Hỏa Ngục: SỐ 17

http://truyenhiepsi.blogspot.com

Tác giả: Dan Brown


--68--

Nhà ga Santa Lucia của Venice là một công trình thấp và trang nhã làm từ đá xám và bê tông. Nó được thiết kế theo phong cách tối giản hiện đại, với mặt tiền để trống không có ký hiệu nào ngoại trừ một biểu tượng - hai chữ cái FS có cánh - biểu tượng của hệ thống đường sắt bang, Ferrovie dello Stato.

Vì nhà ga nằm ở cực tây con kênh Đại Vận Hà [34] nên hành khách đến Venice chỉ cần bước một bước ra khỏi nhà ga là thấy mình hoàn toàn ngập chìm trong cảnh quan, mùi vị và âm thanh đặc trưng của Venice.

Với Langdon, mùi mặn mòi của một làn gió đại dương trong lành đẫm vị món pizza trắng của những người bán hàng rong trên phố bên ngoài nhà ga luôn là thứ đến với anh trước tiên. Hôm nay, gió từ phía đông thổi vào không khí cả mùi dầu diesel từ hàng dài taxi nước trống không đang đỗ gần đó, phía trên mặt kênh. Hàng chục chủ thuyền vẫy tay và hét mời du khách, hy vọng kéo được một vị khách lên taxi, thuyền đáy bằng, phà, hay xuồng cao tốc cá nhân.

Cảnh nhộn nhạo trên mặt nước, Langdon thầm nghĩ, mắt nhìn cảnh “kẹt xe nổi”. Ít nhiều, cảnh tắc nghẽn hẳn sẽ khiến người ta phát điên ở Boston nhưng lại rất thú vị tại Venice.

Bên kia kênh một tầm ném đá, mái vòm màu xanh đồng mang tính biểu tượng của nhà thờ San Simeone Piccolo vươn cao trên bầu trời về chiều. Nhà thờ này là một trong những công trình có kiến trúc pha trộn nhiều nhất ở châu Âu. Mái vòm dốc một cách khác thường cùng thánh đường hình tròn theo phong cách Byzantine, trong khi cổng vào điện thờ bằng đá cẩm thạch có cột đỡ rõ ràng lại theo khuôn mẫu lối vào kiểu Hy Lạp cố điển của đền Patheon tại Rome. Trên đỉnh lối vào chính là phần trán tường ngoạn mục bằng đá cẩm thạch đẽo nổi tinh tế, mô tả nhiều vị thánh tử đạo.

Venice là một bảo tàng ngoài trời, Langdon nghĩ, ánh mắt anh nhìn xuống dòng nước kênh vỗ ì oạp vào bậc cấp nhà thờ. Một bảo tàng đang từ từ chìm xuống. Mặc dù vậy, khả năng ngập lụt dường như không đáng kế so với mối đe dọa mà Langdon sợ rằng lúc này vẫn đang ẩn nấp bên dưới thành phố này.

Và không ai có ý tưởng gì…

Bài thơ ở mặt sau chiếc mặt nạ người chết của Dante vẫn còn trong tâm trí Langdon, và anh thắc mắc liệu những dòng thơ sẽ dẫn họ tới đâu. Anh vẫn giữ bản chép lại bài thơ trong túi áo, nhưng còn chiếc mặt nạ thạch cao - theo gợi ý của Sienna - Langdon đã bọc vào giấy táo và bí mật cất bên trong một tủ khóa tự phục vụ ở ga tàu. Mặc dù đó là chỗ cất giữ rất không hợp lý đối với một hiện vật quý giá, nhưng hộc tủ chắc chắn vẫn an toàn hơn so với việc cứ mang theo chiếc mặt nạ thạch cao vô giá đi khắp thành phố toàn nước là nước này.

“Robert?”, Sienna vượt lên trước cùng với Ferris, ra hiệu về chiếc taxi nước, “Chúng ta không có nhiều thời gian”.

Langdon vội đi nhanh về phía họ, mặc dù là người say mê kiến trúc, anh gần như vẫn không thể tin đuợc khi phải trải qua một chuyến đi vội vàng dọc theo Đại Vận Hà. Có lẽ không trải nghiệm nào tại Venice thú vị hơn việc ngồi trên phà vaporetto tuyến số 1 - loại xe buýt nước không mái che chính của thành phố - nhất là buổi tối và ngồi ở phía trước khi những thánh đường và cung điện tràn ngập ánh sáng trôi về phía sau.

Hôm nay không có phà rồi, Langdon nghĩ. Những xe buýt dưới nước này có tiếng là chậm, và taxi nước sẽ là lựa chọn nhanh hơn. Nhưng thật không may, vào thời điểm này, đoàn người đứng xếp hàng chờ taxi bên ngoài nhà ga có vẻ như dài vô tận.

Ferris, thấy rõ là không có lòng dạ nào chờ đợi, nhanh chóng đứng ra giải quyết vấn đề. Với một tập tiền mặt hậu hĩnh ông ta nhanh chóng gọi được một chiếc limousine nước - chiếc Veneziano Convertible bằng gỗ gụ Nam Phi hào nhoáng. Mặc dù chiếc thuyền trang nhã này sang quá mức cần thiết nhưng chuyến đi sẽ nhanh chóng và bảo đảm riêng tư - chỉ mất mười lăm phút chạy dọc Đại Vận Hà tới Quảng trường St. Mark.

