Hỏa Ngục: SỐ 16

http://truyenhiepsi.blogspot.com

Tác giả: Dan Brown


--63--

Lúc này Robert Langdon vừa hoàn thành việc ghi lại đoạn thông điệp xoáy trôn ốc từ chiếc mặt nạ người chết ra giấy để có thể phân tích nó kỹ hơn. Sienna và bác sĩ Ferris tụm lại hỗ trợ, và Langdon phải cố hết sức để không chý ý đến việc Ferris cứ liên tục gãi và thở dốc.

Anh ta không sao, Langdon nhủ thầm, cố tập trung vào những dòng thơ trước mặt mình.

“Ôi những người bị ám ảnh về tri thức vững vàng,

hãy làm theo lời dạy giấu ở đây…

bên dưới lớp màn thơ phú khó hiểu.”

“Như tôi đã nói lúc trước”, Langdon bắt đầu, “Khổ mở đầu trong bài thơ của Zobrist lấy nguyên văn từ Hỏa ngục của Dante một lời cảnh báo với độc giả rằng những câu chữ ấy mang một ý nghĩa sâu xa hơn”.

Tác phẩm đầy ngụ ý của Dante có vô vàn những luận giải được giấu kỹ về tôn giáo, chính trị và triết học đến mức Langdon thường gợi ý sinh viên của mình rằng thi hào người Ý này cần được nghiên cứu nhiều như Kinh Thánh – đọc thật kỹ các dòng để cố gắng hiểu ý nghĩa sâu xa hơn.

“Các học giả về phúng dụ thời Trung cổ”, Langdon nói tiếp, “nhìn chung chia những phân tích của họ thành hai hạng mục – 'văn bản' và 'hình ảnh'… Văn bản là nội dung đúng nghĩa đen của tác phẩm, còn hình ảnh là thông điệp mang tính biểu tượng”.

“Được rồi”, Ferris hào hứng nói. “Vậy thực tế rằng nhà thơ bắt đầu với dòng thơ này…”

“Tức là”, Sienna xen vào, “việc đọc qua của chúng ta chỉ lật mở một phần câu chuyện. Nghĩa thực có thể ẩn giấu”.

“Đúng, đại loại như thế đấy.” Langdon đưa mắt trở lại văn bản và tiềp tục đọc to.

“Hãy tìm gã tổng trấn bội bạc của Venice,

kẻ cắt rời những đầu ngựa…

và moi xương cả người mù lòa,”

“Chà”, Langdon nói, “tôi không chắc về những con ngựa không đầu và xương của kẻ mù lòa, nhưng nghe như thể chúng ta cần phải tìm một vị tổng trấn cụ thể”.

“Em cho rằng… ngôi mộ của một tổng trấn chăng?”, Sienna hỏi.

“Hay một bức tượng hoặc chân dung?”, Langdon đáp lại. “Đã nhiều thế kỷ không còn các tổng trấn.”

Tổng trấn của Venice cũng tương đương với công tước của các thành bang nước Ý khác, và hơn một trăm vị đã từng cai trị Venice trong suốt cả một nghìn năm, bắt đầu từ năm 697 sau Công nguyên. Dòng dõi của họ kết thúc cuối thế kỷ XVIII với cuộc chinh phạt của Napoleon, nhưng vinh quang và quyền lực của họ vẫn là chủ đề mà nhiều sử gia vô cùng say mê.

“Như hai người có thể đã biết”, Langdon nói, “hai điểm du lịch phổ biến nhất ở Venice - Dinh Tổng trấn và Thánh đường St.Mark - đều được các tổng trấn xây dựng cho chính mình. Nhiều người trong số họ được an táng ngay trong đó”.

“Và anh có biết”, Sienna hỏi, mắt nhìn bài thơ, “liệu có vị tổng trấn nào được coi là đặc biệt nguy hiểm không?”.

Langdon cúi nhìn dòng thơ đang được nghiên cứu. Hãy tìm gã tổng trấn bội bạc của Venice. “Anh không biết ai cả, nhưng bài thơ không dùng từ 'nguy hiểm', mà dùng từ 'bội bạc'. Có một sự khác biệt, ít nhất trong thế giới của Dante. Bội bạc là một trong Bảy Trọng tội - thực tế là tội nặng nhất - bị trừng phạt tại tầng địa ngục thứ Chín và cũng là cuối cùng.”

Bội bạc, theo định nghĩa của Dante, là hành vi phản bội một người yêu thương. Ví dụ khét tiếng nhất trong lịch sử về tội này chính là Judas phản bội Jesus đáng kính, một hành động Dante khinh bỉ đến mức tống Judas xuống khu vực trong cùng của hỏa ngục - một khu vực được đặt tên Judecca, theo tên của gã cư dân nhục nhã nhất.

“Hiểu rồi”, Ferris nói, “như vậy chúng ta đang tìm một vị tổng trấn phạm tội bội bạc”.

Sienna gật đầu tán thành. “Điều đó sẽ giúp chúng ta hạn chế được danh sách khả năng”, cô ngừng lại, mắt nhìn văn bản. “Nhưng dòng tiếp theo này… một vị tổng trấn 'cắt rời những đầu ngựa' à?” Cô ngước mắt nhìn Langdon. “Có vị tổng trấn nào cắt đầu ngựa không?”

Hình ảnh Sienna nhắc đến khiến Langdon nhớ tới cảnh tượng khủng khiếp trong truyện Bố già. “Thôi đừng nhắc đến nữa. Nhưng theo câu này, ông ta còn 'moi xương cả người mù lòa' nữa.” Anh đưa mắt nhìn Ferris. “Điện thoại của anh có Internet không?”

Ferris nhanh nhẹn lấy điện thoại và chìa ra những ngón tay phát ban sưng múp. “Các phím có thể hơi khó bấm với tôi.”

“Để tôi”, Sienna nói, nhận lấy chiếc điện thoại của ông ta. “Tôi sẽ tìm kiếm các vị tổng trấn Venice, liên quan đến những con ngựa mất đầu và xương của người mù lòa”. Cô bắt đầu bấm rất nhanh trên bàn phím nhỏ xíu.

Langdon đọc lại bài thơ lần nữa, và sau đó tiếp tục đọc to.

“Hãy quỳ gối bên trong bảo quán mạ vàng của tri thức thánh thiêng…

và áp tai xuống mặt đất,

lắng nghe tiếng nước nhỏ giọt.”

“Tôi chưa bao giờ nghe nói đến một bảo quán”, Ferris nói

“Đó là một từ cổ mang nghĩa 'đền thờ được các nàng thơ bảo vệ'”, Langdon đáp. “Thời kỳ của người Hy Lạp cổ, một bảo quán là nơi những người được khai sáng tụ họp để chia sẻ các ý tưởng và thảo luận về văn chương, âm nhạc và nghệ thuật. Bảo quán đầu tiên do Ptolemy xây dựng tại Thư viện Alexandria nhiều thế kỷ trước Công nguyên, và sau đó hàng trăm bảo quán mọc lên khắp thế giới.”

“Bác sĩ Brooks”, Ferris nói, nhìn về phía Sienna đầy hy vọng. “Cô có thể tra xem có bảo quán nào ở Venice không?”

“Thực tế có hàng trăm nơi”, Langdon nói kèm một nụ cười khôi hài. “Giờ đây chúng được gọi là bảo tàng”

“Á à…”, Ferris đáp lại. “Tôi đoán chúng ta sẽ phải quét qua một mạng lưới rộng hơn đây.”

Sienna vẫn bấm vào điện thoại, không hề cảm thấy phiền phức vì có quá nhiều nhiệm vụ mà rất bình tĩnh xem danh sách liệt kê. “Được rồi, vậy là chúng ta tìm một bảo tàng nơi có thế lần ra một vị tổng trấn chặt đầu ngựa và moi xương người mù lòa. Robert, có bảo tàng đặc biệt nào có thể là nơi đáng tới xem không?”

Langdon đã nghĩ đến tất cả các bảo tàng nối tiếng nhất của Venice – Gallerie dell’ Academia, Ca’ Rezzonico, Cung điện Grassi, Bộ sưu tập Peggy Guggenheim, Bảo tàng Correr - nhưng không nơi nào phù hợp với mô tả cả.

