xoay người, quỳ bên mép giếng, cúi xuống đón người đàn ông.
Đã quá muộn.
Những cánh tay rắn rỏi trong trang phục đen đang với vào giếng như những xúc tu quăng quật của một con quái vật đói mồi, tóm lấy chân người đàn ông, kéo anh ta về phía cửa sổ.
“Chạy đi, Sienna!”, người đàn ông vùng vẫy kêu to. “Chạy ngay đi!”.
Bà Gypsy nhìn thấy mắt họ nhìn nhau đầy đau đớn tiếc nuối và mọi việc kết thúc.
Người đàn ông bị kéo tuột xuống qua ô cửa sổ vào lại thánh đường.
Người phụ nữ tóc vàng trân trối nhìn xuống, mắt cô ầng ậng nước. “Em xin lỗi, Robert”, cô ấy khẽ nói. Thế rồi, sau một lúc sững lại, cô ấy nói thêm. “Vì tất cả.”
Một khắc sau, cô bò dậy, mái tóc đuôi ngựa vung vẩy khi cô lao nhanh vào ngõ hẹp Merciaria dell’Orologio, mất hút vào trung tâm Venice.
--77--
Tiếng nước vỗ mơn man nhẹ nhàng kéo Robert Langdon tỉnh lại, Anh ngửi thấy mùi thuốc vô trùng lẫn với mùi biển mằn mặn và cảm thấy thế giới đang lắc lư phía dưới mình.
Mình đang ở đâu đây?
Chỉ một lúc trước, có vẻ như vậy, anh đã bị khống chế trong cuộc vật lộn tuyệt vọng với những cánh tay mạnh mẽ kéo tuột anh ra khỏi giếng lấy sáng và lôi trở lại hầm mộ. Còn giờ đây, thật lạ lùng, anh không còn cảm thấy nền đá lạnh lẽo của nhà thờ St. Mark dưới lưng mình nữa, mà chỉ cảm nhận được một tấm nệm mềm.
Langdon mở mắt và ngó xung quanh - một gian phòng nhỏ sạch sẽ vơi một ô cửa sổ duy nhất. Chuyển động lắc lư vẫn tiếp tục.
Mình đang ở trên một con thuyền sao?
Ký ức cuối cùng của Langdon là bị một người lính mặc đồ đen đè chặt xuống nền hầm mộ và giận dữ rít lên với anh, “Đừng tìm cách chạy trốn nữa!”.
Langdon kêu ầm ĩ, cố gắng cầu cứu khi những người lính tìm cách bịt miệng anh lại.
“Chúng ta cần đưa gã ra khỏi đây”, một người lính nói với đồng bọn.
Anh chàng kia gật đầu do dự. “Cứ làm đi.”
Langdon cảm thấy những ngón tay chắc khỏe thành thục tìm động mạch và ven trên cổ anh. Sau đó, khi đã xác định được vị trí chính xác trên động mạch cảnh, những ngón tay ấy bắt đầu ép một lực rất mạnh xuống. Chỉ trong vài giây, mắt Langdon bắt đầu nhòa đi, và anh cảm thấy mình đang trôi, não không còn dưỡng khí.
Họ đang giết mình, Langdon nghĩ. Ngay ở đây, bên cạnh mộ Thánh Mark.
Mọi thứ tối sầm, nhưng dường như vẫn chưa đủ vì còn có thêm những bóng xám câm lặng xuất hiện.
Langdon không biết thời gian đã trôi qua bao nhưng lúc này thế giới bắt đầu trở lại với anh. Từ những gì anh có thể phán đoán thì anh đang ở trong một bệnh xá trên tàu. Khung cảnh vô trùng xung quanh anh cùng với mùi cồn isopropyl tạo nên một cảm giác ngờ ngợ rất lạ, cứ như thể Langdon vừa đi trọn một vòng tròn, tỉnh lại y như đêm hôm trước, trên một giường bệnh xa lạ với những ký ức không nói được lên lời.
Ý nghĩ của anh lập tức hướng đến Sienna và sự an toàn của cô. Anh vẫn còn thấy đôi mắt nâu dịu dàng của cô nhìn xuống anh, chứa đầy hối tiếc và sợ hãi. Langdon cầu mong rằng cô thoát được và sẽ tìm cách ra khỏi Venice an toàn.
Chúng ta ở nhầm quốc gia rồi, Langdon đã nói với cô, vì sững sờ nhận ra địa điểm đích thực phần mộ của Enrico Dandolo. Tòa bảo quán của tri thức thánh thiêng bí ẩn trong bài thơ không nằm ở Venice, mà ở một thế giới xa vời. Đúng như tác phẩm gia Dante đã nói, ý nghĩa của bài thơ được giấu “bên dưới lớp màn thơ phú khó hiểu”.
Langdon định giải thích mọi việc cho Sienna ngay khi họ thoát ra khỏi hầm mộ, nhưng anh không còn cơ hội nữa.
Cô ấy bỏ chạy mà chỉ biết rằng mình đã thất bại.
Langdon cảm thấy dạ dày quặn thắt.
Đại dịch vẫn ở ngoài kia… một thế giới xa vời.
Từ bên ngoài bệnh xá, Langdon nghe thấy tiếng giầy ủng vang lên rất to trong sảnh, và ngoảnh nhìn một người đàn ông mặc áo đen đang bước vào chỗ anh nằm. Vẫn là gã lính vạm vỡ đè nghiến anh xuống sàn hầm mộ. Ðôi mắt gã lạnh lẽo như đá. Bản năng của Langdon nhắc anh lùi lại khi người đàn ông tiến đến, nhưng chẳng còn chỗ nào để chạy nữa. Bất kỳ việc gì những kẻ này muốn ra tay với mình, họ đều có thể làm.
“Tôi đang ở đâu?”, Langdon hỏi, giọng cố tỏ ra thách thức hết mức.
“Trên một chiếc thuyền buông neo ngoài khơi Venice.”
Langdon nhìn tấm phù hiện xanh lá cây trên đồng phục của người đàn ông - một quả cầu có những chữ cái ECDC [51] bao quanh. Langdon chưa bao giờ nhìn thấy biếu tượng hay cụm từ viết tắt này.
“Chúng tôi cần thông tin từ anh”, người lính nói, “và chúng tôi không có nhiều thời gian”.
“Tại sao tôi phải nói gì đó cho các người chứ?”, Langdon hỏi lại. “Các người suýt giết tôi.”
“Không đến mức thế. Chúng tôi dùng một kỹ thuật vô hiệu hóa của judo gọi là shime waza… Chúng tôi không có định làm hại anh đâu.”
“Anh bắn tôi sáng nay đấy thôi!”, Langdon nói, còn nhớ rõ âm thanh rền vang khi viên đạn bắn trúng chắn bùn chiếc Trike của Sienna. “Đạn của anh suýt trúng đốt sống tôi còn gì!”
Người đàn ông nheo mắt. “Nếu tôi muốn bắn vào sống lưng anh thì tôi đã làm được ngay rồi. Tôi chỉ bắn một viên duy nhất để xuyên thủng lốp sau xe của anh, không cho các anh chạy đi thôi. Tôi được lệnh liên hệ với anh và tìm hiểu xem tại sao anh lại hành động thất thường như vậy.”