Người lái thuyền của họ là một anh chàng điển trai mặc bộ đồ hiệu Armani may đo. Trông anh ta giống một tài tử điện ảnh hơn là lái tàu, nhưng nói cho cùng, đây là Venice, mảnh đất của nét thanh lịch Ý.

“Maurizio Pimponi”, anh chàng giới thiệu, nháy mắt với Sienna trong khi chào đón cả nhóm lên thuyền. “Vang trắng Prosecco? Rượu chanh Limoncello? Hay sâm panh?”

“Không, cảm ơn”, Sienna đáp và nói nhanh như bắn liên thanh bằng tiếng Ý để hướng dẫn anh ta đưa họ tới Quảng trường St. Mark càng nhanh càng tốt.

“Chắc chắn rồi!” Maurizio nháy mắt lần nữa. “Thuyền của tôi là chiếc nhanh nhất ở Venezia…”

Khi Langdon và hai người kia ngồi xuống những chiếc ghế bọc vải nhung ở phần khoang không mái che, Maurizio cho động cơ Volvo Penta của thuyền chạy ngược, đưa nó lùi xa bờ một cách thành thục. Sau đó anh ta đánh tay lái sang phải và rồ máy lao tới, lách chiếc thuyền lớn của mình qua cả đám thuyền đáy bằng, khiến cho rất nhiều chủ thuyền mặc sơ mi kẻ vung tay bực bội khi những chiếc thuyền đen bóng bảnh bao của họ nhấp nhô chao đảo do đợt sóng anh ta tạo ra.

“Xin lỗi nhé”, Maurizio lên tiếng cáo lỗi. “Khách VIP.”

Chỉ trong vài giây, Maurizio đã thoát ra khỏi đám đông tắc nghẽn ở ga Santa Lucia và lao băng băng về phía đông, dọc theo Đại Vận Hà. Khi họ tăng tốc bên dưới vòm cầu Ponte degli Scalzi [35], Langdon ngửi thấy hương vị ngọt ngào đặc trưng của món mì xào mực ống seppie al nero - loại mì giữ nguyên sắc đen của chính con mực tuyệt hảo của địa phương - đang ngào ngạt bay ra từ các nhà hàng có mái vòm dọc bờ kênh. Khi họ vòng theo một khúc quành của con kênh, nhà thờ mái vòm đồ sộ San Geremia hiện ra trước mắt.

“Saint Lucia”, Langdon thì thầm, đọc rõ tên vị thánh còn khắc bên hông nhà thờ. “Xương của những người mù lòa.”

“Anh nói sao cơ?”, Sienna ngó lại, hy vọng Langdon có thể đoán ra thêm điều gì đó về bài thơ bí ẩn.

“Không có gì”, Langdon nói. “Ý nghĩ lạ lùng, có lẽ không có gì.” Anh chỉ về phía nhà thờ. “Hãy nhìn dòng chữ khắc? Thánh Lucia được chôn cất ở đó. Thỉnh thoảng tôi có giảng về nghệ thuật viết thánh truyện - nghệ thuật khắc họa các vị thánh Thiên Chúa giáo, và tôi vừa chợt nghĩ ra Thánh Lucia là thánh bảo trợ của người mù.”

“Thánh Lucia”, Maurizio xen vào, vẻ háo hức muốn góp chuyện, “Vị thánh của người mù! Các vị có biết chuyện không?” ông chủ thuyền ngoảnh nhìn lại họ và hét to át cả tiếng động cơ. “Lucia đẹp đến mức tất cả đàn ông đều thèm khát nàng. Cho nên, để giữ mình thanh khiết vì Chúa và bảo vệ trinh bạch, Lucia đã tự móc mắt mình.”

Sienna xuýt xoa, “Đó là hết lòng.”

“Để thưởng cho sự hy sinh của nàng”, Maurizio nói thêm, “Chúa ban cho nàng một đôi mắt còn đẹp hơn nữa!”.

Sienna nhìn Langdon. “Anh ta biết rõ chuyện đó vô lý đúng không?”

“Chúa khiến người ta tin bằng những cách thức huyền bí.” Langdon nhận xét, hình dung ra hai mươi bức vẽ theo trường phái Thợ Cả [36] nổi tiếng mô tả Thánh Lucia bưng cặp nhãn cầu của mình trên một chiếc đĩa phẳng.

Có rất nhiều khảo dị về câu chuyện Thánh Lucia, nhưng tất cà đều nhắc đến việc Lucia tự móc đôi mắt khiến người ta thèm khát của mình và đặt lên một chiếc đĩa phẳng để đưa cho người theo đuổi nàng một cách cuồng si và khảng khái tuyên bố: “Đây, anh đã có thứ anh thèm muốn… và giờ tôi cầu xin anh để cho tôi được yên!”, Điều kỳ lạ là chính Kinh Thánh đã khơi nguồn cảm hứng cho hành động tự hủy hoại mình của Lucia, mãi mãi gắn kết nàng với lời răn nổi tiếng của Chúa Jesus: “Nếu mắt con làm dịp tội [37] con, hãy moi đôi mắt đó và vứt đi”.