Anh nhìn lại văn bản.

Hãy quỳ gối bên trong bảo quán mạ vàng của tri thức thánh thiêng

Langdon nhăn nhó mỉm cười. “Venice không có một bảo tàng nào phù hợp hoàn toàn với khái niệm 'bảo quán mạ vàng của tri thức thánh thiêng' cả.”

Cả Ferris và Sienna đều nhìn anh đầy trông đợi.

“Thánh đường St. Mark”, anh tuyên bố. “Nhà thờ lớn nhất tại Venice.”

Ferris có vẻ không chắc chắn lắm. “Nhà thờ đó là một bảo tàng à?”

Langdon gật đầu. “Giống như Bảo tàng Vatican. Và thêm nữa, nội thất của St. Mark nổi tiếng vì được trang trí toàn bộ bằng gạch ốp làm từ vàng đặc.”

“Một bảo quản mạ vàng”, Sienna nói, nghe phấn khích thấy rõ.

Langdon gật đầu, tin chắc rằng St. Mark chính là đền thờ mạ vàng được nhắc đến trong bài thơ. Trong nhiều thế kỷ, người dân Venice gọi St. Mark là Nhà thờ Vàng, và Langdon xem nội thất của nơi này là tráng lệ nhất so với bất kỳ nhà thờ nào trên thế giới.

“Bài thơ nói 'quỳ' ở đó”, Ferris nói. “Và nhà thờ chính là nơi rất hợp lý để quỳ.”

Sienna lại bấm nhoay nhoáy. “Tôi sẽ thêm St. Mark vào lệnh tìm kiếm. Đó nhất định phải là nơi chúng ta cần tìm kiếm vị tổng trấn.”

Langdon biết họ sẽ tìm ra không thiếu các vị tổng trấn tại St.Mark - nơi, theo đúng nghĩa đen, chính là thánh đường của các tổng trấn. Anh cảm thấy thêm phấn chấn khi đưa mắt trở lại bài thơ.

“Hãy quỳ gối bên trong bảo quán mạ vàng của tri thức thánh thiêng…

và áp tai xuống mặt đất,

lắng nghe tiếng nước nhỏ giọt.”

Tiếng nước nhỏ giọt à? Langdon thắc mắc. Có nước bên dưới St.Mark không nhỉ? Anh nhận ra câu hỏi này thật ngớ ngẩn. Toàn bộ thành phố này có nước bên dưới. Mọi tòa nhà ở Venice đều đang chìm dần và thấm nước. Langdon hình dung ra tòa thánh đường và cố gắng nghĩ xem chỗ nào bên trong có thể quỳ đế nghe được tiếng nước nhỏ giọt. Và một khi nghe thấy nó… chúng ta cần làm gì chứ?

Langdon nhìn lại bài thơ và đọc nốt thật to.

“Hãy lần sâu vào tòa cung điện bị chìm…

vì ở đây, trong bóng tối, con quái vật chốn địa phủ chờ đợi,

lặn ngụp trong thứ nước đỏ như máu…

của cái đầm không hề phản chiếu ánh sao.”

“Được rồi”, Langdon nói, cảm thấy lo âu trước hình ảnh ấy, “rõ ràng, chúng ta lần theo tiếng nước nhỏ giọt… tới một cung điện bị chìm nào đó”.

Ferris gãi mặt, trông rất lo lắng. “Con quái vật chốn địa phủ là sao?”

“Ở bên dưới mặt đất?” Sienna nói, các ngón tay cô vẫn thao tác trên điện thoại. “'Địa phủ' có nghĩa là 'bên dưới mặt đất'.”

“Phần nào đó đúng”, Langdon nói. “Mặc dù từ này có hàm nghĩa lịch sử khác - thường gắn với truyền thuyết về quái vật. Địa phủ là một hạng mục gồm các vị thần và quái vật trong thần thoại - Erinyes, Hecate và Medusa chẳng hạn. Chúng được gọi là địa phủ bởi vì chúng sống bên dưới lòng đất và gắn với địa ngục”, Langdon ngừng lại. “Xa xưa, chúng trồi lên từ lòng đất và xuất hiện trên mặt đất để trả thù thế giới loài người.”

Im lặng kéo dài và Langdon cảm thấy tất cả bọn họ đều nghĩ đến cùng một thứ. Con quái vật địa phủ nấy… chỉ có thể là đại dịch của Zobrist

“…vì ở đây, trong bóng tối, con quái vật chốn địa phủ chờ đợi,

lặn ngụp trong thứ nước đỏ như máu…

của cái đầm không hề phản chiếu ánh sao.”

“Nhân tiện”, Langdon nói, cố gắng tập trung vào vấn đề, “rõ ràng chúng ta đang tìm kiếm một địa điểm dưới lòng đất, nơi ít nhất cũng giải thích cho dòng thơ cuối cùng nói đến cái đầm không hề phản chiều ánh sao’.”

“Hay lắm”, Sienna nói, giờ đã rời mắt khỏi chiếc điện thoại của Ferris. “Nếu một cái đầm ở dưới lòng đất thì nó không thể phản chiếu bầu trời. Nhưng Venice này có các đầm nước ngầm dưới lòng đất không nhỉ?”

“Anh không biết cái nào cả”, Langdon đáp lời. “Nhưng một thành phố được xây dựng trên nước thì có lẽ có vô khối khả năng.”

“Nếu đầm nước trong nhà thì sao?”, Sienna bất ngờ hỏi, mắt nhìn cả hai. “Bài thơ nói đến 'bóng tối' của 'cung điện bị chìm'. Lúc trước anh nói rằng Dinh Tổng trấn được nối thông với thánh đường, phải không nào? Điều đó có nghĩa là các công trình ấy có rất nhiều điểm mà bài thơ nhắc đến - một bảo quán của tri thức thánh thiêng, một cung điện, liên quan đến các vị tổng trấn - và tất cả đều tọa lạc ngay tại đây trên đầm nước lớn của Venice, ở mực nước biển.”

Langdon suy nghĩ phân tích này. “Em nghĩ 'cung điện bị chìm' trong bài thơ chính là Dinh Tổng trấn à?”

“Tại sao lại không chứ? Bài thơ bảo chúng ta trước hết quỳ ở Thánh đường St. Mark, sau đó theo tiếng nước nhỏ giọt. Có lẽ tiếng nước dẫn tới cánh cửa tiếp theo đến Dinh tổng trấn. Nó có thể có phần nền chìm dưới lòng đất hay gì đó.”

Langdon đã tới tham quan Dinh Tổng trấn nhiều lần và biết rằng nó rất rộng. Là một quần thể nhiều tòa nhà, cung điện này chứa một bảo tàng quy mô lớn, một mê cung thực sự gồm nhiều gian phòng, buồng, và sân, và cả một mạng lưới nhà tù rộng đến mức phải bố trí trong nhiều tòa nhà.

“Có thế em nói đúng”, Langdon nói, “nhưng mò mẫm tìm kiếm một cung điện như thế sẽ mất vài ngày. Anh gợi ý chúng ta làm đúng như bài thơ bảo. Trước tiên, chúng ta tới Thánh đường St Mark và tìm mộ hoặc tượng của vị tổng trấn bội bạc, sau đó chúng ta quỳ xuống”.

“Còn sau đó?”, Sienna hỏi.

“Còn sau đó”, Langdon thở dài nói, “chúng ta cầu nguyện để nghe được tiếng nước nhỏ giọt… và dẫn chúng ta tới đâu đó”.

Trong khoảnh khắc im lặng tiếp theo, Langdon hình dung ra bộ mặt đầy lo âu của Elizabeth Sinskey như anh nhìn thấy trong ảo giác, kêu gọi anh từ bên kia dòng nước. Thời gian rất gấp. Hãy tìm và sẽ thấy. Anh tự hỏi giờ Sinskey ở đâu… và liệu bà ấy có ổn không. Những tên lính mặc đổ đen rõ ràng lúc này nhận ra rằng Langdon và Sienna đã trốn thoát. Còn bao lâu nữa cho tới khi chúng đuổi theo sau bọn mình?

