Tác giả: Dan Brown
--59--
Chẳng việc gì phải giả vờ như mình không hề có mặt ở đây.
Langdon ra hiệu cho Sienna vẫn khom người an toàn để không bị nhìn thấy, tay cầm chiếc mặt nạ người chết của Dante mà anh đã bỏ trở lại cái túi Ziploc.
Sau đó, rất chậm rãi, Langdon đứng lên. Anh đứng sững như một vị linh mục phía sau bàn thờ của nhà rửa tội, đưa mắt nhìn giáo đoàn chỉ có một người của mình. Người lạ mặt đối diện với anh có mái tóc nâu nhuốm bạc, đeo kính hàng hiệu, và những nốt phát ban rất kinh khủng trên mặt và cổ. Ông ta gãi cổ sồn sột, cặp mắt sưng mọng của ông ta ném ra những tia nhìn khó hiểu và giận dữ.
“Anh cần cho tôi biết anh đang làm cái quái gì ở đây, Robert?!”, ông ta căn vặn, chân bước qua đoạn dây và tiến về phía Langdon. Giọng ông ta đặc âm Mỹ.
“Chắc chắn tôi sẽ nói”, Langdon lịch thiệp trả lời. “Nhưng trước hết, hãy cho tôi biết ông là ai.”
Người đàn ông đừng sững lại, vẻ mặt đầy ngò vực. “Anh nói sao cơ?!”
Langdon cảm thấy có gì đó hơi quen quen trong ánh mắt của người đàn ông, giọng nói ông ta cũng vậy. Mình đã gặp ông ấy… bằng cách nào đó, ở nơi nào đó. Langdon bình tĩnh nhắc lại dể nghị của anh. “Xin hãy cho tôi biết ông là ai và làm sao ông biết tôi.”
Người đàn ông vung tay lên vẻ không tin nổi. “Jonathan Ferris? Tổ chức Y tế Thế giới? Người đã bay tới Đại học Harvard và đón anh!?”
Langdon cố gắng phân tích những gì mình đang nghe thấy.
“Tại sao anh không gọi lại?!”, người đàn ông vặn hỏi, vẫn gãi lấy gãi để cổ và má, lúc này nhìn đỏ tấy và phổng rộp. “Và cô ả mà tôi nhìn thấy vào đây cùng anh là ai vậy? Có phải cô ta là người bây giờ anh đang hợp tác phải không?”
Sienna vẫn bò lom khom bên cạnh Langdon và lập tức lên tiếng “Bác sĩ Ferris phải không? Tôi là Sienna Brooks. Tôi cũng là một bác sĩ. Tôi làm việc tại Florence này. Giáo sư Langdon bị bắn vào đầu đêm qua. Anh ấy bị mắc chứng rối loạn trí nhớ, và anh ấy không biết ông là ai hay chuyện gì đã xảy ra với anh ấy hai ngày qua. Tôi ở đây bởi vì muốn giúp anh ấy.”
Nghe những lời nói của Sienna vang vọng khắp nhà rửa tội vắng vẻ, người đàn ông nghiêng đầu, vẻ ngơ ngác, như thể ý của cô không lấy gì làm bảo đảm. Sau một lúc kinh ngạc, ông ta lùi lại một bước, cố đứng dựa vào một trụ chống cho vững.
“Ôi… Chúa ơi”, ông ta lắp bắp. “Thế là rõ mọi chuyện rồi.”
Langdon nhìn vẻ giận dữ tan biến trên gương mặt người đàn ông.
“Robert”, người mới đến thì thào, “chúng tôi nghĩ anh đã…”, ông ấy lắc đầu như thể cố gắng sắp xếp mọi tình tiết cho phù hợp. “Chúng tôi nghĩ anh đã trở mặt… rằng có lẽ họ trả nhiều tiền cho anh… hoặc đe dọa anh… Chúng tôi không nắm được!”
“Tôi là người duy nhất anh ấy nói chuyện”, Sienna nói. “Tất cả những gì anh ấy biết là đêm qua anh ấy tỉnh dậy trong bệnh viện của tôi và có người tìm cách giết anh ấy. Thêm nữa, anh ấy cũng có những ảo giác kinh khủng - những xác chết, các nạn nhân bệnh dịch và một người phụ nữ nào đó có mái tóc bạc và một cái bùa rắn cứ nói với anh ấy…”
“Elizabeth!”, ngươi đàn ông nói. “Đó là tiến sĩ Elizabeth Sinskey! Robert, bà ấy là người đã mời anh tới giúp chúng tôi!”
“Chà, nếu đúng là bà ấy”, Sienna nói. “Tôi hy vọng anh biết rằng bà ấy đã gặp rắc rối. Chúng tôi nhìn thấy bà ấy bị kẹt ở ghế sau một chiếc xe thùng đầy lính tráng, và bà ấy trông như say thuốc hay gì đó”
Người đàn ông chậm rãi gật đầu, nhắm mắt lại. Mi mắt ông ấy trông sưng mọng và đỏ.
“Mặt anh bị sao vậy?”, Sienna hỏi.
Ông ấy mở mắt ra. “Sao cơ?”
“Da của anh? Trông như anh đã nhiễm phải thứ gì đó. Anh có mệt không?”
Người đàn ông trông đầy vẻ sửng sốt, và cho dù chắc chắn câu hỏi của Sienna thẳng thừng đến mức có phần hơi lỗ mãng nhưng Langdon cũng không khỏi thắc mắc về điều đó. Nghĩ tới số lượng những thứ ám chỉ tới dịch bệnh mà anh đã gặp ngày hôm nay, hình ảnh da tấy đỏ quả thật rất đáng ngại…
“Tôi ổn thôi”, người đàn ông nói. “Đó là do thứ xà phòng khốn kiếp ở khách sạn. Tôi dị ứng nặng với đậu nành, và hầu hết các loại xà phòng thơm của Ý đều có đậu nành. Tôi đã dại dột không kiểm tra kỹ.”
Sienna thở phào nhẹ nhõm, giờ vai cô trùng xuống hẳn. “Ơn Chúa anh không ăn thứ đó. Chứng viêm da tiếp xúc là do sốc mẫn cảm.”
Họ cùng cười ngượng nghịu.
Sienna đánh bạo, “Xin cho tôi biết cái tên Bertrand Zobrist có ý nghĩa gì với anh không?”.
Người đàn ông sững sờ, trông như thể ông ấy vừa mặt đối mặt với quỷ sứ ba đầu.