Langdon còn chưa lĩnh hội được đầy đủ những lời này thì thêm hai người lính nữa bước qua cửa, tiến lại phía giường anh nằm.
Đi giữa họ là một người phụ nữ.
Một bóng ma.
Đầy vẻ siêu trần và thuộc về thế giới khác.
Langdon lập tức nhận ra bà ấy chính là hình ảnh trong những ảo giác của anh. Người phụ nữ trước mặt anh rất đẹp, với mái tóc bạc dài và cái bùa bằng lam ngọc. Vì trước đây, bà ấy xuất hiện trong khung cảnh đáng sợ toàn những xác chết nên Langdon phải mất một lúc lâu mới tin rằng đích thực bà ấy đang đứng trước mặt mình, bằng xương bằng thịt.
“Giáo sư Langdon”, bà ấy nói, mỉm cười mệt mỏi lúc đến bên giường anh. “Tôi thấy nhẹ người vì anh không sao”. Bà ngồi xuống và bắt mạch cho anh. “Tôi nghe nói anh bị mất trí nhớ. Anh còn nhớ tôi không?”
Langdon nhìn kỹ người phụ nữ một lúc. “Tôi đã từng… thấy hình ảnh bà, mặc dù tôi không nhớ đã gặp bà.”
Người phụ nữ cúi về phía anh, vẻ mặt đầy thông cảm. “Tên tôi là Elizabeth Sinskey. Tôi là giám đốc Tổ chức Y tế Thế giới, và tôi chiêu mộ anh để giúp tôi tìm ra…”
“Một đại dịch”, Langdon nói. “Do Bertrand Zobrist tạo ra.”
Sinskey gật đầu, trông phấn khởi hẳn. “Anh còn nhớ à?”
“Không, tôi tỉnh dậy trong một bệnh viện với một cái máy chiếu nhỏ rất lạ cùng những hình ảnh về bà luôn bảo tôi hãy tìm kiếm và sẽ thấy. Đó chính là những gì tôi đang cố làm khi những người đàn ông này tìm cách giết tôi.” Langdon ra hiệu về phía những người lính.
Gã lính cơ bắp sửng cồ, rõ ràng sẵn sàng trả miếng, nhưng Elizabeth Sinskey đã vẫy tay ra hiệu cho gã im lặng.
“Giáo sư”, bà nhẹ nhàng nói, “tôi biết chắc anh bị nhầm lẫn. Là người đã lôi anh vào vụ này, chính tôi cũng hết hồn vì những gì đã xảy ra và tôi biết ơn vì anh vẫn an toàn.”
“An toàn ư?”, Langdon đáp lại. “Tôi bị mắc kẹt trên một con tàu!” Và bà cũng vậy!
Người phụ nữ tóc bạc gật đầu thông cảm. “tôi sợ rằng chứng mất trí nhớ sẽ làm đầu óc anh rối beng trước những vấn đề tôi định nói. Thế nhưng, thời gian của chúng ta rất ít, và nhiều người cần sự giúp đỡ của anh.”
Sinskey do dự, như thể không biết phải tiếp tục thế nào. “Trước hết”, bà ấy bắt đầu, “tôi cần anh hiểu rằng đặc vụ Brüder và nhóm của anh ấy chưa bao giờ cố làm hại anh cả. Họ đang trực tiếp nhận mệnh lệnh liên hệ lại với anh bất kỳ cách cần thiết nào”.
“Liên hệ lại ư? Tôi không…”
“Giáo sư, làm ơn cứ nghe thôi. Mọi thứ sẽ được làm sáng tỏ. Tôi hứa đấy.”
Langdon yên vị trở lại trên chiếc giường bệnh xá, ý nghĩ của anh xoay vòng trong lúc tiến sĩ Sinskey nói.
“Đặc vụ Brüder và người của anh ấy là một đội SRS – Hỗ trợ giám sát và phản ứng. Họ hoạt động dưới quyền Trung tâm Phòng ngừa và Kiểm soát dịch bệnh Châu Âu.”
Langdon liếc nhìn những chiếc phù hiệu ECDC trên đồng phục của họ. Phòng ngừa và Kiểm soát dịch bệnh à?
“Nhóm của anh ấy”, bà tiếp tục, “chuyên phát hiện và ngăn chặn những hiểm họa bệnh lây lan. Về cơ bản, họ là một nhóm SWAT chuyên ứng phó với các nguy cơ sức khỏe cấp tính quy mô lớn. Anh là hy vọng duy nhất của chúng tôi trong việc xác định bệnh dịch mà Zobrist đã tạo ra, vì thế khi anh biến mất, tôi giao nhiệm vụ đó cho nhóm SRS tìm kiếm anh… Tôi triệu tập họ tới Forence để hỗ trợ tôi.”
Langdon sững sờ. “Những người lính kia làm việc cho bà sao?”
Bà gật đầu. “Mượn họ từ ECDC. Tối qua, khi anh biến mất và không gọi lại, chúng tôi nghĩ có chuyện gì đó đã xảy ra với anh. Mãi cho đến tận sáng sớm nay, khi nhóm hỗ trợ kỹ thuật của chúng tôi phát hiện thấy anh kiểm tra tài khoản thư điện tử Harvard của mình thì chúng tôi mới biết anh còn sống. Đến lúc đó, lời giải thích duy nhất của chúng tôi cho cách hành xử kỳ lạ của anh là anh đã đổi phe… có thể vì được đề nghị những khoản tiền rất lớn để tìm dịch bệnh cho một ai khác.”
Langdon lắc đầu. “Chuyện đó thật phi lý!”
“Phải, nó như là một kịch bản không chắc chắn, nhưng đó là cách giải thích hợp lý duy nhất – và với nguy cơ quá cao, chúng tôi không thể đánh liều. Dĩ nhiên, chúng tôi không bao giờ nghĩ ra được anh lại đang mất trí nhớ. Khi đội hỗ trợ công nghệ của chúng tôi thấy tài khoản thư điện tử Harvard của anh đột nhiên hoạt động, chúng tôi dò theo địa chỉ IP máy tính của anh thới căn hộ ở Florence và tiến vào. Nhưng anh bỏ chạy bằng chiếc xe máy, cùng với cô gái kia, càng làm tăng sự nghi ngờ của chúng tôi rằng lúc này anh đang làm việc cho một ai đó khác.”
“Chúng tôi phóng ngay qua bà!”, Langdon ngắt lời. “Tôi nhìn thấy bà ở phía sau một xe thùng đen, có lính tráng vây quanh. Tôi nghĩ bà là người bị bắt. Có vẻ như bà bị hôn mê, giống như họ đã cho bà dùng thuốc.”
“Anh nhìn thấy chúng tôi ư?” Tiến sĩ Sinskey có vẻ rất ngạc nhiên. “Lạ nhỉ, anh nói đúng… họ cho tôi dùng thuốc.” Bà dừng lại, “nhưng là chỉ vì tôi ra lệnh cho họ làm việc đó.”