'Moi', Langdon ngẫm nghĩ, nhận ra cũng chính từ này được dùng trong bài thơ. Hãy tìm gã tổng trấn bội bạc của Venice, kẻ moi xương cả người mù lòa.

Cảm thấy khó hiểu với sự trùng hợp này, anh băn khoăn không biết liệu có phải đây là một ẩn ý rằng Thánh Lucia chính là người mù lòa được nhắc đến trong bài thơ không.

“Maurizio”, Langdon gọi to, tay chỉ nhà thờ San Geremia. “Hài cốt của thánh Lucia ở trong nhà thờ đó phải không?”

“Đúng rồi, một ít thôi”, Mauricio nói trong khi điều khiển thuyền bằng một tay rất điệu nghệ và ngoái lại nhìn các vị khách của mình, chẳng cần để tâm đến thuyền bè đi lại phía trước. “Nhưng hầu như là không còn. Thánh Lucia rất được yêu kính nên di cốt của bà phân tán ở nhiều nhà thờ trên khắp thế giới. Người dân Venice yêu kính Thánh Lucia nhất, dĩ nhiên rồi, và vì thế chúng tôi tưởng niệm…”

“Maurizio”, Ferris gọi to. “Thánh Lucia bị mù, anh thì không. Nhìn đằng trước kìa!”

Maurizio cười rất thoải mái và đánh tay lái vừa kịp để khéo léo tránh đâm phải một chiếc thuyền vừa sáp tới.

Sienna chăm chú nhìn Langdon. “Anh đã hiểu được gì rồi? Gã tổng trấn moi xương cả người mùa lòa à?”

Langdon mím môi. “Anh không dám chắc.”

Anh nhanh chóng kể cho Sienna và Ferris câu chuyện về thánh tích của Thánh Lucia - di cốt của bà - được xem là câu chuyện lạ lùng nhất trong số truyện về các vị thánh. Người ta cho rằng, khi nàng Luda xinh đẹp khước từ những lời tán tỉnh của một kẻ quyền thế theo đuổi, gã này đã tố giác nàng và nàng bị thiêu sống, nhưng theo truyền thuyết, thân xác nàng không cháy. Vì da thịt nàng không bắt lửa nên người ta tin rằng di hài của nàng có quyền năng đặc biệt và bất kỳ ai sở hữu được chúng đều có một tuổi thọ kéo dài.

“Hài cốt có phép thần thông ư?”, Sienna hỏi

“Phải, người ta tin như vậy, và đó là lý đo di hài của bà phân tán khắp thế giới. Trong suốt hai thiên niên kỷ, những nhà lãnh đạo uy quyền đều tìm cách né tránh tuổi già và cái chết bằng việc sở hữu xương cốt của thánh Lucia. Xương của bà bị đánh cắp, rồi lại bị nẫng tay trên, được hoàn trả về chỗ cũ, và bị chia nhỏ nhiều lần hơn bất kỳ vị thánh nào khác. Xương của bà đã qua tay ít nhất cả tá những nhân vật uy quyền nhất trong lịch sử.”

“Bao gồm cả một gã tổng trấn bội bạc à?”, Sienna hỏi.

Hãy tìm gã tổng trấn bội bạc của Venice, kẻ cắt rời những chiếc đầu ngựa… và moi xương cả người mù lòa.

“Rất có thể”, Langdon nói, lúc này đã nhận ra rằng Hỏa ngục của Dante có nhắc đến Thánh Lucia rất rõ. Lucia là một trong ba người phụ nữ được ban phước đã giúp gọi Virgil tới giúp Dante thoát khỏi địa ngục. Hai người phụ nữ kia là Đức mẹ Đồng trinh Mary và nàng Beatrice yêu dấu của Dante, nhưng Dante đặt Thánh Lucia ở vị trí cao nhất trong số họ.

“Nếu anh đúng trong chi tiết này”, Sienna nói, giọng đầy phấn khích, “thì cũng chính gã tổng trấn bội bạc đã cắt rời những đầu ngựa…”

“Và còn đánh cắp xương của Thánh Lucia nữa”, Langdon kết luận.

Sienna gật đầu. “Điều đó sẽ thu hẹp bản danh sách của chúng ta đáng kể đấy.” Cô đưa mắt nhìn Ferris. “Anh có chắc điện thoại của anh không hoạt động không? Chúng ta có thể tìm kiếm trên mạng về…”

“Chết ngắc rồi”, Ferris nói. “Tôi vừa kiểm tra. Rất tiếc.”

“Chúng ta sắp đến đó bây giờ.” Langdon nói. “Tôi tin chắc chúng ta có thể tìm được câu trả lời gì đó tại Thánh đường St.Mark”

St.Mark là mảnh ghép duy nhất mà Langdon thấy chắc chắn trong câu đố. Bảo quán mạ vàng của tri thức thánh thiêng. Langdon hy vọng thánh đường sẽ hé lộ nhân dạng của vị tổng trấn bí ẩn… và từ đó, nếu may mắn, sẽ là tòa cung điện cụ thể mà Zobrist đã lựa chọn để tung ra đại dịch của hắn. Vì ở đây, con quái vật của địa phủ chờ đợi.