“Chúng tôi tin mình vừa tìm được một thông điệp từ ông ta”, Sienna nói. “Nó chỉ tới một nơi nào đó ở Venice. Điều đó có ý nghĩa gì với anh không?”
Giờ mắt người đàn ông trở nên dữ tợn. “Lạy Chúa, có đấy. Rất nhiều! Nó chỉ tới chỗ nào!?”
Sienna hít một hơi, rõ ràng đã sẵn sàng kể cho người đàn ông mọi chuyện về bài thơ xoáy trôn ốc mà cô và Langdon vừa phát hiện trên chiếc mặt nạ, nhưng theo bản năng, Langdon đã kín đáo đặt một bàn tay lên tay cô. Có vẻ người đàn ông là một đồng minh, nhưng sau tất cả sự việc hôm nay, tâm trí Langdon mách bảo anh đừng vội tin ai cả. Hơn nữa, cà vạt của người đàn ông có đeo một quả chuông, và anh có cảm giác người đàn ông này rất có thể chính là người đang cầu nguyện trong nhà thờ Dante lúc trước. Ông ta đã bám theo bọn mình chăng?
“Làm sao anh tìm được chúng tôi ở đây?”, Langdon hỏi.
Người đàn ông vẫn còn bối rối khi biết rằng Langdon không nhớ được mọi việc. “Robert, anh gọi cho tôi đêm qua nói rằng anh đã dàn xếp cuộc gặp mặt với một giám đốc bảo tàng tên là Ignazio Busoni. Sau đó anh biến mất. Anh không hề gọi lại. Khi nghe tin Ignazio Busoni chết, tôi rất lo. Tôi đến đây tìm anh suốt buổi sáng. Tôi nhìn thấy cảnh sát ở bên ngoài Cung điện Vecchio và trong khi đợi tìm hiểu xem chuyện gì xảy ra, tình cờ tôi nhìn thấy anh chui ra khỏi một ô cửa nhỏ cùng với…” Ông ta liếc nhìn về phía Sienna, rõ ràng không nhớ được tên cô.
“Sienna”, cô nhắc. “Brooks.”
“Tôi xin lỗi… cùng với bác sĩ Brooks. Tôi bám theo hai người hy vọng biết được anh đang làm chuyện quái gì.”
“Tôi nhìn thấy anh trong Nhà thờ Cerchi, đang cầu nguyện, tôi có nhầm không?”
“Đúng đấy! Tôi cố gắng phán đoán xem anh đang làm gì nhưng không có tác dụng! Dường như anh rời khỏi nhà thờ chẳng khác gì một người đang thi hành nhiệm vụ, cho nên tôi bám theo anh. Khi thấy hai người lẻn vào nhà rửa tội, tôi quyết định đã đến lúc phải trực diện gặp anh. Tôi chi tiền cho tay thuyết trình viên chỉ để có mấy phút được một mình ở trong này”
“Hơi hấp tấp” Langdon nhận xét, “nếu anh nghĩ tôi phản anh”.
Người đàn ông lắc đầu. “Có gì đó mách bảo tôi rằng anh sẽ không bao giờ làm vậy. Giáo sư Robert Langdon ư? Tôi biết nhất định có lời giải thích khác. Nhưng bị mất trí nhớ sao? Thật không tin nổi. Tôi chưa bao giờ đoán ra được.”
Người đàn ông với những nốt tấy đỏ lại bắt đầu gãi sồn sột “Nghe này, tôi chỉ có năm phút thôi. Chứng ta cần ra khỏi đây ngay. Nếu tôi tìm được hai người thì những kẻ đang tìm cách giết anh cũng có thể tìm ra anh. Có rất nhiều chuyện xảy ra mà tôi không hiểu. Chúng ta cần tới Venice. Ngay lập tức. Cần rời khỏi Florence mà không để ai nhìn thấy. Những kẻ đang giữ tiến sĩ Sinskey… những kẻ truy đuổi anh… chúng có tai mắt ở khắp mọi nơi.” Ông ta ra hiệu về phía cửa.
Cuối cùng Langdon cũng cảm thấy như thể mình sắp có được câu trả lời nào đó. “Đám lính mặc đồng phục đen là ai? Tại sao họ lại cố tìm cách giết tôi?”
“Chuyện dài lắm”, người đàn ông nói. “Trên đường đi tôi sẽ giải thích.”
Langdon cau mày, hoàn toàn không thích câu trả lời thế này.
Anh ra hiệu cho Sienna và kéo cô ra một bên, nói thật nhanh với cô.
“Em có tin anh ta không? Em nghĩ sao nào?”
Sienna nhìn Langdon như thể anh đang hóa dại vì hồi hộp vậy. “Em nghĩ gì ư? Em nghĩ anh ta là người của Tổ chức Y tế Thế giới! Em nghĩ anh ta là ván cược tốt nhất cho chúng ta để có câu trả lời!”
“Thế còn tình trạng phát ban?”.
Sienna nhún vai. “Đúng như những gì anh ta nói - viêm da tiếp xúc nặng.”
“Và nếu không phải như những gì anh ta nói thì sao?”, Langdon thì thào. “Nếu… là gì đó khác?”
“Gì khác chứ?” Cô nhìn anh vẻ hoài nghi. “Robert, không phải là dịch hạch, nếu đó là những gì anh đang nghĩ. May thay, anh ta là một bác sĩ. Nếu anh ta bị một căn bệnh chết người và biết mình lây nhiễm, anh ta sẽ không khinh suất ra ngoài để lây nhiễm cho cả thế giới đâu.”
“Thế nếu anh ta không nhận ra mình bị dịch hạch thì sao?”
Sienna mím môi, nghĩ ngợi một lúc. “Thế thì em sợ rằng anh và em đã nhiễm cả rồi… cùng với tất cả mọi người trong khu vực.”
“Em biết đây, cách cư xử với bệnh nhân của em có thể hữu dụng.”
“Cứ thẳng thắn thôi.” Sienna đưa cho Langdon túi Ziploc có chiếc mặt nạ người chết. “Anh mang người bạn nhỏ của chúng ta theo nhé.”
Khi trở lại chỗ bác sĩ Ferris, hai người nhận ra ông ta vừa kết thúc một cuộc điện đàm.
“Tôi vừa gọi cho lái xe của tôi”, người đàn ông nói.”Anh ấy sẽ đón chúng ta ở bên ngoài…” Bác sĩ Ferris dừng lại đột ngột, đăm đăm nhìn vào tay Langdon là lần đầu tiên thấy khuôn mặt lúc chết của Dante Alighieri.