Giờ thì Langdon hoàn toàn không hiểu. Bà ấy bảo họ cho mình dùng thuốc ư?
“Có lẽ anh không còn nhớ chuyện này”, Sinskey nói, “nhưng khi chiếc C-130 của chúng ta hạ cánh tại Florence, áp suất thay đổi, và tôi bị một hiện tượng vẫn được gọi là mất thăng bằng vị trí đột phát – một chứng tai trong suy nhược mạnh mà tôi đã bị từ trước. Nó chỉ tạm thời và không nghiêm trọng, nhưng khiến cho nạn nhân bị chóng mặt và buồn nôn nên không thể tỉnh táo được. Bình thường, tôi phải đi nằm và rất buồn nôn. Nhưng chúng ta đang đối phó với cuộc khủng hoảng Zobrist, và vì thế tôi tự kê toa thuốc cho mình bằng những mũi tiêm metolopramide đều đặn mỗi giờ để giúp tôi chống nôn. Thuốc có hiệu ứng rất nặng là gây ra tình trạng uể oải, nhưng ít nhất nó giúp tôi có thể điều hành mọi việc bằng điện thoại từ phía sau xe thùng. Nhóm SRS muốn đưa tôi tới bệnh viện, nhưng tôi ra lệnh cho họ không được làm vậy cho tới khi chúng tôi liên hệ lại được với anh. Thật may, cuối cùng chứng mất thăng bằng cũng dứt trong chuyến bay đến Venice”.
Langdon nằm vật xuống giường, bực bội. Mình đã chạy trốn Tổ chức Y tế thế giới suốt cả ngày - trốn chính những người chiêu mộ mình vào cuộc.
“Giờ chúng ta phải tập trung, giáo sư”, Sinskey nói, giọng bà đầy khẩn trương. “Đại dịch của Zobrist anh có manh mối xem nó ở đâu không?” Bà nhìn anh với vẻ mặt đầy mong ngóng. “Chúng ta có rất ít thời gian.”
Nó ở rất xa, Langdon muốn nói vậy, nhưng có gì đó ngăn anh lại. Anh ngước lên nhìn Brüder, gã lính đã nổ súng vào anh sáng nay và gần như bóp nghẹt anh cách đây không lâu. Với Langdon, mọi chuyện thay đổi nhanh đến mức anh không biết phải tin vào ai nữa.
Sinskey cúi xuống, nét mặt bà vẫn rất chăm chú. “Chúng tôi có linh cảm rất mạnh mẽ rằng đại dịch ở tại Venice này. Có phải vậy không? Hãy cho chúng tôi biết chỗ nào, và tôi sẽ phái một đội vào đất liền.”
Langdon do dự.
“Thưa ngài!” Brüder lên tiếng vẻ nôn nóng. “Rõ ràng ngài biết điều gì đó… hãy cho chúng tôi biết nó ở đâu! Ngài không hiểu chuyện gì sắp xảy ra sao?”
“Đặc vụ Brüder!”, Sinskey giận dữ quát gã kia. “Đủ rồi”, bà ra lệnh, sau đó quay lại Langdon và nói khẽ. “Nghĩ đến tất cả những gì anh vừa trải qua, hoàn toàn có thể hiểu rằng anh bị mất phương hướng, và không biết tin ai.” Bà ngừng lại, nhìn sâu vào mắt anh. “Nhưng thời gian của chúng ta rất ít, và tôi đang đề nghị anh tin tưởng tôi.”
“Ông Langdon có đứng lên được không?”, một giọng nói mới vang lên.
Một người đàn ông thấp nhỏ với nước da sạm nắng xuất hiện ở ngưỡng cửa. Ông ta nhìn kỹ Langdon với vẻ bình thản đã được rèn luyện, nhưng Langdon thấy rõ sự nguy hiểm trong mắt ông ta.
Sinskey ra hiệu cho Langdon ngồi dậy. “Giáo sư, đây là một người mà tôi không định hợp tác, nhưng tình hình quá nghiêm trọng nên tôi không còn lựa chọn nào khác.”
“Theo tôi”, người đàn ông nói, đi lại phía cửa. “Có thứ các vị cần xem.”
Langdon vẫn đứng nguyên. “Ông là ai?”
Người đàn ông dừng lại và khum khum những ngón tay. “Tên tuổi không quan trọng. Anh có thể gọi tôi là Thị Trưởng. Tôi điều hành một tổ chức mà đã… tôi xin lỗi phải nói vậy, phạm sai lầm giúp Bertrand Zobrist đạt được mục đích của hắn. Giờ tôi đang cố gắng sửa chữa sai lầm đó trước khi quá muộn.”
“Ông muốn cho tôi xem thứ gì?”, Langdon hỏi.
Người đàn ông nhìn sững Langdon với ánh mắt kiên nghị. “Một thứ chắc chắn sẽ khiến anh có suy nghĩ rằng tất cả chúng ta cùng một chiến tuyến.”
--78--
Langdon theo người đàn ông sạm nắng đi qua cả một mê cung những hành lang chật chội ở sàn dưới tàu, cùng với tiến sĩ Sinskey và những người lính ECDC rồng rắn theo sau thành một hàng. Khi cả nhóm đến gần một cầu thang, Langdon hy vọng họ sẽ đi lên phía có ánh sáng ban ngày, nhưng họ lại đi sâu xuống phía dưới hơn.
Ở sâu trong bụng con tàu lúc này, người hướng dẫn đưa họ đi qua một khu vực gồm toàn những buồng kính kín mít – một số buồng có tường trong suốt và một số còn lại là tường mờ. Bên trong mỗi gian phòng cách âm đó, nhiều nhân viên đang miệt mài gõ máy tính hoặc nói điện thoại. Họ ngước nhìn nhóm người đang đi qua, trông họ đều rất cảnh giác khi thấy người lại mặt ở khu vực này của con tàu. Người đàn ông sạm nắng gật đầu và trấn an họ đi tiếp.
Nơi này là nơi nào? Langdon thắc mắc khi họ tiếp tục đi qua một loạt khu vực làm việc được thiết kế san sát.
Cuối cùng, vị chủ tàu đưa họ đến một phòng họp lớn, và tất cả đều bước vào. Khi cả nhóm đã ngồi xuống, người đàn ông ấn một cái nút, những bức tường kính đột nhiên chuyển sang mờ đục, nhốt kín họ bên trong. Langdon giật mình, vì chưa bao giờ nhìn thấy thứ gì như thế này.
“Chúng ta đang ở đâu?” Cuối cùng Langdon lên tiếng hỏi.
“Đây là tàu của tôi – The Medacium.”
“Medacium à?”, Landon hỏi. “Như trong… tên gọi Latin của Pseudologos – vị thần dối trá của người Hy Lạp à?
Người đàn ông có vẻ rất ấn tượng. “Không có nhiều người biết điều đó đâu.”
Một danh hiệu không hay tí nào, Langdon nghĩ thầm. Medacium là vị thần hắc ám cai quản tất cả những pseudologoi – những con quỷ chuyên dối trá, lừa lọc và dựng chuyện.