Khi đưa mắt nhìn lại bài thơ, Langdon cố chống lại trạng thái kiệt sức. Anh nhìn dòng thơ cuối cùng, và một ý nghĩ khác vụt đến với anh. Anh tự hỏi có nên nêu ra không. Cái đầm không hề phản chiếu ánh sao. Có lẽ không thích hợp với cuộc tìm kiếm của họ, nhưng anh quyết định vẫn nói ra. “Tôi cần nói đến một điểm khác.”

Sienna ngước mắt khỏi điện thoại di động.

“Ba phần bộ Thần khúc của Dante”, Langdon nói. “Hỏa ngục, Luyện ngục và Thiên đường. Tất cả đều kết thúc với cùng một từ.”

Sienna tỏ ra ngạc nhiên.

“Đó là từ gì vậy?”, Ferris hỏi.

Langdon chỉ xuống cuối văn bản mà anh đã viết lại. “Cũng chính là từ kết thức bài thơ này - 'sao'”. Anh nhấc chiếc mặt nạ người chết của Dante lên và chỉ vào chính giữa xoáy trôn ốc.

Cái đầm không hề phản chiếu ánh sao.

“Thêm nữa”, Langdon tiếp tục, “trong đoạn kết của Hỏa ngục, chúng ta thấy Dante nghe tiếng nước nhỏ giọt bên trong một vực thẳm và theo âm thanh đó đi qua một lối mở… dẫn ông ra khỏi địa ngục”.

Ferris hơi tái mặt. “Lạy Chúa.”

Vừa lúc đó, một luồng không khí ong tai ùa vào khoang tàu khi đoàn tàu Frecciargento lao mình vào đường hầm xuyên núi

Trong bóng tối, Langdon nhắm mắt lại và cố để cho tâm trí mình thư giãn. Zobrist có lẽ là một gã cuồng, anh nghĩ bụng, nhưng chắc chắn hắn hiểu rất rõ về Dante.


--64--

Laurence Knowlton cảm thấy nhẹ cả người.

Thị Trưởng đã thay đổi suy nghĩ về việc xem đoạn video của Zobrist.

Knowlton thọc tay vào túi lấy chiếc thẻ nhớ đỏ thẫm rồi cắm vào máy tính của mình để cho ông chủ xem. Sức nặng từ thông điệp quái đản dài chín phút của Zobrist vẫn đang ám ảnh Knowlton, và anh ta rất nôn nóng muôn có thêm người khác cùng xem thứ đó.

Việc này sẽ không còn là trách nhiệm của mình nữa.

Knowlton nín thở khi bắt đầu cho chạy đoạn video.

Màn hình tối sầm, và tiếng nước vỗ nhè nhẹ tràn ngập trong gian phòng. Máy quay di chuyển qua màn sương đỏ của cái hang ngầm, và mặc dù Thị Trưởng không lộ ra phản ứng rõ rệt nào, Knowlton vẫn cảm thấy ông ta hoảng hốt và sững sờ.

Máy quay tạm ngừng di chuyển về phía trước, xoay xuống đầm, rồi lao thẳng xuống nước, chìm sâu vài mét cho tới khi ra tấm biển titan nhẵn bóng bắt vít chặt xuống nền.

TẠI NƠI NÀY, VÀO NGÀY NÀY,

THẾ GIỚI THAY ĐỔI MÃI MÃI.

Thị Trưởng hơi nao núng. “Ngày mai”, ông ta thì thào, mắt nhìn vào ngày giờ trên đoạn video. “Và chúng ta có biết nơi này là chỗ nào không?”

Knowlton lắc đầu.

Giờ máy quay lia sang trái, để lộ ra cái túi nhựa chứa thứ chất lỏng sền sệt màu vàng nâu.

“Trời đất quỷ thần ơi?!” Thị Trưởng kéo một chiếc ghế lại và gồi xuống, mắt đăm đăm nhìn cái bong bóng lập lờ, giống như một quả bóng bay được cột lại dưới nước.

Cả gian phòng chìm trong bầu im lặng ngột ngạt khi đoạn video tiếp tục chạy. Một lát sau, màn hình tối om, và sau đó một bóng đen mũi hình mỏ chim quái lạ xuất hiện trên vách hang và bắt đầu nói bằng thứ ngôn ngữ bí ẩn.

“Ta là Vong linh.

Nếu ngươi đang xem đoạn phim này, tức là cuối cùng linh hồn ta đã yên nghỉ.

Bị xua đuổi xuống dưới mặt đất, ta đành phải nói chuyện với thế giới từ sâu thẳm trong lòng đất, lẩn trốn đến lòng hang tăm tối này, nơi thứ nước đỏ như máu tích tụ trong cái đầm không một ánh sao phản chiếu.

Nhưng đây là thiên đường của ta… nơi nuôi dưỡng hoàn hảo đứa con yếu ớt của ta.

Hỏa ngục.”

Thị Trưởng ngước lên. “Hỏa ngục à?”

Knowlton nhún vai. “Như tôi đã nói, rất đáng ngại.”

Thị Trưởng đưa mắt nhìn lại màn hình, chăm chú theo dõi.

Cái bóng đen mũi hình mỏ chim tiêp tục nói vài phút liền, diễn giải về đại dịch, về nhu cầu sàng lọc dân số, về vai trò vẻ vang của hắn trong tương lai, về cuộc chiến của hắn chống lại những kẻ ngu dốt đang tìm cách ngăn cản hắn, và về một vài đối tượng trung thành nhận ra rằng hành động quyết liệt là cách duy nhất đế cứu lấy cả hành tinh.

Cho dù cuộc chiến tranh có về cái gì thì cả buổi sáng nay Knowlton vẫn đang tự hỏi liệu Consortium có đang chiến đấu nhầm phe.

Giọng nói tiếp tục.

“Ta đã tạo ra một kiệt tác cứu rỗi, nhưng những nỗ lực của ta không được tưởng thưởng bằng các hồi kèn chào mừng và vòng hoa chiến thắng… mà bằng những lời đe dọa của thần chết.

Ta đâu có sợ chết… vì cái chết biến những người nhìn xa trông rộng thành thánh tử vì đạo… biến những ý tưởng cao quý thành hành động mạnh mẽ.

Jesus. Socrates. Martin Luther King.

Một ngày không xa ta sẽ gia nhập với họ.

Kiệt tác ta tạo ra chính là tác phẩm của Chúa trời… một món quà từ Đấng tối cao, người đã ban cho ta trí tuệ, công cụ và lòng can đảm cần có để thực hiện sự sáng tạo như vậy.

Giờ đây, cái ngày đó đang đến gần.

Hỏa ngục ngủ yên dưới chân ta, chuẩn bị phun trào… dưới con mắt giám sát của con quái vật địa phủ và tất cả cơn Cuồng nộ của nó.

Mặc dù kỳ công của ta cao quý, nhưng cũng như các người, ta không phải là kẻ xa lạ với Tội lỗi. Thậm chí ta còn phạm phải tội lỗi xấu xa nhất trong Bảy Trọng tội - sự cám dỗ cô độc nơi rất ít kẻ có thể tránh khỏi.

Thói kiêu hãnh.

Bằng cách ghi hình lại thông điệp này, ta đã gục ngã trước cám dỗ ghê gớm của lòng Kiêu hãnh… vì háo hức bảo đảm rằng cả thế giới sẽ biết đến công trình của ta.

Và tại sao lại không chứ?

Loài người cần biết rõ nguồn gốc sự cứu rỗi của chính mình…

Tên tuổi của người đã đóng chặt mãi mãi những cánh cổng toang hoác của địa ngục!

Cứ mỗi giờ qua đi, kết quả càng thêm chắc chắn. Những phép toán – vốn nghiêm khắc như quy luật hấp dẫn - là điều không thể bàn cãi. Chính việc sự sống sinh sôi theo cấp số mũ từng suýt tiêu diệt loài người sẽ cứu nguy cho loài người, vẻ đẹp của một sinh vật sống - dù nó tốt hay xấu - là ở chỗ nó tuân theo quy luật của Chúa với tầm nhìn duy nhất.

Hãy sinh sản thêm nhiều [31].

Và thế là ta dĩ độc… trị độc.”

“Đủ rồi.” Thị Trưởng nói xen vào khẽ đến mức Knowlton gần như không nghe thấy.