“Lạy Chúa!”, Ferris nói, co rúm lại. “Thứ quái gì vậy?”
“Chuyện dài lắm”, Langdon đáp. “Tôi sẽ giải thích trên đường đi.”
--60--
Biên tập viên New York Jonas Faukman tỉnh giấc vì tiếng điện thoại nối từ nhà tới văn phòng của mình réo vang. Anh lật người và nhìn đồng hồ: 4 giờ 28 phút sáng.
Trong giới xuất bản sách, những cuộc gọi khẩn cấp lúc đêm muộn hiếm gặp chẳng kém gì chuyện thành công chỉ sau một đêm. Bực bội, Faukman chuồi ra khỏi giường và đi vội tới phòng làm việc.
“Xin chào?”, giọng nói trên máy là một giọng nam trung quen thuộc. “Jonas, thật may cậu có ở nhà. Robert đây. Tôi hy vọng không khua cậu dậy.”
“Đương nhiên cậu khua tôi dậy rồi! Mới có bốn giờ sáng thôi!”
“Xin lỗi, tôi đang ở nước ngoài.”
Ở Harvard họ không dạy về các múi giờ à?
“Tôi đang gặp rắc rối chút, Jonas, và tôi cần giúp đỡ.” Giọng Langdon nghe rất căng thẳng. “Nó liên quan đến thẻ Netjets hạng doanh nghiệp của cậu.”
“Netjets à?”, Faukman bật cười. “Robert, chúng tôi ở trong ngành xuất bản sách. Chúng tôi không có quyền tiếp cận các máy bay tư.”
“Cả hai chúng ta đều biết cậu đang nói dối mà, anh bạn.”
Faukman thở dài. “Được rồi, để tôi nói lại. Chúng tôi không có quyền tiếp cận các máy bay tư cho các tác giả sách về lịch sử tôn giáo. Nếu cậu muốn viết cuốn Năm mươi sắc thái của thánh tượng học thì chúng ta có thể nói chuyện tiếp.”
“Jonas, dù chuyến bay tốn kém bao nhiêu, tôi cũng sẽ thanh toán cho cậu. Tôi hứa đấy. Tôi đã bao giờ thất hứa với cậu chưa?”
Còn hơn là cậu lỡ hạn chót lần cuối của cậu những ba năm cơ đấy. Tuy nhiên, Faukman cảm thấy giọng Langdon có vẻ khẩn trương. “Cho tôi biết đang có chuyện gì. Tôi sẽ cố gắng giúp.”
“Tôi không có thời gian giải thích, nhưng tôi thật sự cần cậu làm việc này cho tôi. Đó là vấn đề sinh tử đấy.”
Faukman đã làm việc với Langdon đủ lâu để quen với khiếu hài hước của anh, nhưng anh ta không hề nghe thấy vẻ đùa cợt trong giọng nói lo lắng của Langdon lúc này. Anh chàng hết sức nghiêm túc. Faukman thở hắt ra và gắng trấn tĩnh. Giám đốc tài chính của mình sẽ câu đầu rút ruột mình mất. Ba mươi giây sau, Faukman đã viết ra các chi tiết yêu cầu chuyến bay đặc biệt của Langdon.
“Mọi thứ ổn chứ?”, Langdon hỏi, rõ ràng cảm thấy vẻ do dự và ngạc nhiên của anh chàng biên tập viên trước những chi tiết đặt chuyến bay.
o O o
Trung tâm điều hành tại Hoa Kỳ của NetJets đặt tại Gohimbus, bang Ohio, với một đội hỗ trợ bay trên điện thoại toàn thời gian.
Đại diện mảng dịch vụ chủ sở hữu, Deb Kier vừa nhận được cuộc gọi từ một chủ doanh nghiệp ở New York. “Chờ chút thưa ngài”, cô nói, chỉnh lại tai nghe và gõ thiết bị nhập thông tin của mình. “Về mặt kỹ thuật thì đây là một chuyến bay của Netjets châu Âu, nhưng tôi có thể giúp ngài được.” Cô nhanh chóng truy cập hệ thống Netjets châu Âu, có trung tâm đặt tại Paço de Arcos, Bổ Đào Nha, sau đó kiểm tra vị trí hiện tại của các máy bay ở Ý và xung quanh đó.
“Được rồi, thưa ngài”, cô nói, “chúng tôi có một chiếc Citation Excel tại Monaco, chúng tôi có thể điều sang Florence trong vòng chưa đầy một tiếng. Như thế có tiện cho ngài Langdon không ạ?”.
“Hy vọng như vậy”, người đàn ông từ công ty xuất bản trả lời, nghe như đã kiệt sức và hơi khó chịu. “Chúng tôi rất biết ơn.”
“Đó là hân hạnh của chúng tôi”, Deb nói. “Và ngài Langdon muốn bay tới Geneva phải không?”
“Đúng vậy!”
Deb tiêp tục gõ máy. “Tất cả đã xong”, cuối cùng cô nói. “Ngài Langdon được xác nhận ở Trạm điều hành cơ sở cố định Tassignano tại Lucca, khoảng năm mươi dặm về phía tây Florence. Ông ấy sẽ khởi hành lúc 11 giờ 20 phút sáng theo giờ địa phương. Ông Langdon cần có mặt tại Trạm mười phút trước khi khởi hành. Ngài sẽ không có dịch vụ di chuyển trên bộ, không có phục vụ ăn, và ngài cần cung cấp thông tin hộ chiếu, để chúng tôi hoàn tất mọi việc. Ngài còn yêu cầu gì nữa không ạ?”
“Một công việc mới chăng?”, anh ấy cười nói. “Cảm ơn cô. Cô giúp được nhiều lắm.”
“Rất hân hạnh. Chúc ngủ ngon.” Deb kết thúc cuộc gọi và quay trở lại màn hình của mình để hoàn tất việc đặt chỗ. Cô nhập thông tin hộ chiếu của Robert Langdon và định tiếp tục thì thấy màn hình hiện ra một hộp thoại cảnh báo màu đỏ. Deb đọc thông báo, mắt cô mở to.
Chắc là nhầm lẫn thôi.
Cô cố gắng nhập lại hộ chiếu của Langdon. Lời cảnh báo lại xuất hiện lần nữa. Lời cảnh báo này sẽ xuất hiện trên bất kỳ máy tính hàng không nào trên thế giới mà Langdon tìm cách đặt chuyến bay.