Langdon cố gắng gạt khỏi tâm trí mình bất kỳ hình ảnh nào về đại dịch, nhưng chẳng có tác dụng gì. Anh hay tự hỏi thành phố lạ thường này trông như thế nào vào thời kỳ hoàng kim của nó lúc là trung tâm thương mại của châu Âu, trước khi trận đại dịch hạch làm thành phố suy yếu đến mức nó bị người Ottoman chinh phục, rồi đến Napoleon. Theo những thông tin thu thập được, không còn thành phố nào trên thế giới đẹp hơn thế, sự giàu có và văn hóa của dân cư nơi đây là không thể so sánh được.

Nhưng thật mỉa mai, chính thị hiếu sính những thứ xa xỉ nước ngoài của người dân ở đây đã đưa tai họa đến - bệnh dịch hạch chết người từ Trung Quốc tràn đến Venice trên lưng những con chuột bám theo các thương thuyền. Đại địch từng tiêu diệt hai phần ba dân số Trung Quốc đã tràn đến châu Âu và nhanh chóng tàn sát một phần ba dân số ở đây - trẻ cũng như già, giàu cũng như nghèo.

Langdon đã đọc những mô tả về cuộc sống ở Venice trong thời kỳ dịch hạch bùng phát. Không có nhiều đất khô để an táng người chết, những xác người sưng tấy trôi nổi trên các dòng kênh, một số khu vực tắc nghẽn xác chết đến mức các công nhân phải làm việc như những phu kéo gỗ và đẩy các xác chết ra biển. Dường như những lời cầu nguyện không thể xoa dịu cơn cuồng nộ của đại dịch. Đến khi các quan chức của thành phố nhận ra chính lũ chuột gây ra bệnh dịch thì đã quá muộn, nhưng Venice vẫn ban hành một sắc lệnh, theo đó mọi con tàu đều phải buông neo ngoài khơi đủ bốn mươi ngày trước khi được phép bốc dỡ hàng hóa. Đến hôm nay, con số bốn mươi - quaranta trong tiếng Ý vẫn như là một lời nhắc hãi hùng về nguồn gốc của từ quarantine [38].

Khi thuyền của họ tăng tốc vượt qua một khúc quành nữa trên kênh, có một tấm vải bạt đỏ thường thấy trong dịp lễ hội phất phơ làn gió nhẹ, kéo sự chú ý của Langdon khỏi những ý nghĩ u ám về cái chết để hướng đến một tòa nhà ba tầng trang nhã bên trái anh.

SÒNG BẠC VENEZIA: XÚC CẢM VÔ HẠN.

Langdon chưa bao giờ hiểu hết các ngôn từ trên băng rôn sòng bạc, nhưng tòa nhà theo phong cách Phục Hưng ấn tượng chính là một phần trong cảnh quan Venice kể từ thế kỷ XVI. Từng nổi tiếng là một biệt thự tư nhân, giờ đây nó chính là sòng bạc sang trọng. Vào năm 1883, đây còn là nơi chứng kiến cái chết vì đột quỵ của nhà soạn nhạc Richard Wagner ngay sau khi ông soạn xong vở opera Parsifal.

Kế bên phải sòng bạc là một mặt tiền trát vữa nhám theo phong cách Baroque có treo một băng rôn còn lớn hơn, màu xanh dương thẫm, ghi rõ CA' PESARO: PHÒNG TRIỂN LÃM QUỐC TẾ NGHỆ THUẬT HIỆN ĐẠI. Nhiều năm trước, Langdon đã từng vào trong này và xem kiệt tác Nụ hôn của Gustav Klimt khi tác phẩm được mượn từ Vienna. Tác phẩm diễn dịch bằng vàng lá chói lọi của Klimt mô tả cặp tình nhân quấn lấy nhau đã khơi gợi trong anh một cảm xúc mãnh liệt, và cho tới hôm nay, Langdon vẫn biết ơn Phòng triển lãm Ca' Pesaro của Venice vì đã đánh thức niềm say mê suốt đời của anh dành cho nghệ thuật hiện đại.

Maurizio cho thuyền chạy tới, giờ lao nhanh hơn vào dòng kênh rộng.

Phía trước, cây cầu Rialto nổi tiếng đứng sừng sững ở vị trí nửa quãng đường tới Quảng trường St. Mark. Khi họ tới gần, chuẩn bị vọt qua dưới gầm cầu, Langdon nhìn lên và thấy một bóng người đơn độc đứng bất động bên lan can, nhìn chòng chọc xuống họ với gương mặt u ám.

Bộ mặt đó vừa quen thuộc vừa đáng sợ.

Theo bản năng, Langdon lùi lại.

Bộ mặt đó xám xịt và dài thuỗn, có đôi mắt lạnh lẽo chết chóc với một cái mũi mỏ chim dài.

Chiếc thuyền vừa lướt qua phía dưới bóng người hắc ám thì Langdon nhận ra đó chỉ là một du khách đang khoe món đồ mới mua được - một trong hàng trăm chiếc mặt nạ dịch hạch được bán ra mỗi ngày tại chợ Rialto gần đó.