“Thưa ngài?”

“Dừng đoạn video lại.”

Knowlton cho dừng lại, “Thưa ngài, đoạn kết thực tế lại là phần đáng sợ nhất.”

“Tôi xem đủ rồi.” Thị Trưởng trông mệt mỏi. Ông ta rảo bước trong gian buồng một lúc và sau đó đột ngột quay lại. “Chúng ta cần liên hệ với FS-2080.”

Knowlton ngẫm nghĩ về động thái này.

FS-2080 là bí số của một trong những đầu mối liên hệ đáng tín cậy của Thị Trưởng - cũng chính đầu mối liên hệ này đã giới thiệu Zobrist làm khách hàng của Consortium. Rõ ràng vào lúc này Thị Trưởng đang trách chính mình vì đã tin đánh giá của FS-2080, sự xuất hiện của Bertrand Zobrist đã làm cho thế giới quy củ của Consortium hỗn loạn.

FS-2080 là lý do của vụ khủng hoảng này.

Chuỗi tai ương vây quanh Zobrist dường như chỉ càng tệ hơn, không chỉ với Consortium, mà có lẽ cả thế giới.

“Chúng ta cần phát hiện ra ý định thật của Zobrist”, Thị Trưởng tuyên bố. “Tôi muốn biết đích xác ông ta tạo ra cái gì, và liệu đây có phải là một hiểm họa thật sự không.”

Knowlton biết rằng nếu có ai đó biết câu trả lời cho những câu hỏi này thì đó sẽ là FS-2080. Còn ai biết rõ Bertrand Zobrist hơn nữa. Đã đến lúc Consortium phải phá bỏ quy trình và đánh giá xem tổ chức đã vô tình hậu thuẫn cho âm mưu điên rồ gì trong năm qua.

Knowlton ngẫm nghĩ những khả năng có thể khi đốì diện trực tiếp với FS-2080. Chỉ riêng việc bắt liên lạc đã kéo theo những rủi ro nhất định.

“Thưa ngài”, Knowlton nói, “rõ ràng nếu ngài tiếp cận với FS- 2080, ngài cần phải làm việc đó rất tế nhị”.

Mắt Thị Trưởng lóe lên giận dữ lúc ông ta rút điện thoại di động ra. “Chúng ta đã bước qua sự tế nhị từ lâu rồi.”

o O o

Ngồi cùng với hai bạn đồng hành trong khoang riêng của đoàn tàu Frecciargento, người đàn ông đeo cà vạt hoa và cặp kính Plume Paris phải cố hết sức không gãi những chỗ mẩn ngứa càng lúc càng tệ. Cơn đau ở ngực ông ta dường như cũng tăng lên.

Cuối cùng, khi đoàn tàu chui ra khỏi đường hầm, người đàn ông nhìn Langdon, lúc này từ từ mở mắt, rõ ràng vừa thoát ra khỏi những ý nghĩ xa xăm. Bên cạnh anh, Sienna lại bắt đầu cúi xuống điện thoại di động của ông ta, nhưng lúc đoàn tàu lao qua hầm, cô đành phải bỏ xuống vì không có tín hiệu.

Sienna có vẻ nôn nóng tiếp tục tìm kiếm trên Internet, nhưng cô chưa kịp cầm lấy điện thoại thì nó đột ngột rung lên, phát ra cả chuỗi những tiếng píp giật cục.

Nghe thấy chuông, người đàn ông bị dị ứng lập tức vớ lấy điện thoại và nhìn màn hình, cố giấu đi vẻ ngạc nhiên.

“Xin lỗi”, ông ta nói và đứng lên. “Bà cụ đang ốm nhà tôi. Tôi phải nghe máy.”

Sienna và Langdon gật đầu cảm thông khi người đàn ông xin phép và ra khỏi buồng, đi nhanh ra hành lang đến phòng vệ sinh gần đó.

Người đàn ông bị dị ứng khóa trái buồng vệ sinh khi nhận cuộc gọi. “Tôi nghe?”

Giọng nói trên máy nghiêm nghị. “Thị Trưởng đây.”


--65--

Nhà vệ sinh trên tàu Frecciargento không lớn hơn nhà vệ sinh trên một chiếc máy bay thương mại, chỉ vừa đủ không gian để xoay người. Người đàn ông bị phát ban kết thúc cuộc điện đàm với Thị Trưởng và đút điện thoại vào túi.

Tình hình đã thay đổi, ông ta nhận ra như vậy. Toàn bộ cảnh tượng đột nhiên đảo lộn, và ông ta cần một lúc để trấn tĩnh.

Bạn bè của ta giờ trở thành kẻ thù của ta mãi rồi.

Người đàn ông nới chiếc cà vạt hoa và nhìn sững vào gương mặt nổi mẩn của mình trong gương. Trông ông ta còn tệ hơn so với ông ta tưởng. Song, gương mặt ông ta không đáng lo lắng bằng cơn đau trong ngực.

Hơi do dự, ông ta mở vài khuy áo và phanh áo sơ mi ra.

Ông ta gượng nhìn vào gương và xem kỹ bộ ngực trần của mình.

Chúa ơi.

Vết đen đang loang rộng.

Phần da ở chính giữa ngực là một mảng màu tím đen. Đêm qua chỗ này chỉ bằng một quả bóng golf, nhưng giờ đây nó đã to bằng quả cam. Ông ta chạm khẽ vào phần thịt mềm và cau mày.

Ông ta vội vã cài lại khuy áo sơ mi, hy vọng mình sẽ có để thực hiện những gì cần làm.

Một tiếng đồng hồ tới sẽ vô cùng quan trọng, ông ta nghĩ bụng. Một loạt nhiệm vụ vô cùng tinh vi.

Ông ta nhắm mắt và gắng lấy lại tinh thần, nhẩm lại những việc cần phải diễn ra. Bạn bè của ta giờ trở thành kẻ thù của ta mất rồi, ông ta lại nghĩ thầm.

Ông ta hít vài hơi thật sâu, đau nhói, hy vọng việc đó giúp trấn tĩnh tinh thần. Ông ta biết mình cần bình tĩnh nếu định giữ kín những ý định của mình.

Sự bình tĩnh trong lòng rất quan trọng để có những hành động thuyết phục.

Người đàn ông không xa lạ gì chuyện dối trá, nhưng lúc này tim ông ta vẫn đập thình thịch. Ông ta hít một hơi thật sâu nữa, đau nhói. Mày đã lừa dối mọi người suốt nhiều năm, ông ta tự nhủ. Đó chính là công việc mày đảm nhận.

Sau khi định thần lại, ông ta chuẩn bị quay trở về chỗ Langdon và Sienna.

Màn trình diễn cuối cùng của ta, ông ta nghĩ.

Như một hành động thận trọng cuối cùng trước khi ra khỏi nhà vệ sinh, ông ta tháo pin điện thoại di động, để bảo đảm rằng chiếc điện thoại lúc này không còn hoạt động được nữa.

o O o

Trông ông ta tái nhợt, Sienna nghĩ khi người đàn ông bị dị ứng trở lại buồng và ngồi xuống ghế kèm một tiếng thở dài đau khổ.

“Mọi việc ồn chứ?”, Sienna hỏi, vẻ quan tâm thấy rõ.

Ông ta gật đầu. “Vâng, cảm ơn. Mọi thứ vẫn ổn.”

Rõ ràng đã lĩnh hội được tất cả thông tin người đàn ông định chia sẻ, Sienna chuyển sang chuyện khác. “Tôi lại cần điện thoại của anh”, cô nói. “Nếu anh không phiền, tôi muốn tiếp tục tìm kiếm thêm thông tin về tổng trấn. Có lẽ chúng ta có thể có câu trả lời trước khi tới thăm St. Mark.”

“Không sao”, ông ta nói, móc chiếc điện thoại từ trong túi và kiểm tra lại màn hình. “Ôi, chán thật. Pin của tôi tắt sau cuộc gọi vừa rồi. Có vẻ như giờ nó tắt hẳn rồi.” Ông ta liếc nhìn đồng hồ đeo tay. “Chỉ lát nữa chúng ta sẽ vào Venice. Chúng ta chỉ việc đợi thôi.”

o O o

Năm dặm ngoài khơi nước Ý, trên boong tàu The Mendacium, điều phối viên Knowlton im lặng nhìn Thị Trưởng đi vòng quanh gian buồng như một con thú bị nhốt trong chuồng. Sau cuộc điện thoại, rõ ràng Thị Trưởng đang cố vận hành cỗ máy tư duy, và Knowlton biết tốt hơn là không nên gây ồn ào trong lúc này.