Người đàn ông rút ra chiếc thẻ nhớ nhỏ màu đỏ và cắm vào một ổ điện tử ở cuối phòng. Một màn hình LCD phẳng rất lớn nhấp nháy sáng lên, và các ngọn đèn trên đầu mờ đi.
Trong không khí im lặng, Langdon nghe thấy tiếng nước vỗ nhè nhẹ. Mới đầu anh nghĩ những âm thanh đó đến từ phía ngoài con tàu, nhưng sau đó anh nhận ra âm thanh ấy đến từ loa của màn hình LCD. Một hình ảnh từ từ hiện ra – một vách hang nước rỏ tong tong, được chiếu thứ ánh sáng màu đỏ lập lòe.
“Bertrand Zobrist đã tạo ra đoạn video này”, vị chủ tàu của họ lên tiếng. “Và ông ta đề nghị tôi tung nó ra trước thế giới vào ngày mai.”
Không tin nổi, Langdon trân trối nhìn đoạn phim kỳ quái – một không gian trong hang với một hồ nước để tiến gần phần nền lát gạch phủ bùn có bắt vít một tấm biển ghi TẠI NƠI NÀY, VÀO NGÀY NÀY, THẾ GIỚI THAY ĐỔI MÃI MÃI.
Tấm biển ký tên: BERTRAND ZOBRIST.
Ngày tháng chính là ngày mai.
Chúa ơi! Langdon quay sang Sinskey khuất trong bóng tối, nhưng bà ấy đang nhìn vô định xuống nền gạch, rõ ràng đã xem đoạn phim rồi, và chắc chắn không muốn xem lại lần nữa.
Giờ máy quay lia sang trái, Langdon nhìn thấy lơ lửng dưới nước là một bong bóng bằng nhựa trong suốt bập bềnh, bên trong chứa một thứ chất lỏng màu vàng nâu sền sệt. Cái quả cầu đó có vẻ được cột xuống nền nên không thể trồi hẳn lên mặt nước.
Cái quái gì vậy? Langdon nhìn kỹ cái túi căng phồng đó. Thứ chất nhầy nhụa bên trong có vẻ đang xoay chầm chậm, gần như đang cháy âm ỉ.
Langdon nín thở. Dịch bệnh của Zobrist.
“Cho dừng lại.” Sinskey nói trong bóng tối.
Hình ảnh dừng lại – một túi chất dẻo bị cột chặt lơ lửng dưới nước – một đám mây chất lỏng được bọc kín lững lờ trong không gian.
“Tôi nghĩ các vị có thể đoán được thứ đó là gì”, Sinskey nói, “Câu hỏi là, nó còn được bọc kín như vậy bao lâu nữa?” Bà đi lại phía màn hình LCD và chỉ vào một dấu vết rất nhỏ trên cái túi trong suốt. “Rất tiếc, thứ này cho chúng ta biết cái túi đó làm bằng gì. Các vị có đọc được không?”
Tim đập rộn lên, Langdon nheo mắt nhìn dòng chữ, chính là thương hiệu của nhà sản xuất: Solublon.
“Hãng sản xuất chất dẻo có thể tan trong nước lớn nhất thế giới” Sinskey nói.
Langdon cảm thấy dạ dày thắt lại. “Bà nói rằng cái túi này đang… tan dần phải không?!”
Sinskey nhăn nhó gật đầu với anh. “Chúng tôi đã liên hệ với nhà sản xuất, và nhờ đó biết rằng, thật không may họ sản xuất hàng chục loại chất dẻo kiểu này khác nhau, tan hết ở bất cứ chỗ nào từ mười phút đến mười tuần, tùy cách sử dụng. Tốc độ phân hủy cũng có chút thay đổi tùy theo loại nước và nhiệt độ, nhưng chúng tôi biết chắc rằng Zobrist tính toán rất kỹ những nhân tố này”. Bà ngừng lại. “Chúng tôi tin rằng cái túi này sẽ tan hết vào…”
“Ngày mai”, Thị Trưởng chen ngang. “Ngày mai là ngày Zobrist khoanh tròn trên cuốn lịch của tôi. Và cũng là ngày ghi trên tấm biển.”
Langdon ngồi im trong bóng tối, không nói lên lời.
“Cho anh ấy xem nốt đi”, Sinskey nói.
Trên màn hình LCD, hình ảnh video trở lại, giờ máy quay lia theo phần nước được chiếu sáng vào khoảng tối của hang. Langdon biết chắc đây là địa điểm được nói đến trong bài thơ. Cái đầm không thể phản chiếu ánh sao.
Cảnh tượng này gợi nhớ đến những hình dung của Dante về địa ngục – dòng sông Cocytus chảy qua những hang hốc của âm ty.
Cho dù cái đầm này tọa lạc ở đâu thì nước của nó cũng được bưng kín trong những bức tường trơn tuột mà theo Langdon cảm nhận, đó là do bàn tay con người làm ra. Anh cũng cho rằng máy quay chỉ mới hé lộ một góc nhỏ của không gian rộng lớn bên trong, và điều này được củng cố nhờ sự hiện diện của những cái bóng lờ mờ nằm dọc trên tường. Những cái bóng ấy rất lớn, có hình trụ và ở vị trí cách đều nhau.
Những cột trụ, Langdon nhận ra như vậy.
Trần hang được đỡ bằng hàng cột trụ.
Đầm nước này không phải nằm trong một cái hang, mà trong một gian phòng rộng.
Hãy lần sâu vào tòa cung điện bị chìm…
Anh chưa kịp nói lời nào thì đã phải chú ý đến sự xuất hiện của một cái bóng mới trên tường – một hình người với cái mũ mỏ chim dài.
Ôi, lạy Chúa lòng lành…
Cái bóng bắt đầu nói, từ ngữ của nó bị bóp méo, thành những tiếng thì thầm lan trên mặt nước theo nhịp thơ rất lạ.
“Ta là sự cứu rỗi. Ta là Vong linh.”
Mấy phút tiếp theo, Langdon đã phải xem đoạn phim kinh dị nhất mà anh từng thấy. Rõ ràng, những đam mê của một thiên tài điên rồ, lời độc thoại của Bertrand Zobrist – được truyền tải dưới lớp vỏ của một bác sĩ dịch hạch – có rất nhiều dẫn giải đến Hỏa ngục của Dante và mang theo một thông điệp rõ ràng: Tăng trưởng dân số đang vượt ra khỏi tầm kiểm soát, và sự tồn vong của nhân loại đang như chỉ mành treo chuông.
Trên màn hình, giọng nói vẫn vang lên:
“Không làm gì cả chính là chào đón địa ngục của Dante… tù túng và đói khát, ngập chìm trong tội lỗi. Và vì thế ta mạnh dạn hành động. Một số kẻ sẽ co rúm lại sợ hãi, nhưng sự cứu rỗi nào cũng có giá của nó. Một ngày nào đó thế giới sẽ há hốc mồm trước vẻ đẹp của thứ ta hiến tế.”