Tuy nhiên, ngày hôm nay, thứ phục sức kia dường như rất ma quái.


--69--

Quảng trường St Mark nằm ở đầu mút phía nam Đại Vận Hà của Venice, nơi thủy lộ này nhập vào biển khơi. Nhìn xuống chỗ giao thoa nguy hiểm này là pháo đài hình tam giác mộc mạc mang tên Dogana da Mar - Văn phòng Thuế quan Hàng hải - với tòa tháp canh từng trấn giữ cho Venice trước sự xâm lăng của ngoại bang. Ngày nay, tòa tháp được thay thế bằng một quả cầu vàng rất lớn và một cái chong chóng thời tiết có hình nữ thần may mắn, mỗi khi thay đổi hướng theo chiều gió đều nhắc cho các thủy thủ gắn bó với đại dương nhớ đến sự khó lường của số phận.

Khi Maurizio cho chiếc thuyền bóng bẩy lướt về cuối con kênh, biển khơi sóng vỗ hiện ra trước mặt họ đầy hăm dọa. Robert Langdon đã đi theo tuyến đường này nhiều lần trước đó, mặc dù luôn bằng một chiếc phà lớn hơn nhiều, và anh cảm thấy không thoải mái khi chiếc limousine của họ nhao lên những ngọn sóng cồn đang cuộn lên từng đợt.

Để tới được cầu cảng của Quảng trường St Mark, thuyền của họ cần vượt qua một vùng đầm tắc nghẽn với hàng trăm phương tiện thủy, từ những du thuyền sang trọng đến tàu chở dầu, các thuyền buồm tư nhân, và cả những tàu lớn đồ sộ. Có cảm giác như thể họ đang ra khỏi một con đường thôn quê và hòa vào một siêu xa lộ tám làn xe vậy.

Sienna có vẻ bối rối không kém khi nhìn thấy con tàu chở khách cao mười tầng lừng lững đang lướt qua trước họ, chỉ cách có ba trăm thước. Các sàn tàu lố nhố hành khách, tất cả đều bu lấy lan can chụp ảnh Quảng trường St Mark từ phía biển. Trong vệt nước cồn lên của con tàu, ba chiếc tàu khác xếp hàng chờ đến lượt lướt qua danh thắng nổi tiếng nhất của Venice. Langdon từng nghe nói rằng trong những năm gần đây, số tàu thuyền đã tăng lên nhanh đến mức có cả chuỗi tàu biển bất tận qua lại suốt ngày đêm.

Ở ví trí cầm lái, Maurizio nhìn dãy tàu chở khách đang lướt qua và nhìn sang trái nơi có một cầu cảng có mái che nằm cách đó không xa. “Tôi đỗ ở quán rượu Harry's nhé?” Anh ta ra hiệu về phía nhà hàng nổi tiếng vì đã sáng chế ra món đồ uống Bellini [39]. “Đi bộ đến Quảng trường St. Mark không xa lắm đâu.”

“Không được, đưa chúng tôi đi hết đường đi” Ferris yêu cầu, chỉ tay qua đầm nước về phía những cầu cảng của Quảng trường St. Mark.

Maurizio nhún vai hiền lành. “Sẽ được như ý các vị thôi. Đi nào!”

Tiếng động cơ rồ lên và chiếc limousine bắt đầu cắt qua mặt nước gợn sóng, lao vào một trong những luồng lạch có phao tiêu dánh dấu. Những con tàu lớn chở khách đang lướt qua trông chẳng khác gì các tòa nhà nổi, lằn sóng của chúng xô những chiếc thuyền tựa như những cái phao bẩn.

Trước sự ngạc nhiên của Langdon, hàng chục chiếc thuyền đáy bằng cũng đang băng băng vượt đầm nước như họ. Những thân thuyền thanh mảnh - dải gần một trăm hai mươi mét và nặng hơn sáu trăm cân - có vẻ rất vững vàng trong vùng nước sóng gió. Mỗi thuyền do một người chèo vững chân điều khiển. Họ đứng trên bên mạn trái thân thuyền, mặc áo sơ mi kẻ sọc đen trắng truyền thống và điều khiển một mái chèo duy nhất gắn vào mép thuyền bên phải. Mặc dù sóng lớn nhưng thấy rõ chiếc thuyền đáy bằng nào cũng nghiêng nghiêng sang trái đầy bí ẩn, một điều kỳ quái mà Langdon biết là do kết cấu phi đối xứng của thuyền. Tất cả thân thuyền đáy bằng đều uốn cong về bên phải, ngược với phía lái thuyền, để khắc phục xu hướng thuyền cứ xoay sang trái do chèo thuyền bên phải.

Maurizio tự hào chỉ vào một trong những chiếc thuyền đáy bằng khi họ chạy qua nó. “Các vị thấy thiết kế kim loại ở đằng trước không?”, anh ta gọi với lại qua vai, làm hiệu về phía món đồ trang trí trang nhã nhô ra từ mũi thuyền. “Đó là bộ phận kim loại duy nhất trên thuyền đáy bằng - gọi là ferro di prua - lưỡi hái sắt mũi thuyền. Đó chính là hình ảnh của Venice!”