Cuối cùng, người đàn ông nước da sạm nắng lên tiếng, giọng ông ta nghiêm nghị đúng như Knowlton vẫn nhớ. “Chúng ta không có lựa chọn nào khác. Chúng ta cần đưa đoạn video này cho tiến sĩ Elizabeth Sinskey.”

Knovvlton ngồi chết sững, không muốn bộc lộ vẻ ngạc nhiên của mình. Con quỷ tóc bạc ư? Người chúng ta đã giúp Zobrist lẩn tránh suốt cả năm ư? “Vâng, thưa ngài. Tôi sẽ tìm cách gửi thư điện tử đoạn video này cho bà ta phải không?”

“Chúa ơi, không! Khác gì mạo hiểm làm lộ đoạn video này cho công chúng chứ? Sẽ là cả một cơn cuồng loạn. Tôi muốn tiến sĩ Sinskey có mặt trên boong tàu ngay khi các anh đưa được bà ấy tới đây.”

Knowlton trợn mắt nhìn mà không sao tin nổi. Ông ấy muốn giám đốc WHO lên tàu The Mendacium “Thưa ngài việc phá bỏ quy trình bí mật của chúng ta rõ ràng có nguy cơ…”

“Hãy làm đi, Knowlton! NGAY BÂY GIỜ!”

--66--

FS-2080 đưa mắt nhìn ra ngoài cửa sổ con tàu Frecciargento đang lao vùn vụt, trông vào bóng của Robert Langdon phản chiếu trong lớp kính. Vị giáo sư vẫn đang suy nghĩ về những đáp án có thể trả lời câu đố về chiếc mặt nạ người chết mà Bertrand Zobrist đã tạo ra.

Bertrand, FS-2080 nghĩ thầm. Lạy Chúa, mình nhớ anh ấy.

Nỗi đau mất mát nhói lên. Cái đêm hai người gặp gỡ vẫn giống như một giấc mơ kỳ lạ.

Chicago. Trận bão tuyết.

Tháng Giêng, sáu năm về trước… nhưng vẫn có cảm giác như mới hôm qua. Mình đang lê bước trên những đống tuyết trắng dọc Đại lộ Magnificent Mile hút gió, cổ áo dựng đứng lên trong cơn nhòa trắng [32] chói mắt. Dù lạnh, mình vẫn tự nhủ rằng chẳng có gì ngăn nổi mình đi tới đích đến. Tối nay là cơ hội mình được nghe Bertrand vĩ đại nói chuyện… riêng.

Mình đã đọc mọi thứ mà người đàn ông này viết ra, và mình biết mình rất may mắn có được một trong năm trăm tấm vé của sự kiện này.

Khi mình đến hội trường, gần như tê cóng vì gió lạnh, mình phát hoảng khi biết rằng gian phòng gần như trống trơn. Buổi nói chyện bị hoãn chăng?! Thành phố gần như ngưng hoạt động do thời tiết… nên Zobrist không đến được tối nay chăng?!

Nhưng anh ấy vẫn đến đó.

Một dáng người cao ráo, lịch lãm bước lên sân khấu.

Anh ấy cao… rất cao… với đôi mắt màu lục lanh lợi sâu thẳm như nắm bắt toàn bộ bí mật của thế giới. Anh ấy nhìn khắp hội trường vắng hoe - chỉ có khoảng một chục người hâm mộ - và mình cảm thấy xấu hổ vì hội trường gần như trống trơn.

Đây chính là Bertrand Zobrist!

Một sự im lặng đáng sợ khi anh ấy đăm đăm nhìn mọi người, nét mặt rắn đanh.

Sau đó, rất đột ngột, anh ấy phá lên cười, đôi mắt màu lục của anh ấy lóe sáng. “Vứt cha cái khán phòng trống trơn này đi thôi”, anh ấy nói “Khách sạn của tôi ở ngay bên cạnh. Chúng ta tới quán rượu nào!”

Mọi người reo hò, và một nhóm nhỏ cùng di chuyển sang quán rượu của khách sạn kế bên, nơi bọn mình cùng quây quần trong một quán lớn và gọi đồ uống. Zobrist khiến bọn mình thích thú với những câu chuyện về sự nghiệp nghiên cứu của anh ấy, quá trình thành danh và những suy nghĩ của anh ấy về tương lai của ngành điều khiển gen. Rượu vào, chủ đề chuyển sang niềm say mê mới của Zobrist đổi với triết lý Siêu nhân học [33].

“Tôi tin rằng Siêu nhân học là hy vọng duy nhất cho sự tồn tại lâu dài của nhân loại”, Zobrist giảng giải, vạch áo sơ mi và cho tất cả nhìn thấy hình xăm “H+” trên bả vai. “Các bạn thấy đấy, tôi cam kết hoàn toàn.”

Mình cảm thấy như thể mình đang được gặp gỡ riêng một ngôi sao nhạc rock vậy. Mình chưa bao giờ hình dung đến việc một “thiên tài di truyền học” được tôn vinh lại có sức lôi cuốn hoặc hấp dẫn riêng đến vậy. Mỗi lần Zobrist liếc nhìn mình, đôi mắt xanh lục của anh ấy lại làm dấy lên trong mình một cảm giác hoàn toàn khác lạ - một ham muốn nhục dục sâu thẳm.

Đêm trôi đi, cả nhóm thưa dần khi các vị khách lần lượt cáo lỗi rút lui. Đến nửa đêm, chỉ còn mỗi mình ngồi với Bertrand Zobrist.

“Cảm ơn anh vì buổi tối nay”, mình nói với anh ấy, hơi ngà ngà vì quá chén. “Anh đúng là một giáo viên tuyệt vời.”

“Lại tâng bốc phải không?” Zobrist mỉm cười và ghé lại gần hơn, giờ chân bọn mình chạm nhau. “Điều đó sẽ đưa em đi tới mọi nơi đấy.”

Chuyện tán tỉnh rõ ràng không thích hợp tí nào nhưng đó là một đêm gió tuyết tại một khách sạn vẳng vẻ ở Chicago và có cảm giác như thể cả thế giới ngừng lại.

“Vậy em nghĩ gì nào?”, Zobrist nói. “Uống với anh vài ly tại phòng anh nhé?”

Mình như đông cứng lại, biết rõ chắc chắn trông mình giống như một con hươu trước ánh đèn pha.

Đôi mắt của Zobrist hấp háy ân cần. “Để anh đoán nhé”, anh ấy thì thào. “Em chưa bao giờ ở cùng với một người đàn ông nổi tiếng.”

Mình cảm thấy máu dồn lên mặt, cố gắng giấu đi những cảm xúc dâng trào - xấu hổ, phấn khích, sợ hãi. “Thực ra, nói rất thật”, mình nói với anh ấy, “em chưa bao giờ ở cùng bất kỳ người đàn ông nào”.

Zobrist mỉm cười và nhích lại sát hơn. “Anh không biết chắc em đang chờ đợi điều gì, nhưng hãy để anh là người đầu tiên của em.”

Khoảnh khắc ấy, mọi nỗi sợ hãi và thất vọng nhục dục quái lạ từ thời niên thiếu của mình biến mất, như bốc hơi vào màn đêm gió tuyết.

Lần đầu tiên trong đời, mình cảm thấy một nỗi khao khát được giải phóng khỏi tâm lý xấu hổ.

Mình muốn anh ấy!

Mười phút sau, bọn mình đã ở trong phòng khách sạn của Zobrist trần truồng trong vòng tay nhau. Zobrist không vội vàng, bàn tay kiên nhẫn của anh ấy mơn trớn những cảm xúc từ cơ thể ngây dại của mình mà mình chưa bao giờ cảm nhận được trước đó.

Đây là lựa chọn của chính mình. Anh ấy không hề ép buộc mình.