Deb Kier đăm đăm nhìn một lúc lâu với vẻ không tin nổi. Cô biết NetJets giữ thông tin riêng của khách hàng rất kỹ càng, nhưng lời cảnh báo này phá bỏ mọi quy tắc bảo mật quyền riêng tư của công ty họ.
Deb Kier lập tức gọi cho bộ phận chức năng.
o O o
Đặc vụ Brüder tắt điện thoại di động và bắt đầu dẫn người của mình quay lại những chiếc xe thùng.
“Langdon di chuyển rồi”, gã nói. “Anh ta đi một máy bay riêng tới Geneva. Khởi hành chưa đầy một giờ nữa từ Trạm điều hành Lucca, năm mươi dặm về phía tây. Nếu đi ngay, chúng ta có thể tới đó trước khi anh ta cất cánh.”
o O o
Cũng lúc đó, một chiếc ô tô mui kín hiệu Fiat thuê riêng đang lao lên phía bắc dọc theo Đại lộ Panzani, bỏ lại Quảng trường Duomo phía sau và nhắm thẳng tới nhà ga xe lửa Santa Maria của Florence.
Ở ghế sau, Langdon và Sienna cúi thật thấp trong khi bác sĩ Ferris ngồi ở phía trước cùng với tài xế. Việc đặt chỗ với Netjets là ý tưởng của Sienna. Nếu may mắn, nó sẽ đủ để đánh lạc hướng và cho phép ba người bọn họ an toàn vượt qua nhà ga Florence, nơi chắc chắn sẽ dày đặc cảnh sát nếu không làm vậy. Thật may, tới Venice chỉ mất hai giờ đi bằng tàu hỏa, và đi lại bằng xe lửa trong phạm vi nội địa thì không cần đến hộ chiếu.
Langdon nhìn Sienna, lúc này dường như đang săm soi bác sĩ Ferris với vẻ lo lắng. Người đàn ông này đang đau đớn thấy rõ, hơi thở của ông ta nặng nề, như thể mỗi lần hít vào cũng làm ông ta đau đớn.
Mình hy vọng cô ấy nói đúng về tình trạng bệnh, Langdon nghĩ thầm, mắt nhìn những chỗ phát ban của người đàn ông và tưởng tượng ra những mầm bệnh đang lững lờ trong không khí bên trong chiếc xe nhỏ xíu, tù túng. Ngay cả đầu ngón tay của ông ta trông cũng sưng vù và đỏ tấy. Langdon cố xua nỗi lo lắng ra khỏi tâm trí mình và nhìn ra ngoài cửa sổ.
Khi đến nhà ga, họ đi ngang qua Đại Khách sạn Baglioni, nơi vẫn thường tổ chức các sự kiện của một hội nghị nghệ thuật mà Langdon tham dự hằng năm. Nhìn thấy tòa nhà, Langdon nhận ra mình sắp làm một việc mà anh chưa từng làm trong đời.
Mình rời khỏi Florence mà chưa kịp tới thăm chàng David.
Với lời xin lỗi thầm gửi tới Michelangelo, Langdon đưa mắt nhìn về nhà ga phía trước… và hướng dòng ý nghĩ tới Venice.
--61--
Langdon sẽ tới Geneva à?
Tiến sĩ Elizabeth Sinskey cảm thấy càng lúc càng mệt khi bà ngồi nghiêng ngả như đảo đồng ở băng ghế sau chiếc xe thùng, lúc này đang phóng như bay ra khỏi Florence, nhắm thẳng hướng tây về phía sân bay tư nhân bên ngoài thành phố.
Geneva không có nghĩa gì rồi, Sinskey tự nhủ.
Mối liên hệ tương thích duy nhất đến Geneva là: Đây chính là địa điểm đặt tổng hành dinh của WHO. Langdon đang tìm mình ở đó chăng? Dường như chuyện đó không hợp lý tí nào bởi lẽ Langdon biết bà đang ở Florence này.
Giờ một ý nghĩ khác vụt đến với bà.
Chúa ơi… hay Zobrist đang nhắm vào Geneva?
Zobrist là người mê các biểu tượng, và phải thừa nhận rằng việc tạo ra một “điểm không bề mặt” [29] tại tổng hành dinh Tổ chức Y tế Thế giới là khá hợp lý, nếu xét đến cuộc chiến kéo dài giữa hắn với Sinskey. Thế nhưng, nếu Zobrist tìm kiếm một điểm bùng phát dễ dàng cho một đại dịch thì Geneva không phái là lựa chọn hay. So với các đô thị khác, thành phố này cách biệt về mặt địa lý và khá lạnh vào thời điểm này trong năm. Hầu hết các đại dịch đều bắt rễ trong những môi trường ầm áp và đông dân cư hơn. Geneva ở trên mực nước biển hơn ba trăm mét, và khó có thế là một địa điểm thích hợp để bắt đầu một đại dịch. Cho dù Zobrist cố khinh thường ta đến đâu chăng nữa.
Cho nên câu hỏi vẫn còn đó - tại sao Langdon lại đến đó? Đích đến kỳ lạ của vị giáo sư người Mỹ lại là một điểm khác nữa trong bản danh sách càng lúc càng dài liệt kê những hành vi không thế lý giải được của anh ta bắt đầu từ tối qua, và bất chấp những nỗ lực hết công suất, Sinskey thấy rất khó đi đến một lời giải thích thỏa đáng nào cho những việc làm ấy.
Anh ta đứng về phe ai?
Phải thừa nhận, Sinskey mới chỉ biết Langdon có vài ngày, nhưng bà thường đánh giá nhân cách rất chính xác, và bà không tin một người như Robert Langdon lại có thể bị tiền bạc mua chuộc. Thế mà anh ta lại phá vỡ hợp đồng với chúng ta tối qua. Bây giờ có vẻ như anh ta đang chạy quanh như một gã ma cà bông lên cơn. Hay anh ta bị thuyết phục bằng cách nào đó nên tin rằng những hành động của Zobrist có ý nghĩa kép?
Ý nghĩ ấy khiến bà rùng mình ớn lạnh.
Không, bà tự trấn an mình. Ta biết tiếng tăm của anh ta quá rõ, anh ta hơn thế nhiều.