Maurizio giải thích rằng bộ phận trang trí hình lưỡi hái nhô lên từ mũi thuyền đáy bằng ở Venice có một ý nghĩa biểu trưng. Hình dạng uốn cong của ferro đại diện cho Đại Vận Hà, sáu răng của nó thể hiện cho sáu quận hay sestieri của Venice, và phần lưỡi thuôn là mũ sắt cách điệu của quan tổng trấn Venice.

Quan tổng trấn, Langdon nghĩ thầm, ý nghĩ của anh quay trở lại với nhiệm vụ trước mắt. Hãy tìm gã tổng trấn bội bạc của Venice, kẻ cắt rời những đầu ngựa… và moi xương cả người mù lòa.

Langdon đưa mắt ngước nhìn dải đất ven bờ phía trước, nơi một công viên nhỏ có trồng cây tiếp giáp với mép nước. Vượt lên trên những ngọn cây in bóng lên bầu trời không gợn mây là tòa tháp bằng gạch đỏ của tháp chuông St. Mark, trên đỉnh có Tổng lãnh thiên thần Gabriel bằng vàng dõi mắt nhìn xuống từ độ cao chóng mặt, gần một trăm mét.

Trong một thành phố mà mọi vật dù cao lớn đến đâu cũng đều có xu hướng dễ chìm nghỉm, thì tòa tháp sừng sững Campanile di San Marco cũng chỉ giống như một ngọn đèn tín hiệu cho tất cả những ai mạo hiểm tiến vào cái mê cung kênh rạch và ngõ hẹp của Venice.

Khi một du khách bị lạc đường, chỉ cần nhìn lên bầu trời, sẽ nhận ra đường trở lại Quảng trường St. Mark. Langdon, vẫn thấy khó tin rằng tòa tháp đồ sộ này từng sụp đổ vào năm 1902, để lại một đống gạch vụn khổng lồ ngay Quảng trường St Mark. Điều kỳ lạ là chỉ có duy nhất một chú mèo bị thương vong trong thảm họa đó.

Du khách tới Venice sẽ được trải nghiệm cảm giác độc đáo khi đến thăm những cảnh quan đẹp đến ngỡ ngàng của nơi này, nhưng địa điểm ưa thích của Langdon luôn là Riva degli Schiavoni. Khu vực đi đạo lát đá rộng rãi này ngay kề mép nước và được xây dựng từ thế kỷ IX bằng phù sa nạo vét. Nó chạy dài từ xưởng tàu cũ đến tận Quảng trường St Mark.

Dọc theo nó là các quán cà phê xinh xắn, những khách sạn trang nhã, và thậm chí cả nhà thờ của gia đình Antonio Vivaldi [40]. Điểm khởi đầu của Riva là tại xưởng đóng tàu cổ của Venice - nơi mùi hương nồng nồng của chất nhựa cây đun sôi từng tràn ngập không khí khi những người thợ đóng tàu quét nhựa nóng lên những con tàu chưa hoàn thiện để bít kín các lỗ thủng. Người ta đồn rằng chính một lần tới thăm các xưởng đóng tàu này mà Dante Alighieri có cảm hứng đưa những dòng sông nhựa sôi sùng sục vào Hỏa ngục của mình như một công cụ trừng phạt.

Langdon đưa mắt sang phải bám theo Riva chạy dọc bên nước, và dừng lại ở đoạn cuối rất ấn tượng của khu vực đi dạo này. Ở đây, trên rìa tận cùng phía nam của Quảng trường St Mark, không gian lát đá rộng rãi này tiếp xúc trực tiếp với biển. Vào thời hoàng kim của Venice, chỗ vách bờ dựng đứng này được tự hào đặt tên là “rìa của tất cả nền văn minh”.

Hôm nay, khoảng không gian dài ba trăm thước nơi Quảng trường St. Mark gặp gỡ biển cả, vẫn như mọi khi có không dưới trăm chiếc thuyền đáy bằng sơn đen bập bênh va vào bờ neo, mũi thuyền hình lưỡi hái nhô lên ngụp xuống trên nền những tòa nhà bằng đá cẩm thạch trắng của quảng trường.

Langdon vẫn không hiểu vì lý do gì mà cái thành phố nhỏ bé – chỉ rộng gấp đôi công viên Central Park ở New York - vươn lên từ biển khơi này lại có thể trờ thành đế chế rộng lớn và giàu có nhất phương Tây.

Khi Maurizio cho thuyền chạy lại gần hơn, Langdon có nhận ra quảng trường chính đông nghịt người. Napoleon từng gọi Quảng trường St. Mark là “phòng khách của châu Âu”, và theo cảnh tượng nhìn thấy, “gian phòng” này đang chủ trì một đại tiệc đông nghịt khách khứa. Toàn bộ quảng trường trông như thể bị chìm dưới sức nặng của các vị khách tới chiêm ngưỡng.

“Chúa ơi”, Sienna thì thào, mắt nhìn đám đông khách tham quan.