Trong vòng tay ôm ấp của Zobrist, mình cảm thấy như thể mọi thứ trên thế giới đều đâu vào đấy. Mình nằm dài ở đó, đăm đăm nhìn qua cửa sổ ra màn đêm gió tuyết, mình biết mình sẽ theo người đàn ông này tới bất kỳ đâu.

Đoàn tàu Frecciargento đột ngột chậm lại, FS-2080 bừng tỉnh khỏi ký ức hạnh phúc và trở lại với hiện tại buồn rầu.

Bertrand… anh đã đi rồi.

Đêm đầu tiên bên nhau của họ là bước khởi đầu của một hành trình kỳ lạ.

Mình còn hơn là người tình của anh ấy. Mình là tín đồ của anh ấy.

“Cầu Liberta”, Langdon nói, “Chúng ta sắp đến nơi rồi.”

FS-2080 gật đầu buồn bã, mắt nhìn ra vùng nước trong vịnh Veneta, nhớ lại đã từng có lần dong buồm ở đây cùng Bertrand. Một hình ảnh yên bình giờ đây tan biến thành ký ức hãi hùng cách đây một tuần.

Mình có mặt ở đó khi anh ấy nhảy khỏi tháp Badia.

Đôi mắt mình là đôi mắt cuối cùng anh ấy nhìn thấy.


--67--

Chiếc Netjets Citation Excel xóc nảy qua tầng không khí nhiễu mạnh khi nó lao vút lên trên từ sân bay Tassignato và chao về phía Venice. Trên máy bay, tiến sĩ Elizabeth Sinskey không chú ý mấy đến chuyến khởi hành chẳng mấy êm ả trong lúc bà lơ đễnh mân mê cái bùa của mình và nhìn ra khoảng không trống rỗng bên ngoài cửa sổ.

Cuối cùng họ đã thôi tiêm thuốc cho bà, và đầu óc Sinskey đã tỉnh táo hơn. Trên ghế bên cạnh bà, đặc vụ Brüder vẫn im lặng, có lẽ đang thắc mắc về sự thay đổi kỳ lạ của các sự kiện vừa mới diễn ra.

Mọi thứ đều đảo ngược, Sinskey nghĩ bụng, vẫn đang phải cố gắng tin vào những gì bà vừa chứng kiến.

Ba mươi phút trước, họ ào tới cái sân bay nhỏ xíu để chặn đầu Langdon khi anh lên một chiếc máy bay tư nhân mà anh thuê. Thay tìm thấy vị giáo sư, họ chỉ thấy một chiếc Citation Excel rảnh rỗi cùng hai phi công của hãng Netjets đang rảo bước trên lối đi trải đá và kiểm tra đồng hồ đeo tay.

Chẳng thấy Robert Langdon đâu cả.

Rồi có một cuộc điện thoại gọi tới.

Khi điện thoại réo, Sinskey vẫn ở vị trí bà đã ngồi cả ngày băng ghế sau của chiếc xe thùng đen. Đặc vụ Brüder chui vào xe với vẻ ngơ ngác trên mặt khi trao điện thoại của mình cho bà.

“Một cuộc gọi khẩn cho bà, thưa bà.”

“Ai vậy?”, bà hỏi.

“Ông ấy đề nghị tôi chỉ nói với bà rằng ông ấy có thông tin khẩn cấp muốn cho bà biết về Bertrand Zobrist.”

Sinskey vồ lấy điện thoại. “Tiến sĩ Elizabeth Sinskey đây.”

“Tiến sĩ Sinskey, bà và tôi chưa bao giờ gặp nhau, nhưng tổ chức của tôi chịu trách nhiệm về việc che giấu Bertrand Zobrist trước bà suốt năm qua.”

Sinskey ngồi thẳng dậy. “Cho dù các ông là lũ quái nào thì các ông cũng đang che giấu một kẻ tội phạm!”

“Chúng tôi chẳng làm gì phạm pháp, nhưng điều đó không…”

“Thật lố bịch!”

Người đàn ông ở đầu dây bên kia hít một hơi dài, kiên nhẫn, nói rất mềm mòng. “Bà và tôi sẽ có đủ thời gian để tranh luận về vấn đề đạo đức trong những hành động của tôi. Tôi biết bà không biết tôi, nhưng tôi biết khá nhiều về bà. Ông Zobrist đã trả tôi hậu hĩnh để ngăn bà và những người khác lại gần ông ấy trong năm vừa qua. Giờ tôi đang phá bỏ quy trình nghiêm ngặt của chính mình bằng việc liên lạc với bà. Nhưng, tôi tin rằng chúng ta không có lựa chọn nào khác ngoài việc hợp tác với nhau. Tôi e rằng Bertrand Zobrist có thể đã làm một chuyện gì đó khủng khiếp.”

Sinskey không thể đoán nổi người đàn ông này là ai, “Ông vừa mới phát hiện điều này phải không?”

“Đúng như vậy. Vừa mới đây.” Giọng ông ta nghiêm chỉnh.

Sinskey cố gẳng gạt bỏ hết lớp mạng nhện. “Ông là ai?”

“Người muốn giúp bà trước khi quá muộn. Tôi có trong tay thông điệp video do Bertrand Zobrist tạo ra. Ông ta đề nghị tôi công bố cho thế giới vào… ngày mai. Tôi nghĩ bà cần xem nó ngay lập tức.”

“Nó nói gì?”

“Không nói được qua điện thoại. Chúng ta cần gặp nhau.”

“Sao tôi biết có thể tin tưởng ông?”

“Bởi vì tôi sắp nói cho bà biết Robert Langdon đang ở đâu… và tại sao anh ta lại hành động lạ lùng như vậy.”

Sinskey thấy choáng váng khi nhắc đến tên Langdon, và bà kinh ngạc nghe lời giải thích lạ lùng. Người đàn ông này dường như đã đồng lõa với kẻ thù của bà suốt năm qua, nhưng khi nghe thấy các tình tiết, lòng bà mách bảo bà cần tin những gì ông ta đang nói.

Mình không có lựa chọn nào khác ngoài việc đồng ý.

Sự hợp tác của họ dẫn tới việc trưng dụng chiếc Netjets Citation Excel 'bị bỏ rơi'. Sinskey và những người lính giờ đang đuổi về phía Venice, nơi mà theo thông tin của người đàn ông này, Langdon và hai bạn đồng hành hiện đang tới bằng tàu hỏa. Đã quá trễ để gọi cho giới chức địa phương, nhưng người đàn ông trên điện thoại nói đã biết chỗ Langdon đang tới.

Quảng trường St. Mark à? Sinskey cảm thấy một cơn ớn lạnh bà hình dung ra đám đông ở khu vực sầm uất nhất của Venice.

“Sao ông biết chỗ này?”

“Không nói trên điện thoại được”, người đàn ông nói. “Nhưng biết rằng Robert Langdon vô tình đang đi cùng với một nhân vật rất nguy hiểm.”

“Kẻ nào?”

“Một trong những kẻ tâm phúc thân cận nhất của Zobrist”. Nguời đàn ông thở dài não nề, “Một kẻ tôi tin tưởng. Thật ngu ngốc, rõ ràng như vậy. Giờ đây tôi tin kẻ đó có thể là một hiểm họa ghê gớm.”

Khi chiếc máy bay tư nhân lao tới sân bay Marco Polo của Venice mang theo Sinskey và sáu người lính, suy nghĩ của Sinskey trở lại với Robert Langdon. Cậu ấy bị mất trí nhớ ư? Cậu ấy không nhớ được gì sao? Tin lạ lùng này, mặc dù giải thích được vài việc, nhưng lại khiến Sinskey càng cảm thấy lo lắng hơn so với chuyện đã kéo vị học giả xuất chúng vào cuộc khủng hoảng này.

Mình khiến cho cậu ấy chẳng còn lựa chọn nào cả.

Gần hai ngày trước, khi Sinskey tuyển mộ Langdon, bà thậm chí còn không để anh quay về nhà lấy hộ chiếu. Thay vào đó, bà thu xếp để anh thuận lợi đi qua sân bay Florence với tư cách liên lạc viên đặc biệt cho Tổ chức Y tế Thế giới…

Khi chiếc C-130 lao ầm ầm lên không và nhắm về phía đông vượt Đại Tây Dương, Sinskey liếc nhìn Langdon ngồi bên cạnh và nhận thấy trông anh không được ổn. Anh đang nhìn chăm chú vào vách của phần thân máy bay không hề có cửa sổ.