Lần đầu Sinskey gặp Robert Langdon là bốn đêm trước trong khoang một chiếc máy bay vận tải C-130 được trưng dụng làm trung tâm điều phối di động của Tổ chức Y tế Thế giới,
Mới chỉ hơn 7 giờ lúc máy bay đáp xuống Hanscom Field, chưa đầy mười lăm dặm từ Cambridge, bang Massachusetts. Sinskey không chắc mình trông đợi gì ở vị học giả lừng danh mà bà đã liên lạc qua điện thoại, nhưng bà vui sướng đến ngạc nhiên khi anh bước tự tin lên ván cầu để chui vào khoang sau máy bay và chào bà bằng một nụ cười vô tư.
“Tiến sĩ Sinskey phải không ạ?”, Langdon bắt tay bà khá chặt
“Chào giáo sư, rất vinh dự được gặp anh.”
“Tôi cũng rất hân hạnh. Cảm ơn vì tất cả những gì bà đã làm”
Langdon là một người đàn ông khá cao, có diện mạo tươi tắn của cư dân thành phố và giọng nói trầm. Sinskey bất ngờ khi thấy quần áo anh mặc lúc đó lại chính là trang phục lên lớp - áo khoác vải tuýt, quần ka-ki, và giày lười đế mềm - dễ khiến người khác có ấn tượng rằng anh đã nhiều lần phải rời khỏi trường mà không được báo trước. Trông anh cũng trẻ và có dáng gọn hơn so với bà tưởng tượng, điều đó chỉ càng khiến Elizabeth nhớ tới tuổi tác của chính mình.
Mình gần bằng tuổi mẹ anh ta.
Bà mỉm cười mỏi mệt nhìn anh. “Cảm ơn vì anh đã tới, giáo sư.”
Langdon ra hiệu về phía người cộng sự chẳng lấy gì làm hài hước mà Sinskey đã phái đi đón mình. “Người bạn của bà đây chưa cho tôi nhiều cơ hội cân nhắc mọi việc.”
“Không sao. Tôi trả tiền cho anh ta làm việc đó mà.”
“Cái bùa đẹp quá”, Langdon nói, mắt nhìn chiếc vòng cổ của bà. “Lam ngọc thạch thì phải?”
Sinskey gật đầu và cúi nhìn cái bùa bằng chất đá màu da trời của mình, được tạo tác thành biểu tượng con rắn quấn quanh cây gậy dựng đứng. “Biểu tượng hiện đại cho ngành y khoa. Và tôi tin chắc anh có biết nó được gọi là 'y hiệu' - 'thương thần trượng' [30].”
Langdon đột ngột ngước lên, như thế có gì đó muốn nói.
Bà chờ đợi. “Vâng?”
Rõ ràng nhận ra mình có phần bốc đồng, anh mỉm cười nhã nhặn và đổi chủ đề. “Vậy tại sao tôi lại có mặt ở đây?”
Elizabeth ra hiệu về phía khu vực thảo luận tạm thời chỗ một chiếc bàn thép không rỉ. “Mời anh ngồi. Tôi có việc cần anh xem xét.”
Langdon thong thả đi tới chỗ bàn, và Elizabeth nhận thấy mặc dù vị giáo sư có vẻ tò mò với cuộc gặp bí mật này nhưng anh không hề bốì rối. Đây là một người luôn thấy thoải mái với chính mình. Bà tự hỏi liệu anh có còn thấy thảnh thơi một khi anh biết lý do được mời tới đấy.
Elizabeth mời Langdon ngồi ổn định rồi không cần mào đầu, lấy ra cái vật mà bà cùng nhóm của mình đã tịch thu được từ một hộc tủ an toàn ở Florence chưa đầy mười hai tiếng trước.
Chờ Langdon nghiên cứu cái ống hình trụ có chạm khắc nhỏ xíu một lúc lâu, Elizabeth mới nói vắn tắt những gì bà đã biết. Vật này là một trụ triện cổ có thể dùng để in. Nó mang theo một hình ảnh đặc biệt kinh khủng - một gã quỷ Satan ba đầu cùng với một chữ duy nhất: Saligia.
“Saligia”, Langdon nói, “là cách nói tiếng Latin để nhắc ta nhớ tới…”.
“Bảy Trọng tội”, Elizabeth nói. “Vâng, chúng tôi đã tìm hiểu về nó.”
“Vâng…” Giọng Langdon có vẻ lúng túng. “Có lý do gì bà muốn tôi xem xét thứ này không?”
“Thực tế là có.” Sinskey lấy lại cái ống trụ và bắt đầu lắc mạnh, làm viên bi chạy lạo xạo.
Langdon ngơ ngác trước hành động của bà, nhưng anh chưa kịp hỏi bà đang làm gì thì đầu mút cái ống trụ bắt đầu sáng lên, về bà chĩa nó vào một tấm cách nhiệt trên vách chiếc máy bay đã được dọn sạch nội thất.
Langdon huýt sáo nhẹ và tiến lại phía hình ảnh được chiếu
“Bức Vực Địa ngục của Botticelli”, Langdon nói. “Dựa theo Hỏa ngục của Dante. Mặc dù tôi đoán có lẽ bà cũng đã biết rồi.”
Elizabeth gật đầu. Bà và đồng nghiệp đã xác định danh tính bức vẽ qua Internet, và rất ngạc nhiên khi biết đó là tác phẩm cúa Botticelli, một họa sĩ nổi danh với những kiệt tác sáng tạo, lý tưởng hóa như Thần Vệ nữ chào đời và Câu chuyện mùa xuân. Sinskey yêu cả hai tác phẩm mặc dù chúng đều mô tả sự sinh sôi nảy nở và sức sáng tạo của cuộc sống - điều chỉ càng khiến bà nhớ đến bi kịch không thể mang thai của mình - tâm sự hối tiếc duy nhất trong cuộc đời đầy ý nghĩa của bà.
“Tôi hy vọng”, Sinskey nói, “rằng anh có thể nói cho tôi biết vẽ những biểu tượng ẩn giấu trong bức vẽ này”.
Lần đầu tiên trong buổi tối hôm nay, trông Langdon tỏ ra bồn chồn “Có phải đó là lý do bà gọi tôi đến đây không? Tôi nghĩ bà đã nói đó là một chuyện khẩn cấp.”
“Xin làm ơn!”
Langdon thở dài kiên nhẫn. “Tiến sĩ Sinskey, nói chung, nếu bà muốn biết về một bức tranh cụ thể thì bà nên liên hệ với bảo tàng nơi lưu giữ tác phẩm gốc. Trong trường hợp này, đó phải là Thư viện Tông đồ của Vatican. Tòa thánh có rất nhiều chuyên gia siêu hạng ngành thánh tượng có khả năng…”
“Tòa thánh rất ghét tôi.”