Langdon giật mình khi đích thân Zobrist xuất hiện, phục sức như một bác sĩ dịch hạch, và sau đó lột mặt nạ của mình. Langdon nhìn sững bộ mặt dễ sợ và đôi mắt xanh lục hoang dại, nhận ra rằng cuối cùng anh cũng nhìn thấy bộ mặt của gã đàn ông đang là trung tâm của cuộc khủng hoảng này. Zobrist lại bắt đầu lải nhải về tình yêu của hắn với một người nào đó mà hắn gọi là nguồn cảm hứng cho hắn.
“Ta trao gửi tương lai vào đôi tay dịu dàng của em. Công trình bên dưới của ta đã hoàn thành. Và giờ đây đã đến lúc ta leo trở lại thế giới bên trên… và lại ngắm nhìn những vì sao.”
Khi đoạn video kết thúc, Langdon nhận ra những lời nói cuối cùng của Zobrist gần như lặp lại những lời cuối cùng trong Hỏa ngục của Dante.
Trong bóng tối của phòng họp, Langdon nhận ra rằng tất cả những khoảnh khắc sợ hãi mà anh trải qua hôm nay đều kết tinh thành một thực tế đáng sợ duy nhất.
Giờ đây Bertrand Zobrist có hẳn một khuôn mặt… và một giọng nói.
Đèn phòng họp lại sáng lên, Và Langdon nhìn thấy tất cả mọi ánh mắt đều dồn về phía anh đầy mong ngóng.
Vẻ mặt Elizabeth Sinskey dường như đông cứng khi bà đứng lên và bồn chồn mân mê cái bùa của mình. “Giáo sư, rõ ràng thời gian của chúng ta rất ngắn. Tin tức tốt lành duy nhất cho đến lúc này là chúng ta không có trường hợp phát hiện mầm bệnh nào, hay có tin báo về bệnh, cho nên chúng ta cho rằng cái túi Solublon lơ lửng kia vẫn còn nguyên vẹn. Nhưng chúng ta không biết tìm nó ở đâu. Mục tiêu của chúng ta là vô hiệu hóa mối đe dọa này bằng cách cách ly cái túi trước khi nó vỡ bung. Cách duy nhất chúng ta có thể làm được việc đó, dĩ nhiên, là tìm ra vị trí của nó ngay lập tức.”
Giờ đây đặc vụ Brüder đứng dậy, đăm đăm nhìn Langdon. “Chúng tôi đinh ninh rằng anh đến Venice vì anh biết rằng đây là nơi Zobrist giấu bệnh dịch của hắn.”
Langdon nhìn đám người trước mặt mình, những gương mặt căng thẳng vì sợ hãi, tất cả mọi người đều hy vọng một phép màu, và anh ước gì mình có những tin tức tốt lành hơn để nói cho họ biết.
“Chúng ta đã ở nhầm quốc gia rồi”, Langdon tuyên bố. “Những gì các vị tìm kiếm cách đây ngót một nghìn dặm cơ.”
o O o
Ruột gan Langdon dội lại tiếng động cơ đều đều của tàu The Mendacium khi con tàu tăng tốc lượn một vòng rộng, hướng trở lại sân bay Venice. Trên tàu, tất cả bắt đầu nháo nhào. Thị Trưởng hối hả lớn tiếng ra lệnh cho người của mình. Elizabeth Sinskey vớ lấy điện thoại và gọi phi công chiếc máy bay vận tải C-130 của WHO, yêu cầu họ sẵn sàng bay ra khỏi sân bay Venice càng sớm càng tốt. Và đặc vụ Brüder lập tức ngồi trước máy tính xách tay để tìm kiếm một nhóm quốc tế mà anh ta có thể phối hợp tại đích đến cuối cùng.
Một thế giới xa vời.
Giờ Thị Trưởng quay lại phòng họp và gấp gáp nói với Brüder. “Có thêm tin gì từ giới chức Venice chưa?”
Brüder lắc đầu. “Không có dấu vết gì. Họ đang tìm, nhưng Sienna Brooks đã biến mất.”
Langdon hiểu ngay. Họ đang tìm Sienna sao?
Sinskey kết thúc cuộc gọi và đến nói chuyện cùng. “Chưa tiến triển gì trong việc tìm kiếm cô ta sao?”
Thị Trưởng lắc đầu. “Nếu bà đồng ý, tôi nghĩ WHO cần cho phép sử dụng sức mạnh nếu cần thiết để đưa cô ta về.”
Langdon bật dậy. “Tại sao?! Sienna Brooks không liên quan gì đến chuyện này!”
Đôi mắt đen của Thị Trưởng quay sang Langdon. “Giáo sư, có một vài chuyện tôi phải nói với anh về cô Brooks.”
--79--
Chen qua đám đông khách du lịch trên cầu Rialto, Sienna Brooks bắt đầu chạy, gấp gáp lao về phía tây dọc theo lối đi Fondamenta Vin Castello phía trước con kênh.
Họ đã bắt được Robert.
Cô vẫn còn thấy ánh mắt tuyệt vọng của anh ngước nhìn lên chỗ mình khi những người lính kéo tuột anh xuống khỏi giếng lấy sáng và lôi vào hầm mộ. Cô biết chắc rằng những người bắt giữ anh sẽ nhanh chóng thuyết phục anh, bằng cách này hay cách khác, tiết lộ mọi điều anh đã đoán ra.
Chúng ta ở nhầm quốc gia rồi.
Thế nhưng, tai hại hơn nữa là cô biết rõ những người bắt giữ anh sẽ không phí thời gian tiết lộ cho Langdon biết bản chất thật sự của tình hình.
Em rất xin lỗi, Robert.
Vì mọi chuyện.
Xin hiểu cho, em không còn lựa chọn nào.
Thật lạ, Sienna đã thấy nhớ anh mất rồi. Ở đây, giữa đám đông người tại Venice, cô vẫn cảm thấy sự cô độc quen thuộc.
Cái cảm giác ấy chẳng có gì mới cả.
Từ thời niên thiếu, Sienna Brooks đã luôn cảm thấy đơn độc.
Lớn lên với trí thông minh xuất chúng, Sienna có cả một thời tuổi trẻ luôn cảm thấy mình là kẻ xa lạ ở một vùng đất xa lạ - một kẻ ngoại lai bị mắc kẹt trong một thế giới đơn độc. Cô đã cố gắng kết bạn, nhưng bạn bè đồng trang lứa đều chỉ biết đắm đuối với những thứ phù phiếm mà cô không hề quan tâm. Cô cố gắng tôn trọng những người hơn tuổi, nhưng hầu hết người lớn dường như đều chẳng khác gì những đứa trẻ đang già đi, thiếu ngay cả kiến thức cơ bản nhất về thế giới quanh họ, và tệ nhất là họ thiếu thái độ tò mò hay quan tâm đến thế giới ấy.
Mình cảm thấy mình chẳng thuộc về nơi nào cả.