Langdon không rõ có phải cô nói như vậy vì sợ rằng Zobrist có thể đã lựa chọn một địa điểm đông đúc như thế này để tung ra đại dịch của hắn, hay bởi vì cô cảm thấy rằng trên thực tế Zobrist có thế có lý khi cảnh báo về những hiểm họa của tình trạng quá tải dân số.

Mỗi năm Venice đón tiếp một số lượng du khách đông kinh khủng - ước tính chiếm đến một phần ba ngàn dân số thế giới - khoảng hai mươi triệu khách trong năm 2000. Với con số một tỉ người được bổ sung vào dân số thế giới kể từ thời gian đó, giờ đây hàng năm, thành phố này đang phải rên rỉ dưới sức nặng của thêm ba triệu du khách nữa. Venice, giống như chính hành tinh này, chỉ có một không gian nhất định, và đến một lúc nào đó sẽ không còn khả năng nhập đủ lương thực, xử lý đủ lượng chất thải, hay tìm đủ giường ngủ cho tất cả những người muốn tới thăm nó.

Ferris đứng gần đó, nhưng mắt không nhìn về phía đất liền mà lại nhìn ra biển, quan sát tất cả những con tàu đang tiến vào.

“Anh ổn chứ?”, Sienna hỏi, mắt nhìn ông ta vẻ tò mò.

Ferris quay phắt lại. “Ơ, tốt thôi… chỉ đang suy nghĩ.” Ông ta hướng lên phía trước và gọi Maurizio: “Đậu càng gần St. Mark càng tốt nhé”.

“Không thành vấn đề!” Anh chàng lái thuyền vẫy tay. “Hai phút thôi.”

Chiếc limousine nước giờ đã đến ngang tầm Quảng trường St. Mark, và Dinh Tổng trấn đứng uy nghiêm bên tay phải họ, nổi bật trên bờ biển.

Là một ví dụ hoàn hảo cho kiến trúc Venetian Gothic, tòa cung điện này chẳng khác gì một bài tập về cách tiết chế sự tao nhã. Không hề có những tháp pháo hay tháp canh vẫn gắn liền với cung điện của Pháp hay Anh, công trình này được tạo hình như một lăng trụ vuông vức rất lớn, đem lại không gian vô cùng rộng rãi phía bên trong, là nơi lưu trú của chính phủ trọng yếu cùng bộ máy hỗ trợ của tổng trấn.

Nhìn từ đại dương, tòa cung điện đồ sộ bằng đá vôi trắng trông có vẻ ngạo nghễ nếu không tiết chế một cách thận trọng hiệu ứng ấy bằng cách bổ sung thêm những mái cổng, cột trụ, hàng lang ngoài và những lỗ răng cưa hình lá bốn thùy. Những hoa văn kỳ lạ bằng đá vôi hồng xuất hiện khắp mặt ngoài, gợi cho Langdon nhớ đến pháo đài Alhambra [41] ở Tây Ban Nha.

Khi thuyền áp sát bờ neo hơn, Ferris có vẻ lo lắng trước đám đông phía trước cung điện. Một đám đông khác tụ tập trên cầu, và mọi thành viên đều đang chỉ tay xuống một dòng kênh hẹp cắt giữa hai khu rộng lớn của Dinh Tổng trấn.

“Họ đang nhìn gì thế?”, Ferris thắc mắc, giọng đầy lo lắng.

“Il Ponte del Sospiri”, Sienna đáp. “Một cây cầu nổi tiếng của Venice.”

Langdon nhìn xuống con kênh chật hẹp về phía một đường hầm kín mít có chạm trổ rất đẹp uốn vòng giữa hai tòa nhà. 'Cầu thở dài', anh nghĩ thầm, nhớ lại một bộ phim mình rất thích khi còn bé là A Little Romance, được xây dựng dựa trên câu chuyện rằng nếu lúc hoàng hôn, hai người trẻ tuổi hôn nhau dưới cây cầu này trong khi Nhà thờ St. Mark đổ chuông, thì tình yêu của họ sẽ mãi mãi bền vững. Cái ý niệm vô cùng lãng mạn ấy đọng lại trong Langdon suốt cả đời anh. Dĩ nhiên, còn có lý do nữa là bộ phim có diễn viên chính là một thiếu nữ mười bốn tuổi đáng yêu có tên Diane Lane, khiến cho Langdon lập tức mê mẩn. Đó là thứ tình cảm thời niên thiếu mà Langdon chưa bao giờ muốn lãng quên.

Nhiều năm sau, Langdon thấy sợ khi biết rằng cầu Thở dài có tên gọi như vậy không phải từ những tiếng thở hổn hển đầy đam mê, mà từ những tiếng thở dài đau khổ. Hóa ra, cái lối đi kín mít ấy có chức năng nối giữa dinh của tổng trấn và nhà tù của ông ta, nơi những người tù héo hon và qua đời, tiếng rên rỉ đau khổ của họ vọng qua những ô cửa sổ chặn lưới sắt trổ dọc theo con kênh hẹp.