Langdon nhìn bà thảng thốt: “Ghét bà ư? Tôi cứ nghĩ mình là người duy nhất.”
Bà mỉm cười buồn bã. “WHO thấy rõ rằng việc có sẵn các biện pháp tránh thai là một trong những chìa khóa giải quyết vấn đề sức khỏe toàn cầu - vừa để ngăn chặn các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục như AIDS và cũng để kiểm soát dân số tổng thể.”
“Nhưng Tòa thánh lại cảm thấy hoàn toàn khác”
“Đúng vậy. Họ bỏ ra rất nhiều công sức và tiền bạc truyền bá cho các nước thế giới thứ ba tin rằng phòng tránh thai là xấu xa.”
“À, vâng”, Langdon nói kèm theo một nụ cười ranh mãnh.
“Còn ai nói với thế giới về chuyện quan hệ tình dục tốt hơn một đám những cụ ông độc thân tuổi bát tuần nữa chứ?”
Sinskey càng lúc càng thấy thích vị giáo sư này.
Bà lắc lắc cái ống trụ để nạp lại năng lượng cho nó và sau đó chiếu hình ảnh lên tường lần nữa. “Giáo sư, hãy nhìn kỹ hơn xem.”
Langdon bước lại phía hình ảnh, chăm chú xem xét nó, trong lúc vẫn tiến lại càng lúc càng gần hơn. Đột nhiên, anh dừng phắt lại. “Thật lạ lùng. Nó đã bị thay đổi.”
Không làm anh ta mất nhiều thời gian, “Phải, và tôi muốn anh cho tôi biết những chỗ thay đổi mang ý nghĩa gì.”
Langdon im lặng, nhìn khắp toàn bộ hình ảnh, dừng lại để ghi ra mười chữ cái đọc thành catrovacer, sau đó là chiếc mặt nạ dịch hạch, rồi cả câu trích dẫn lạ lùng ở quanh rìa nói về “đôi mắt chết chóc”.
“Ai đã làm việc này?”, Langdon hỏi. “Nó từ đâu mà ra?”
“Nói thật, lúc này anh biết càng ít càng tốt. Điều tôi hy vọng là anh có thể phân tích những thay đổi này và cho chúng tôi biết chúng mang ý nghĩa gì.” Bà ra hiệu về phía chiếc bàn ở góc.
“Ở đây ư? Ngay bây giờ ư?”
Bà gật đầu. “Tôi biết đó là một đòi hỏi có phần quá đáng, nhưng tôi không biết giải thích làm sao cho hết tầm quan trọng của chuyện này đối với chúng tôi,” bà ngừng lại. “Nó chính là vấn đề sinh tử.”
Langdon lo lắng nhìn bà. “Giải mã thứ này có thể phải mất một lúc, nhưng tôi cho rằng nếu nó quan trọng với bà đến thế.
“Cảm ơn anh”, Sinskey nói trước khi anh kịp thay đổi suy nghi “Anh có cần phải gọi ai khác không?”
Langdon lắc đầu và bảo bà anh đang có kế hoạch về một kỳ nghỉ cuối tuần yên tĩnh một mình,
Quá tốt, Sinskey để anh ở lại bàn làm việc cùng với cái máy chiếu, giấy, bút chì và một chiếc máy tính xách tay có kết nối vệ tinh bảo mật. Dù cực kỳ băn khoăn về lý do tại sao WHO lại quan tâm đến một bức vẽ đã bị cải biên của Botticelli, nhung Langdon vẫn nghiêm túc bắt tay vào việc.
Tiến sĩ Sinskey đinh ninh anh có thể kết thúc việc tìm hiểu hình ảnh kia chỉ trong vài tiếng mà không cần nghỉ, cho nên bà cũng tập trung giải quyết một số công việc của riêng mình. Thỉnh thoảng bà lại nghe thấy anh lắc lắc cái máy chiếu và viết loạt xoạt lên giấy. Gần mười phút trôi qua, Langdon buông bút và tuyên bố, “Cerca trova”.
Sinskey ngước nhìn lên. “Cái gì cơ?”
“Cerca trova”, anh nhắc lại. “Hãy tìm và sẽ thấy. Đó là những gì mật mã này muốn nói.”
Sinskey vội đi lại và ngồi xuống sát cạnh anh, lắng nghe một cách say sưa trong lúc Langdon giải thích xem các tầng địa ngục của Dante đã được thay đổi như thế nào, và rằng khi được đặt lại đúng thứ tự thì chúng sẽ tạo thành cụm từ tiếng Ý cerca trova.
Tim kiếm và sẽ thấy ư? Sinskey tự hỏi. Đó là thông điệp mà gã điên ấy gửi tới mình sao? Cụm từ nghe giống như một lời thách thức trực tiếp. Ký ức đang nhiễu loạn của bà về những lời cuối cùng của kẻ điên kia trong cuộc gặp gỡ của họ tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại lại trở lại trong tâm trí: Vậy có vẻ như màn khiêu vũ của chúng ta đã bắt đầu.
“Trông bà tái nhợt kìa”, Langdon nói và chăm chú nhìn bà. “Tôi đoán đây không phải là thông điệp bà mong đợi phải không?”
Sinskey cố trấn tĩnh, vuốt vuốt chiếc bùa trên cổ mình. “Không hẳn. Cho tôi biết… anh có tin tấm bán đổ địa ngục này đang gợi ý tôi tìm kiếm thứ gì đó không?”
“Có, Cerca trova.”
“Và nó gợi ý tôi tìm ở chỗ nào?”
Langdon xoa xoa cằm mình trong khi các nhân viên WHO khác bắt đầu quây lại xung quanh, vẻ háo hức chờ nghe thông tin. “Không nói gì nhiều… không hề, mặc dù tôi có ý tưởng về chỗ bà nên bắt đầu.”
“Nói cho tôi biết đi”, Sinskey yêu cầu, có vẻ ép buộc hơn mức Langdon nghĩ.
“Chà, bà cảm thấy Florence, ở Ý, thế nào?”
Sinskey đờ người, phải cố hết sức không thể hiện phản ứng gì. Nhưng các nhân viên của bà thì khả năng kiềm chế không bằng. Tất cả bọn họ cùng nhìn nhau thảng thốt. Một người vớ lấy điện thoại và bấm số. Một người khác vội vàng bước qua cửa tới phía trước máy bay.
Langdon ngơ ngác. “Tôi đã nói gì à?”