Và vì thế Sienna Brooks học cách trở thành một bóng ma. Vô hình. Cô học cách làm một kẻ biết thích nghi, một diễn viên, phô bày một gương mặt khác hẳn giữa đám đông. Niềm đam mê thời niên thiếu của cô dành cho sân khấu bắt nguồn từ những gì sẽ trở thành giấc mơ suốt đời của cô, đó là biến thành một người khác, cô biết rõ như vậy.
Một người bình thường.
Vai diễn trong vở Giấc mộng đêm hè của Shakespeare giúp cô cảm thấy hòa nhập, bởi những diễn viên đã trưởng thành không hề tự phụ mà luôn ủng hộ, giúp đỡ cô. Tuy nhiên, niềm vui thích của cô không kéo dài lâu, nó tan biến ngay khi cô rời sân khấu vào đêm mở màn và đối diện với cả đám người của truyền thông với những cặp mắt hiếu kỳ, trong khi các bạn diễn của cô lặng lẽ lẻn ra khỏi cửa sau mà không bị chú ý.
Lên bảy tuổi, Sienna đã đọc sách đủ nhiều để có thể chẩn đoán được mình mắc phải căn bệnh trầm cảm. Khi cô nói cho cha mẹ mình, họ dường như chết lặng, vì họ luôn biết con gái mình không được bình thường. Tuy nhiên, họ vẫn gửi cô tới một bác sĩ tâm thần. Bác sĩ hỏi cô rất nhiều câu hỏi mà chính Sienna đã tự hỏi mình, và rồi ông ấy kê một dơn thuốc gồm amitriptyline và chlordiazepoxide [52].
Sienna nổi khùng và nhảy khỏi ghế. “Amitriptyline ư?!”, cô thách thức, “Cháu muốn hạnh phúc hơn – không phải làm xác sống!”
Vị bác sĩ tâm thần, quả không hổ danh, vẫn rất bình tĩnh trước cơn giận dữ của cô bé và lại nêu ra gợi ý thứ hai. “Sienna, nếu cháu không muốn dùng thuốc, chúng ta có thể thử một phương pháp tổng quát hơn.” Ông ấy ngừng lại. “Có vẻ như cháu đang bị kẹt trong vòng tròn luẩn quẩn với suy nghĩ về bản thân cũng như cho rằng cháu không thuộc về thế giới này.”
“Đúng như vậy”, Sienna đáp. “Cháu đã cố không như vậy, nhưng cháu không thể!”
Ông ấy mỉm cười bình tĩnh. “Dĩ nhiên cháu không thể ngừng được. Bộ óc con người không thể thôi suy nghĩ. Tâm hồn luôn cần những cảm xúc, và nó sẽ tiếp tục tìm kiếm nhiên liệu cho tình cảm đó – tốt hoặc xấu. Vấn đề là cháu đang cấp cho nó không đúng nhiên liệu nó cần.”
Sienna chưa bao giờ nghe ai nói về tư duy với những thuật ngữ máy móc như vậy, và cô lập tức thấy tò mò. “Làm thế nào cháu cấp cho nó một loại nhiên liệu khác được?”
“Cháu cần thay đổi mối quan tâm của mình”, ông ấy nói. “Hiện tại, cháu chủ yếu nghĩ về bản thân. Cháu tự hỏi tại sao cháu không thích hợp… và có chuyện gì không ổn với cháu.”
“Đúng thế ạ”, Sienna lại nói, “nhưng cháu chỉ cố giải quyết vấn đề. Cháu cố gắng thích nghi. Cháu không thể giải quyết vấn đề nếu cháu không nghĩ về nó”.
Ông ấy bật cười. “Bác tin rằng nghĩ về một vấn đề… chính là vấn đề của cháu.” Ông bác sĩ gợi ý rằng cô thử thay đổi mối quan tâm khỏi bản thân mình và các vấn đề của chính mình, hướng sự chú ý đến thế giới xung quanh và những vấn đề của nó.
Đó chính là lúc mọi thứ thay đổi.
Cô bắt đầu dồn hết mọi năng lực, không phải vào nỗi chán nản bản thân, mà vào việc thương cảm những người khác. Cô bắt đầu một sáng kiến mang tính bác ái, phân phát súp tại các khu nhà tạm cho người vô gia cư, và đọc sách cho người mù. Thật kỳ lạ, không ai trong số những người Sienna giúp đỡ có vẻ thấy rằng cô khác thường cả. Họ chỉ tỏ lòng biết ơn người đã quan tâm họ.
Sienna làm việc chăm chỉ hơn mỗi tuần, gần như không ngủ vì nhận ra rằng có rất nhiều người cần sự giúp đỡ của cô.
“Sienna, từ từ thôi!”, mọi người khuyên can cô. “Cô không thể cứu cả thế giới được đâu!”
Nói ra điều ấy mới kinh khủng làm sao.
Qua những hành động vì cộng đồng, Sienna được tiếp xúc với vài thành viên của một nhóm nhân đạo địa phương. Khi họ mời cô tham gia với họ trong một chuyến đi dài cả tháng tới một trong những thành phố đông đúc nhất thế giới, cô đã nắm lấy cơ hội ngay.
Sienna cứ ngỡ họ sẽ đi giúp những ngư dân hoặc nông dân nghèo ở thôn quê, được thăm xứ sở có vẻ đẹp địa lý thần tiên, hay những vùng đáy biển rực rỡ và những đồng bằng đẹp mê hồn. Nhưng khi tới nơi, Sienna chỉ biết há hốc miệng vì hãi hùng. Cô chưa bao giờ thấy cảnh nghèo khó đến mức độ này.
Làm thế nào một người có thể làm ra sự khác biệt được?
Khi Sienna cho một người ăn thì có hàng trăm người khác nhìn chòng chọc cô với cặp mắt sầu não. Thành phố này có những vụ kẹt xe dài đến hàng tiếng, lại bị ô nhiễm nặng, và tình trạng kinh doanh tình dục kinh khủng, với công nhân tình dục chủ yếu là trẻ em, nhiều em bị chính bố mẹ bán vào các ổ chứa với niềm an ủi rằng ít nhất con cái họ cũng sẽ được cho ăn uống.
Trong môi trường hỗn loạn của nạn mại dâm trẻ em, ăn mày, móc túi và tệ hơn nữa, Sienna thấy mình đột nhiên như tê liệt. Tất cả mọi thứ xung quanh cô, cô đều thấy nhân tính bị lấn át bởi bản năng nguyên thủy trước sự tồn tại. Khi đối diện với tuyệt vọng… con người trở thành loài vật.
Toàn bộ tâm trạng chán nản u uất lại ồ ạt tràn về với Sienna. Cô đột nhiên hiểu ra nhân loại là thế nào – một giống loài bên bờ vực.
Mình nhầm rồi, cô nghĩ. Mình không thể cứu được thế giới.
Như hóa điên, cô vụt bỏ chạy qua các đường phố, len lách qua đám đông, xô ngã họ, đạp lên họ, tìm kiếm một không gian thoáng đãng.
Mình đang chết ngạt vì thịt người!
Lúc bỏ chạy, cô lại cảm thấy những cặp mắt đang nhìn mình. Cô không còn hòa nhập nữa. Cô cao ráo và có nước da trắng trẻo với mái tóc đuôi ngựa vàng óng ả vung vẩy sau lưng. Những gã đàn ông chòng chọc nhìn cô như thể cô đang trần truồng.