“Giáo sư, anh nhận ra chiếc máy bay này không có cửa sổ phải không? Cho tới gần đây, nó vẫn được sử dụng như một phương tiện quân sự.”

Langdon quay lại, mặt tái mét. “Vâng, tôi nhận ra điều đó ngay từ lúc bước chân lên khoang. Tôi không được khỏe khi ở trong những không gian kín mít.”

“Cho nên anh đang vờ như nhìn ra một cửa sổ tưởng tượng à?”

Anh mỉm cười bẽn lẽn. “Đại loại như vậy.”

“Chà, hãy xem thứ này đi”, Bà rút ra một bức ảnh chụp gã kẻ thù mắt xanh lục cao lêu đêu và để nó trước mặt anh. “Đây chính là Bertrand Zobrist.”

Sinskey đã nói cho Langdon biết về cuộc đối đầu của bà với Zobrist tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại, niềm say mê của hắn với phương trình Khải huyền Dân số, những nhận xét được loan truyền rộng rãi của hắn về những lợi ích mang tính toàn cầu của Cái chết Đen và đáng sợ nhất là sự biến mất hoàn toàn của hắn trong năm vừa qua.

“Làm thế nào một nhân vật nổi bật nhường ấy lại ẩn nấp được lâu vậy?”, Langdon hỏi.

“Ông ta có rất nhiều trợ giúp. Sự trợ giúp chuyên nghiệp. Thậm chí có lẽ của một chính phủ nước ngoài”.

“Chính phủ nào lại chấp nhận việc tạo ra một đại địch chứ?”

“Chính là những chính phủ tìm mọi cách có được các đầu đạn hạt nhân ở chợ đen. Đừng quên rằng một đại dịch hiệu quả cũng chính là một vũ khí sinh hóa tối thượng, và nó rất đáng tiền. Zobrist có thể dễ dàng nói dối các đối tác của mình và trấn an họ rằng sự sáng tạo của hắn có phạm vi hạn chế. Zobrist sẽ là người duy nhất hiểu rõ sáng tạo của hắn thực sự có tác động như thế nào.”

Langdon im lặng.

“Trong bất kỳ trường hợp nào”, Sinskey nỏi, “nếu không phải vì quyền lực hoặc tiền bạc thì những kẻ giúp Zobrist có thể vì chung hệ tư tưởng. Zobrist không thiếu những môn đệ làm bất kỳ việc gì vì hắn. Hắn là một nhân vật tiếng tăm. Thực tế hắn từng có bài phát kiểu tại trường đại học của anh cách đây không lâu”.

“Ở Harvard sao?”

Sinskey rút ra một cây bút và viết lên mép tấm ảnh của Zobrist – chữ H kèm theo một dấu cộng. “Anh rất quen với các biểu tượng”, bà nói, “Anh có nhận ra thứ này không?”

“H cộng”, Langdon thì thào, gật đầu. “Chắc chắn rồi, cách đây mấy mùa hè, nó được trưng ở khắp trường. Tôi cứ đinh ninh của một hội thảo hóa học gì đó.”

Sinskey bật cười. “Không, đó là những dấu hiệu của Hội nghị thượng đỉnh 'Nhân văn cộng' 2010 - một trong những cuộc gặp lớn nhất về Siêu nhân học. H cộng là biểu tượng của phong trào Siêu nhân học.”

Langdon nghiêng đầu, như thể cố lĩnh hội thuật ngữ.

“Siêu nhân học”, Sinskey nói, “là một phong trào trí thức, một dạng triết thuyết, và nó nhanh chóng bén rễ trong cộng đồng khoa học. Cơ bản nó nói rằng con người cần sử dụng công nghệ để vượt lên những nhược điểm cố hữu trong cơ thể mình. Nói cách khác bước tiếp theo trong quá trình tiến hóa của con người là chúng ta bắt đầu kiến tạo bản thân mình về mặt sinh học”.

“Nghe đáng ngại quá”, Langdon nói.

“Như tất cả mọi thay đổi, chỉ là vấn đề mức độ. Về mặt kỹ thuật, chúng ta kiến tạo bản thân đã nhiều năm - phát triển các loại vắc xin giúp trẻ em miễn dịch trước một số bệnh tật nhất định… bại liệt, đậu mùa, thương hàn. Sự khác biệt là ở chỗ giờ đây, với những đột phá của Zobrist trong lĩnh vực điều khiển di truyền chuỗi phôi, chúng ta đang học cách tạo ra những kiểu miễn dịch có thể thừa kế được, những thứ sẽ tác động đến người nhận ở cấp độ chuỗi phôi lõi - làm cho tất cả thế hệ kế tiếp miễn dịch trước bệnh đó.”

Langdon trông thảng thốt. “Vậy loài người cơ bản sẽ trải qua một bước tiến hóa làm cho mình miễn dịch với thương hàn chẳng hạn phải không?”

“Đúng hơn là một bước tiến hóa có sự hỗ trợ”, Sinskey đính chính. “Bình thường, quá trình tiến hóa - cho dù đó là loài cá thở bằng phổi phát triển đôi chân hay loài vượn phát triển ngón cái biết riêng rẽ - đều phải mất hàng nghìn năm. Giờ đây chúng ta có thể tạo ra những thích nghi di truyền triệt để chỉ trong một thế hệ. Những người đề xướng công nghệ này coi nó là biểu hiện cao nhất của 'sự tồn tại loài tương thích nhất' theo thuyết Darwin – con người trở thành loài học được cách cải tiến quá trình tiến hóa của chính mình.”

“Nghe giống như đang thay vai trò của Chúa vậy”, Langdon đáp.

“Tôi hoàn toàn đồng ý”, Sinskey nói. “Tuy nhiên, Zobrist cũng như nhiều nhân vật Siêu nhân học khác, lớn tiếng cho rằng chính nghĩa vụ tiến hóa của loài người là có toàn quyền sử dụng tất cả sức mạnh của mình - chẳng hạn, đột biến di truyền chuỗi phôi - đế cải thiện với tư cách một giống loài. Vấn đề là cấu tạo di truyền của chúng ta giống như một ngôi nhà dựng bằng những lá bài, mỗi lá gắn kết và được hỗ trợ bởi rất nhiều lá khác, thường theo những cách thức chúng ta không hiểu được. Nếu chúng ta tìm cách loại bỏ chỉ một đặc điểm của con người thôi, chúng ta có thế khiến cho hàng trăm đặc điểm khác thay đổi theo, có lẽ tạo ra những hậu quà tai hại.”

Langdon gật đầu. “Cho nên tiến hóa mới là một quá trình dần dần.”

“Chính xác!”, Sinskey nói, cảm thấy mỗi khắc trôi qua bà càng thán phục vị giáo sư này. “Chúng ta đang chắp vá một quá trình phải mất rất lâu để tạo đựng. Đây là những quãng thời gian nguy nan. Giờ đây đúng là chúng ta có khả năng kích hoạt các chuỗi gene nhất định để làm cho con cháu chúng ta thêm khéo léo, có khả năng chịu đựng, sức mạnh và thậm chí trí thông minh - cơ bản là một chủng loài siêu hạng. Những cá nhân 'được củng cố' theo giả thuyết này được nhóm Siêu nhân học gọi là hậu nhân loại, một số người trong bọn họ còn tin rằng đó sẽ là tương lai giống loài chúng ta.”

“Nghe lạ tai như thuyết Ưu sinh vậy, Langdon đáp lời.

Câu nói đó khiến cho Sinskey sởn gai ốc.

Vào những năm 1940, các nhà khoa học Quốc xã nghĩ ra một công nghệ mà họ gọi bằng thuật ngữ “thuyết Ưu sinh” – cố gắng sử dụng phương pháp điều khiển gene sơ khai để tăng tỷ lệ những người có các đặc điểm di truyền “mong muốn” nhất định, trong khi giảm tỷ lệ sinh của những người có các đặc điểm “không mong muốn bằng”.