Chắc chắn rồi, Sinskey nghĩ. “Điều gì khiến anh nói đó là Florence?”
“Cerca trova”, anh đáp lại, nhanh nhẹn kể lại bí mật đã có từ lâu liên quan đến bức tranh tường của Vasari tại Cung điện Vecchio.
Đích thị là Florence, Sinskey nghĩ, cảm thấy đã nghe đủ. Rõ ràng, không thể là trùng hợp ngẫu nhiên khi kẻ thù của bà lại nhảy lầu tự sát cách Cung điện Vecchio ở Florence chưa đầy ba dãy nhà.
“Giáo sư”, bà nói, “khi tôi cho anh thấy lá bùa của tôi lúc trước và gọi đó là một thương thần trượng, anh sững lại, như thể anh muốn nói gì đó, nhưng khi đó anh do dự và dường như đã thay đổi suy nghĩ. Anh định nói điều gì?”.
Langdon lắc đầu. “Không có gì cả. Chuyện vớ vẩn thôi. Thỉnh thoảng thói quen nghề nghiệp làm tôi có chút độc đoán”.
Sinskey nhìn xoáy vào mắt anh. “Tôi hỏi bởi vì tôi cần biết tôi có thể tin được anh không. Anh định nói gì nào?”
Langdon nuốt khan và hắng giọng. “Không liên quan lắm nhưng bà nói lá bùa của bà là một biểu tượng y học cổ, đúng là vậy. Nhưng khi bà gọi nó là thương thần trượng, bà đã mắc phải một nhầm lẫn rất phổ biến. Thương thần trượng có hai con rắn trên một cây gậy và có cánh ở trên đỉnh. Chiếc bùa của bà chỉ có một con rắn và không có cánh. Biếu tượng của bà gọi là…”
“Cây gậy Asclepius.”
Langdon nghiêng đầu ngạc nhiên. “Vâng. Rất chính xác.”
“Tôi biết. Tôi chỉ kiếm tra mức độ thành thực của anh thôi.”
“Sao cơ?”
“Tôi tò mò muốn biết liệu anh có nói cho tôi biết sự thật hay không, cho dù điều đó có thể khiến tôi khó chịu đến đâu.”
“Nghe có vẻ như tôi không qua được bài kiểm tra.”
“Đừng làm như vậy lần nữa. Hoàn toàn trung thực là cách duy nhất anh và tôi có thể làm việc với nhau trong vụ này.”
“Làm việc với nhau ư? Chúng ta vẫn chưa kết thúc ở đây à?”
“Chưa, thưa giáo sư, chúng ta chưa kết thúc. Tôi cần anh đến Florence đế giúp tôi tìm một thứ.”
Langdon nhìn sững mà không tin nổi. “Tối nay sao?”
“Tôi e là như vậy. Tôi chưa nói với anh về bản chất nghiêm trọng thật sự của tình huống này.”
Langdon lắc đầu. “Bà nói gì với tôi không thành vấn đề. Tôi không muốn bay đến Florence.”
“Tôi cũng vậy”, bà đanh giọng. “Nhưng rất tiếc, thời gian của chúng ta đang cạn dần.”
--62--
Mặt trời giữa trưa chiếu lên phần nóc khá trang nhã của đoàn tàu Frecciargento cao tốc ở Ý khi nó lao về phía bắc, cắt thành một đường cong yêu kiều qua vùng nông thôn Tuscan. Mặc dù đang rời khỏi Florence với vận tốc một trăm bảy mươi tư dặm mỗi giờ, nhưng đoàn tàu “mũi tên bạc” gần như không hề tạo ra tiếng ồn, những tiếng lanh canh nhè nhẹ lặp đi lặp lại cùng chuyển động lắc lư khe khẽ của nó đem lại cảm giác khá dễ chịu cho hành khách.
Với Robert Langdon, một tiếng đồng hồ vừa qua là khoảng thời gian mờ mịt.
Lúc này, trên đoàn tàu cao tốc Frecciargento, Langdon, Sienna và bác sĩ Ferris ngồi ở một trong những salottini riêng - loại buồng nhỏ hạng nhất có bốn ghế da và một bàn gấp. Ferris đã dùng thẻ tín dụng của mình mua toàn bộ buồng, cùng với bánh mỳ kẹp và nước khoáng, những thứ Langdon và Sienna ngấu nghiến hết sạch sau khi đã rửa ráy trong phòng vệ sinh cạnh buồng riêng của họ.
Khi cả ba người ổn định chỗ để thực hiện chuyến đi bằng tàu hỏa dài hai tiếng tới Venice, bác sĩ Ferris lập tức nhìn đăm đăm chiếc mặt nạ người chết của Dante nằm trên mặt bàn ở giữa họ, trong cái túi Ziploc. “Chúng ta cần biết chính xác chiếc mặt nạ này chỉ dẫn chúng ta tới nơi nào ở Venice”
“Và phải thật nhanh”, Sienna nói thêm, giọng cô đẩy khẩn trương. “Có lẽ đó là hy vọng duy nhất của chúng ta nhằm ngăn chặn đại dịch của Zobrist.”
“Khoan đã”, Langdon nói, chặn một tay lên chiếc mặt nạ, “Anh đã hứa một khi chúng ta an toàn lên được đoàn tàu này, sẽ cho tôi một số câu trả lời về mấy ngày qua. Cho tới giờ, tất cả những gì tôi biết là WHO đã tuyển mộ tôi tại Cambridge để giúp giải mã bức Vực Địa ngục của Zobrist. Ngoài ra, anh chưa nói gì với tôi cả.”
Bác sĩ Ferris trở mình vẻ không thoải mái và lại bắt đầu gãi những chỗ mẩn ngứa trên mặt và cổ. “Tôi có thể nhận thấy anh đang thất vọng”, ông ta nói. “Tôi biết chắc rất khó chịu khi không nhớ được những gì đã xảy ra, nhưng nói theo y khoa…” Ông ta liếc nhìn Sienna để xác nhận và sau đó nói tiếp. “Tôi đề nghị anh đừng tiêu tốn năng lượng cố nhớ lại những tình tiết mà anh không thể nhớ. Với các nạn nhân bị chứng mất trí nhớ, tốt nhất là để những điều đã quên chìm vào quên lãng luôn.”
“Vậy à?” Langdon cảm thấy bực bội. “Chả ra làm sao cả! Tôi cần một vài câu trả lời! Tổ chức của anh đưa tôi tới Ý, nơi tôi bị bắn và đánh mất vài ngày của đời mình! Tôi muốn biết việc đó xảy ra như thế nào!”