Cuối cùng, khi hai chân rã rời, cô không còn biết mình đã chạy được bao xa hay đi đến đâu nữa. Sau khi lau sạch nước mắt và bụi bẩn, cô nhận ra mình đang đứng ở một khu ổ chuột – một khu phố làm bằng những mảnh tôn lượn sóng, bìa cứng dựng lên và buộc lại với nhau. Xung quanh cô, những tiếng khóc của trẻ nhỏ và mùi hôi thối của chất thải người ngập ngụa không khí.
Mình vừa chạy qua cánh cổng địa ngục.
“Cô em”, một giọng nói bỉ ổi vang lên sau lưng cô. “Giá bao nhiêu?”
Sienna quay người lại, thấy ba gã thanh niên đang tiến lại, hau háu như lũ sói. Cô lập tức hiểu rằng mình đang gặp nguy hiểm và cô cố gắng lùi lại, nhưng chúng đã quây lấy cô, như những con thú săn mồi cùng đi săn theo đàn.
Sienna hét lên cầu cứu, nhưng chẳng có ai chú ý đến tiếng cô. Cách đó chỉ hơn bốn mét, cô nhìn thấy một bà già đang ngồi trên một lốp xe, gọt một củ hành già bằng con dao hoen gỉ. Bà già thậm chí không hề ngước lên khi Sienna kêu cứu.
Khi lũ kia tóm và kéo cô vào một cái lán nhỏ, Sienna còn không biết chuyện gì đang xảy ra, và hoàn toàn bị nỗi sợ hãi lấn át. Cô kháng cự bằng mọi khả năng có thể, nhưng chúng rất khỏe, nhanh chóng vật cô xuống một tấm nệm bẩn thỉu, cũ kỹ.
Chúng xé toang áo cô, cào cấu làn da mềm mại của cô. Khi cô kêu thét, chúng nhét chiếc áo rách của cô vào sâu trong miệng cô đến mức cô nghĩ mình sẽ chết nghẹn. Rồi chúng lật sấp cô xuống, ấn mặt cô vào tấm đệm hôi hám.
Sienna Brooks luôn cảm thấy thương xót những sinh linh ngu xuẩn cứ đi tin vào Chúa trong cái thế giới đầy rẫy đau khổ này, nhưng khi ấy chính cô lại cầu nguyện, cầu nguyện bằng tất cả trái tim mình.
Xin Chúa hãy giải thoát con khỏi lũ quỷ này.
Thậm chí khi cầu nguyện, cô vẫn nghe thấy lũ đàn ông cười, chọc ghẹo trong lúc những bàn tay nhớp nhúa kéo tuột chiếc quần bò của cô xuống đôi chân đang cố vùng vẫy. Một gã trong số đó leo lên lưng cô, mồ hôi nhoe nhoét và nặng ghê gớm, hơi thở của hắn như thấm vào da thịt cô.
Mình là trinh nữ, Sienna nghĩ. Đây là chuyện sẽ xảy ra với mình sao.
Đột nhiên gã đàn ông trên lưng cô tuột xuống, những tiếng cười cợt chọc ghẹo biến thành những tiếng rú giận dữ và khiếp hãi. Thứ mồ hôi nóng hổi lăn trên lưng Sienna đột nhiên phun mạnh lên tấm đệm thành những giọt đỏ rực.
Khi Sienna lật người lại để xem chuyện gì xảy ra, cô thấy bà già với củ hành gọt dở và con dao gỉ đang đứng phía trên kẻ tấn công cô, lúc này máu me đầm đìa phun ra từ sau lưng.
Bà già trừng mắt đầy hăm dọa với hai gã còn lại, tay vung vẩy con dao đẫm máu trong không khí cho đến khi ba gã vội vàng bỏ chạy.
Không nói một lời, bà già giúp Sienna lấy lại quần áo và mặc vào.
“Salamat”, Sienna nói khẽ trong nước mắt. “Cám ơn bà.”
Bà già vỗ vào tai, ra ý bà bị điếc.
Sienna chắp hai tay, nhắm mắt, và cúi đầu kính cẩn. Khi cô mở mắt ra, bà già đã đi mất.
Sienna rời khỏi đất nước ấy ngay lập tức, thậm chí còn không chào tạm biệt những thành viên khác của nhóm. Cô không bao giờ nói đến chuyện đã xảy ra với mình. Cô hy vọng rằng việc lờ đi sự cố đó sẽ khiến nó chóng phai nhạt, nhưng điều đó dường như chỉ càng thêm tệ hại. Nhiều tháng sau, cô vẫn bị những cơn hoảng hốt ám ảnh về đêm, và cô không còn cảm thấy an toàn ở bất kỳ nơi nào nữa. Cô học võ, và mặc dù nhanh chóng thành thạo kỹ năng điểm mạch [53] chết người, cô vẫn cảm thấy đầy rủi ro ở mọi nơi mình đến.
Cảm giác chán nản trở lại, còn tăng lên gấp bội, và cuối cùng cô không ngủ được nữa. Mỗi lần chải đầu, cô lại nhận thấy từng mảng tóc rụng xuống, ngày một nhiều thêm. Cô vô cùng sợ hãi khi thấy chỉ trong vòng vài tuần, cô đã trọc nửa đầu, có những triệu chứng mà cô tự chẩn đoán là telegenic effluvium – hiện tượng rụng tóc liên quan đến căng thẳng và không có cách chữa trị nào khác ngoài việc xử lý chính tình trạng đó. Mỗi lần ngắm mình trong gương, cô lại nhìn cái đầu đang hói dần và cảm thấy tim mình đập loạn lên.
Mình trông như một mụ già!
Cuối cùng, cô không còn lựa chọn nào khác ngoài việc cạo trọc đầu. Ít nhất trông cô cũng không còn già nữa. Đơn giản là trông cô ốm yếu thôi. Không muốn giống như một bệnh nhân ung thư, cô mua một bộ tóc giả, vấn thành kiểu tóc đuôi ngựa, và ít nhất trông giống như cô khi trước.
Tuy nhiên, trong lòng Sienna Brooks đã thay đổi hẳn.
Mình đã bị hủy hoại.
Với cố gắng tuyệt vọng nhằm bỏ lại cuộc đời mình phía sau, cô tới Mỹ và học trường y. Cô luôn thích ngành y khoa, và hy vọng rằng làm một bác sĩ sẽ khiến cô cảm thấy mình đang cống hiến, như vậy ít nhất cô cũng có thể làm việc gì đó để làm dịu nỗi đau của cơ thế giới nhiễu nhương này.
Mặc dù giờ học dài nhưng Sienna có thể tiếp thu mọi kiến thức rất dễ dàng, do đó khi các bạn cùng lớp bận học thì cô tìm một việc làm bán thời gian để kiếm thêm chút tiền. Tuy không phải trong kịch Shakespeare, nhưng những kỹ năng và ngôn ngữ và ghi nhớ giúp cô trút bỏ cảm giác mình đang làm việc, mà thay vào đó là đang diễn xuất, việc này giống như một nơi ẩn náu giúp Sienna có thể quên đi mình là ai và trở thành một người khác.