Thanh lọc sắc tộc ở cấp độ di truyền.

“Có những điểm tương đồng”, Sinskey thừa nhận, “và dù khó hình dung người ta sẽ tạo tác một chủng người mới như thế nào, có nhiều người thông minh tin rằng điều quan trọng với sự tồn vong là chúng ta phải bắt đầu quá trình đó. Một trong những cộng tác viên của tạp chí 'Siêu nhân học H+' đã mô tả phương pháp khiển di truyền chuỗi phôi như là 'bước rõ ràng kế tiếp' và cho rằng nó 'cô đặc tiềm năng đích thực của giống loài chúng ta'.” Sinskey tạm nghỉ. “Thêm nữa, để bảo vệ cho tạp chí ấy, họ còn đăng lên bài viết trên tạp chí Discover nhan đề 'Ý tưởng nguy hiểm nhất trên thế giới'”

“Tôi nghĩ tôi đứng về nhóm thứ hai”, Langdon nói “ít nhất cũng từ quan điềm văn hóa xã hội.”

“Tại sao?”

“Chà, tôi cho rằng những hình thức thúc đẩy di truyền - rất giống phẫu thuật thẩm mỹ - khá tốn kém, phải không nào?”

“Dĩ nhiên. Không phải ai cũng đủ khả năng cải thiện bản thân hoặc con cái mình.”

“Có nghĩa là những hình thức thúc đẩy di truyền hợp pháp lập tức tạo ra một thế giới của những người có và không có. Chúng ta đã có một hố sâu ngày càng lớn giữa người giàu và người nghèo nhưng phương pháp điều khiển di truyền sẽ tạo ra một chủng tộc siêu nhân và… những người bị xem là cận nhân. Bà có nghĩ người ta lo ngại về một phần trăm người siêu giàu đang điều khiển thế giới không? Hãy hình dung nếu một phần trăm đó cũng chính là giống loài siêu việt - thông minh hơn, khỏe lơn, lành mạnh hơn. Đó sẽ là động cơ chín muồi cho chế độ nô lệ hoặc thanh lọc sắc tộc.

Sinskey mỉm cười với vị học giả điển trai bên cạnh. “Giáo sư, anh nắm bắt rất nhanh những gì tôi tin là cạm bẫy nghiêm trọng nhất của phương pháp điều khiển di truyền.”

“Chà, có thể tôi nắm bắt được điều đó, nhưng tôi vẫn chưa hiểu Zobrist. Toàn bộ tư tưởng Siêu nhân học này dường như nhằm cải thiện nhân loại, làm cho chúng ta khỏe hơn, cứu chữa các bệnh chết người, làm tăng tuổi thọ của chúng ta. Nhưng quan điểm của Zobrist về tình trạng quá tải dân số dường như lại tán thành việc giết bớt người. Những ý tưởng của ông ta về Siêu nhân học và quá tải dân số có vẻ mâu thuẫn nhau, phải không?”

Sinskey thở dài não nề. Đó là một câu hỏi thú vị, và rủi thay, nó lại có câu trả lời rất rõ ràng và đáng ngại. “Zobrist hoàn toàn tin vào Siêu nhân học, ở chỗ làm cho giống loài tốt hơn thông qua công nghệ, tuy nhiên, hắn cũng tin loài người sẽ tuyệt chủng trước khi có cơ hội làm được việc đó. Thực tế, nếu không có ai hành động, dân số quá đông sẽ giết chết loài người trước khi chúng ta có cơ hội nhận ra triển vọng của phương pháp điều khiển di truyền.”

Mắt Langdon mở to. “Vậy là Zobrist muốn giảm bớt loài người… để có thêm thời gian?”

Sinskey gật đầu. “Hắn từng mô tả mình giống như kẻ mắc kẹt trên một con tàu nơi hành khách tăng gấp đôi sau mỗi giờ, trong khi hắn đang cố hết sức dùng một chiềc thuyền cứu sinh trước khi con tàu chìm do chính sức nặng của nó.” Bà ngừng lại, “Hắn chủ trương đẩy bớt một nửa số người trên tàu xuống biển.”

Langdon nheo mắt “Một suy nghĩ đáng sợ.”

“Chắc chắn. Đừng nhầm lẫn về nó”, bà nói. “Zobrist tin chắc rằng việc quyết liệt kiềm chế dân số loài người một ngày nào đó sẽ được ghi nhận như là hành động tối thượng của chủ nghĩa anh hùng… thời khắc loài người chọn cách tồn tại.”

“Như tôi đã nói, thật đáng sợ.”

“Còn hơn thế vì Zobrist không hề là kẻ duy nhất mang suy nghĩ ấy. Khi Zobrist chết, hắn trở thành một kẻ tử vì đạo đối với rất nhiều người. Tôi không biết chúng ta sẽ đối phó với những ai khi đến Florence, nhưng chúng ta sẽ cần rất cẩn trọng. Chúng tôi sẽ không phải là người duy nhất cố gắng truy tìm cho ra dịch bệnh này, và vì sự an toàn của anh, chúng tôi không thể để cho kẻ nào biết anh có mặt ở Ý để truy tìm nó.”

Langdon kể cho bà nghe về người bạn của anh là Ignazio Busoni, một chuyên gia về Dante, người Langdon tin có thể giúp anh vào Cung điện Vecchio sau giờ mở cửa để xem xét bức tranh có chữ 'cerca trova', như trong máy chiếu của Zobrist. Busoni có thể cũng giúp Langdon hiểu câu trích dẫn kỳ lạ về cặp mắt chết chóc.

Sinskey vuốt mái tóc bạc dài của mình ra sau và chăm chú nhìn Langdon. “Hãy tìm và sẽ thấy, giáo sư ạ. Thời gian đang cạn dần.”

Sinskey bước lại một phòng chứa trên máy bay và lấy chiếc ống bảo quản chất nguy hiểm loại bảo mật nhất của WHO-loại có khả năng khóa bằng sinh trắc học.

“Đưa ngón tay cái của anh đây”, bà nói và đặt ống trước mặt Langdon.

Langdon có vẻ ngơ ngác nhưng làm theo.

Sinskey cài đặt chương trình cho cái ống để Langdon là người duy nhất có thể mở được. Sau đó bà cầm lấy cái máy chiếu nhỏ xíu vả đút nó vào bên trong ống.

“Hãy nghĩ nó như một hộp khóa có thể mang theo người”, bà mỉm cười nói.

“Với một biếu tượng nguy hiểm sinh học ư?” Langdon có vẻ không thoải mái.

“Đó là tất cả những gì chúng tôi có. Nói một cách lạc quan, sẽ không ai dùng nó gây rối.”

Langdon xin phép duỗi chân và sử dụng nhà vệ sinh. Trong khi anh rời đi, Sinskey cố gắng nhét cái ống đã niêm kín vào túi áo khoác của anh. Rất tiếc nó lại không vừa.

Cậu ấy không thể công nhiên mang cái máy chiểu này trước bao cặp mắt được. Bà ngẫm nghĩ một lúc và sau đó quay trở lại phòng chứa đế lấy một con dao mổ và một túi chỉ khâu. Với độ chính xác chuyên nghiệp, bà rạch một đường trên lớp lót áo khoác của Langdon rồi cẩn thận khâu một chiếc túi bí mật bằng đúng kích cỡ cần để giấu cái ống nghiệm.

Khi Langdon trở lại, bà vừa hoàn thành xong đường khâu cuối cùng.

Vị giáo sư sững lại và trợn mắt nhìn như thể bà vừa làm hỏng bức Mona Lisa vậy. “Bà nhét vào lớp lót chiếc áo Harris Tweed của tôi à?”

“Yên tâm đi, giáo sư”, bà nói. “Tôi là một bác sĩ phẫu thuật được đào tạo. Các mũi khâu đều rất chuyên nghiệp.”
XEM TIEP CHUONG http://truyenhiepsi.blogspot.com

Blog Truyện Hiệp Sĩ

truyenhiepsi

Truyện được sưu tầm chia sẻ trên các web miễn phí...

Tìm Kiếm Truyện

Theo dõi blog!

Nhận bài viết mới qua email. Chỉ cần nhập địa chỉ email của bạn dưới đây nếu bạn muốn đăng ký!