“Robert”, Sienna dịu dàng nói xen vào, cố trấn an anh. “Bác sĩ Ferris nói đúng. Hoàn toàn không tốt cho anh khi thông tin dồn dập đến cùng một lúc. Hãy nghĩ đến những tình tiết nhỏ mà anh thực sự nhớ được - người phụ nữ tóc bạc, 'tìm và sẽ thấy', những cái xác quằn quại trong bức Vực Địa ngục - các hình ảnh đan xen trong tâm trí anh thành một chuỗi hồi tưởng lộn xộn không thể kiểm soát nổi khiến cho anh gần như mất hết năng lực. Nếu bác sĩ Ferris kể lại mấy ngày qua, gần như chắc chắn ông ấy sẽ khơi gợi được những ký ức khác và các ảo giác của anh có thể bắt đầu trở lại. Chứng mất trí nhớ cũ là một trạng thái đáng sợ. Kích thích những ký ức nhầm chỗ có thể cực kỳ nguy hiểm cho tâm thần.”
Ý nghĩ đó không hề có trong Langdon.
“Chắc chắn anh cảm thấy mất phương hướng”, Ferris nói thêm, “nhưng lúc này anh cần giữ tâm lý ổn định đế tiếp tục hành động. Việc đoán ra được thông điệp của mặt nạ này là điều rất quan trọng.”
Sienna gật đầu.
Langdon thầm nhận ra các bác sĩ có vẻ đều thống nhất ý kiến.
Langdon ngồi im lặng, cố gắng chế ngự những cảm giác bất an của mình. Gặp một người hoàn toàn xa lạ và nhận ra thực tế bạn đã biết người đó vài ngày rồi là một cảm giác rất lạ. Lại nữa, Langdon nghĩ, có gì đó hơi quen quen trong đôi mắt của anh ta.
“Giáo sư”, Ferris nói đầy cảm thông. “Tôi có thể thấy anh không tin tưởng tôi, và điều này hoàn toàn dễ hiểu nếu xét đến tất cả những gì anh đã trải qua. Một trong những hiệu ứng phụ phổ biến của chứng mất trí nhớ là đa nghi nhẹ và ngờ vực.”
Có lý đấy, Langdon nghĩ, bởi lẽ tôi thậm chí còn không thể tin vào trí não của mình.
“Nói đến đa nghi”, Sienna đùa, rõ ràng cố gắng làm dịu không khí, “anh Robert đã nhìn thấy tình trạng phát ban của anh và nghĩ anh bị nhiễm dịch hạch”. “Chỗ phát ban này á? Tin tôi đi, giáo sư, nếu tôi bị dịch hạch, tôi sẽ không điều trị bằng kháng sinh histamine bày bán tự do đâu”, ông ta móc một tuýp thuốc nhỏ trong túi và đưa cho Langdon. Quả nhiên, đó là một tuýp kem chống ngứa chuyên trị các phản ứng dị ứng còn một nửa.
“Tôi xin lỗi về chuyện đó”, Langdon nói, cảm thấy mình thật ngớ ngẩn. “Ngày dài quá mà.”
“Không sao cả”, Ferris nói.
Langdon xoay người về phía cửa sổ, nhìn những gam trầm của vùng thôn quê nước Ý kết hợp trong một bức tranh thanh bình. Những vườn nho và trang trại giờ trở nên thưa thớt hơn khi bình nguyên nhường chỗ cho những quả đồi thấp vùng Apennines. Chỉ lát nữa, đoàn tàu sẽ chạy vào con đèo ngoằn ngoèo và sau đó lại xuống thấp, tiến về phía đông, tới biển Adriatic.
Mình đang tới Venice, anh thầm nhủ. Để tìm kiếm một đại dịch.
Cái ngày lạ lùng hôm nay khiến Langdon cảm giác như thể mình đang di chuyển qua một khung cảnh chẳng có gì khác ngoài những hình thù mơ hồ không có chi tiết cụ thể. Như một giấc mơ.
Mỉa mai thay, những cơn ác mộng lại thường khiến người ta tỉnh giấc, nhưng Langdon cảm thấy như thể mình vừa choàng tỉnh trong một cơn ác mộng.
“Anh nghĩ gì vậy?”, Sienna thì thầm bên cạnh anh.
Langdon ngước lên, mỉm cười mỏi mệt. “Anh đang nghĩ anh sẽ tỉnh giấc ở nhà và nhận ra tất cả chuyện này chỉ là một cơn ác mộng.”
Sienna nghiêng đầu, vẻ bẽn lẽn. “Anh sẽ không nhớ em nếu anh tỉnh dậy và thấy rằng em không hề có thật à?”
Langdon đành cười. “Có chứ, anh sẽ nhớ em chút chút.”
Cô đập nhẹ lên đùi anh. “Đừng có nằm mơ giữa ban ngày nữa đi, giáo sư, và làm việc nào.”
Langdon miễn cưỡng đưa mắt trở lại khuôn mặt nhăn nhúm của Dante Alighieri trên chiếc bàn trước mặt đang trân trân nhìn mông lung lên trần. Anh nhẹ nhàng nhấc chiếc mặt nạ thạch cao lên và lật ngược nó trên tay mình, chăm chú nhìn phần mặt sau lõm, ngay dòng đầu tiên của thông điệp xoáy trôn ốc:
Ôi, các người bị ám ảnh bởi tri thức vững vàng…
Langdon e rằng lúc này mình không thể hiểu nổi.
Thế nhưng anh vẫn bắt tay vào việc.
o O o
Hai trăm dặm phía trước đoàn tàu đang lao vùn vụt, con tàu The Mendacium vẫn buông neo trên biển Adriactic. Ở boong dưới, điều phối viên Laurence Knowlton nghe thấy những tiếng gõ khe khẽ lên buồng kính của mình và thò tay bấm một cái nút bên dưới bàn làm việc, biến vách tường mờ đục thành trong suốt. Bên ngoài, một dáng người thấp nhỏ, rám nắng hiện ra.
Thị Trưởng.
Trông ông ta rất cau có.
Không nói một lời, ông ta bước vào, khóa trái cửa buồng, và bật công tắc để biến buồng kính trở thành mờ đục như cũ. Người ông ta nồng nặc mùi rượu.
“Đoạn video Zobrist để lại cho chúng ta”, Thị Trưởng lên tiếng.
“Vâng, thưa ngài?”
“Tôi muốn xem. Ngay bây giờ.”