Là bất cứ ai khác.
Sienna đã cố gắng lẩn tránh nhân dạng của mình kể từ lần đầu tiên biết nói. Khi còn bé, cô đã né tránh không dùng tên thật, Felicity, mà dùng tên đệm, Sienna. Felicity nghĩa là “vận may”, và cô biết mình chẳng hề được như vậy.
Hãy dừng tập trung vào những vấn đề của chính mình, cô tự nhắc nhở. Hãy tập trung vào vấn đề của thế giới.
Những gì Sienna từng chứng kiến trong chuyến đi vừa qua đã khơi dậy trong cô một mối lo về tình trạng quá đông đúc và vấn đề dân số thế giới. Chính khi đó cô phát hiện ra những bài viết của Bertrand Zobrist, một chuyên gia di truyền học đã đề xuất một số lý thuyết rất tiến bộ về dân số thế giới.
Anh ấy là một thiên tài, cô nhận ra như vậy khi đọc các tác phẩm của ông ta. Sienna chưa bao giờ có cảm giác như vậy về người khác, và càng đọc Zobrist, cô càng cảm thấy như thể mình đang nhìn thấu trái tim của một con người chung chí hướng. Bài viết “Bạn không thể cứu thế giới” của ông khiến Sienna nhớ về những gì mọi người thường nói với cô lúc bé, nhưng Zobrist tin vào điều ngược lại.
Bạn CÓ THỂ cứu được thế giới, Zobrist viết. Nếu không phải là bạn, thì là ai? Nếu không phải lúc này thì là khi nào?
Sienna nghiên cứu kỹ những phương trình toán học của Zobrist, tìm hiểu những dự đoán của ông ta về một thảm họa theo thuyết Malthus cùng sự diệt vong sắp tới của loài người. Đầu óc cô ham thích những phỏng đoán trù vận, nhưng cô cảm thấy mức độ căng thẳng của mình tăng lên khi nhìn thấy toàn bộ tương lai trước mắt được đảm bảo bằng những phép toán, rõ ràng là không thể tránh khỏi.
Tại sao không ai khác nhìn thấy điều này đang xảy đến?
Mặc dù thấy kinh sợ trước những ý tưởng của ông ta, Sienna vẫn bị ám ảnh bởi Zobrist, xem video những bài diễn giải của ông ta, đọc mọi thứ ông ta viết. Khi Sienna nghe tin ông ta có một chương trình nói chuyện ở Hoa Kỳ, cô biết mình phải tới gặp ông ta. Và đó là đêm toàn bộ thế giới của cô thay đổi.
Một nụ cười nở trên gương mặt cô, một khoảnh khắc hạnh phúc hiếm hoi, và cô lại hình dung ra cái buổi tối kỳ diệu – một buổi tối cô còn nhớ rõ cách đây chỉ vài giờ lúc đang ngồi trên tàu hỏa cùng Langdon và Ferris.
Chicago. Trận bão tuyết.
Tháng Giêng, sáu năm về trước… nhưng vẫn có cảm giác như mới hôm qua. Mình đang lê bước trên những đống tuyết trắng dọc đại lộ Magnifcent Mile hút gió, cổ áo dựng đứng lên trong cơn nhòa trắng chói mắt. Dù lạnh, mình vẫn tự nhủ rằng chẳng có gì ngăn mình đi tới đích đến. Tối nay là cơ hội mình được nghe Bertrand vĩ đại nói chuyện riêng.
Hội trường gần như vắng tanh khi Bertrand lên sân khấu, và anh ấy cao… rất cao… với đôi mắt màu lục lanh lợi sâu thẳm như nắm bắt toàn bộ bí mật của thế giới.
“Vứt cha cái khán phòng trống trơn này đi thôi”, anh ấy nói. “Chúng ta tới quán rượu nào!”
Và rồi bọn mình đến đó, chỉ có một nhúm, trong một không gian buồng yên tĩnh, trong khi anh ấy nói về di truyền học, về dân số, về niềm say mê mới nhất của anh ấy – Siêu nhân học.
Càng uống, mình càng cảm thấy như thể mình đang được gặp gỡ riêng một ngôi sao nhạc rock vậy. Mỗi lần Zobrist liếc nhìn mình, đôi mắt xanh lục của anh ấy lại làm dấy lên trong mình một cảm giác hoàn toàn khác lạ - một ham muốn nhục dục sâu thẳm.
Đó là một cảm giác hoàn toàn mới mẻ với mình.
Rồi chỉ còn lại chúng mình.
“Cảm ơn anh vì buổi tối nay”, mình nói với anh ấy, hơi ngà ngà vì quá chén. “Anh đúng là một giáo viên tuyệt vời.”
“Lại tâng bốc phải không?”, Zobrist mỉm cười và ghé lại gần hơn, giờ chân bọn mình đã chạm nhau. “Điều đó sẽ đưa em đi tới mọi nơi đấy.”
Chuyện tán tỉnh rõ ràng không thích hợp tí nào nhưng đó là một đêm gió tuyết tại một khách sạn vắng vẻ ở Chicago, và có cảm giác như cả thế giới ngừng lại.
“Vậy em nghĩ gì nào?”, Zobrist nói. “Uống với anh vài ly tại phòng anh nhé?”
Mình như đông cứng lại, biết rõ chắc chắn mình trông giống như một con hươu trước ánh đèn pha. Mình không biết làm việc này như thế nào!
Đôi mắt của Zobrist hấp háy ân cần. “Để anh đoán nhé”, anh ấy thì thào. “Em chưa bao giờ ở cùng với một người đàn ông nổi tiếng.”
Mình cảm thấy máu dồn lên mặt, cố gắng dấu đi những cảm xúc dâng trào – xấu hổ, phấn khích, sợ hãi. “Thực ra, nói rất thật”, mình nói với anh ấy, “em chưa bao giờ ở cùng bất kỳ người đàn ông nào”.
Zobrist mỉm cười và nhích lại sát hơn. “Anh không biết chắc em đang chờ đợi điều gì, nhưng hãy để anh là người đầu tiên của em.”
Khoảnh khắc ấy, mọi nỗi sợ hãi và thất vọng nhục dục quái lạ từ thời niên thiếu của mình biến mất, như bốc hơi vào màn đêm gió tuyết.
Thế rồi, mình trần truồng trong vòng tay anh ấy.
“Thư giãn đi, Sienna”, anh ấy thì thầm, và sau đó, với đôi bàn tay kiên nhẫn, anh ấy mơn trớn cơ thể ngây dại của mình và mang lại những cảm xúc mình chưa bao giờ hình dung chúng có thể tồn tại.
Trong vòng tay ôm ấp của Zobrist, mình cảm thấy như thể mọi thứ trên thế giới đều đâu vào đấy, và mình biết cuộc đời mình có mục đích.
Mình đã tìm thấy Tình yêu.
Và mình sẽ đi theo nó tới bất kỳ đâu.