Langdon từng tới thăm nhà tù một lần, và rất ngạc nhiên khi biết rằng những buồng giam đáng sợ nhất không phải là những buồng ngang mực nước, vốn thường xuyên bị ngập, mà là những buồng ở sàn trên cùng của cung điện đích thực - gọi là piombi do có phần mái ốp chì khiến cho những gian buồng ấy nóng khủng khiếp vào mùa hè và lạnh cóng vào mùa đông. Người tình vĩ dại Casanova [42] đã từng là một người tù trong piombi vì bị tòa án dị giáo buộc tội thông dâm và làm gián điệp, anh ta sống sót qua mười lăm tháng bị giam cầm và trốn thoát bằng cách lừa cai ngục.

“Chú ý vào!” Maurizio quát to với một người điều khiển thuyền đáy bằng khi chiếc limousine của họ lướt vào vị trí buông neo mà chiếc thuyền kia vừa bỏ trống. Anh ta tìm thấy một nơi ở phía trước khách sạn Danieli, chỉ cách Quảng trường St. Mark và Dinh Tổng trấn một trăm thước.

Maurizio quăng một sợi dây quanh cọc neo và nhảy lên bờ, như thể đang thử vai cho bộ phim phiêu lưu lục lâm thảo khấu. Khi đã buộc chắc thuyền, anh ta quay lại và chìa một tay xuống thuyền như muốn giúp các vị khách lên bờ.

“Cảm ơn anh”, Langdon nói lúc anh chàng Ý vạm vỡ kéo anh lên bờ.

Ferris theo sau, trông hơi thiếu tập trung và lại liếc nhìn ra ngoài biển.

Sienna là người cuối cùng lên bờ. Khi nhấc bổng cô lên bờ, anh chàng Marizio điển trai nhìn xoáy vào cô như hàm ý rằng cô sẽ có một quãng thời gian tuyệt vời hơn nữa nếu hất cẳng hai gã đồng hành và ở lại trên thuyền với anh ta. Sienna dường như không chú ý.

“Cảm ơn, Maurizio”, cô lơ đễnh nói, ánh mắt tập trung vào Dinh Tổng trấn gần đó.

Sau đó, không bỏ lỡ một bước, cô cùng Langdon và Ferris hòa vào đám đông.


--70--

Được đặt theo tên một trong những nhà du hành lừng danh một lịch sử, sân bay quốc tế Marco Polo nằm cách Quảng trường St. Mark bốn dặm về phía bắc trên vùng nước của phá Veneta.

Nhờ dịch vụ bay riêng xa xỉ, Elizabeth Sinskey vừa rời máy bay chỉ mới mười phút thì đã băng băng lướt sóng vượt qua phía trên chiếc xuồng chở khách màu đen, kiểu viễn tưởng – một chiếc Dubois SR52 Blackbird – do chính người lạ mặt nói chuyện trên điện thoại lúc trước gửi tới.

Thị Trưởng.

Với Sinskey, sau khi bị giữ ở phía sau chiếc xe thùng suốt cả ngày, không khí của đại dương như tiếp thêm sinh lực cho bà. Bà ngoảnh mặt về phía làn gió mằn mặn và để cho mái tóc bạc của mình xổ tung về phía sau. Gần hai tiếng đã trôi qua kể từ khi bị tiêm mũi cuối cùng, rốt cuộc bà đã thấy tỉnh táo. Lần đầu tiên kể từ tối qua, Elizabeth Sinskey được là chính mình.

Đặc vụ Brüder ngồi bên cạnh bà cùng với đội của anh ta. Không ai trong số họ nói một lời. Nếu họ lo lắng về cuộc hẹn hò bất thường này, thì họ đều lập tức biết rõ suy nghĩ ấy không phù hợp ở đây, bởi quyết định không phải do họ đưa ra.

Chiếc xuồng phăm phăm lao về phía trước cho tới khi một hòn đảo lớn hiện dần ra ở bên phải, bờ đảo điểm những tòa nhà gạch thấp cùng những ống khói, Murano, Elizabeth nhận ra đó là những nhà máy thổi thủy tinh nổi tiếng.

Mình không tin được là mình trở lại đây, bà thầm nghĩ, lòng ngập tràn một nỗi buồn tê tái. Một vòng tròn trọn vẹn.

Nhiều năm trước, khi còn học ở trường y, bà đã tới Venice cùng với vị hôn phu của mình và tới thăm Bảo tàng Thủy tinh Murano. Ở đó, vị hôn phu của bà chú ý đến một vật xoay tròn thủy tinh thổi bằng tay rất đẹp và vô tình nói rằng ông muốn có vật giống như thế để một ngày nào đó đem treo trong phòng con nhỏ của họ. Cảm thấy có lỗi vì đã giữ kín bí mật đau lòng quá lâu, cuối cùng Elizabeth đã bộc bạch với ông về chứng hen suyễn lúc còn nhỏ và những buổi điều trị bằng glucocorticoid tai hại đã hủy hoại cơ quan sinh sản của bà.

Elizabeth không bao giờ biết được liệu sự thiếu trung thực hay chuyện vô sinh của bà đã biến trái tim người đàn ông trẻ thành sắt đá. Nhưng một tuần sau, bà rời Venice mà không còn chiếc nhẫn đính hôn.

Vật kỷ niệm duy nhất về chuyến đi đau khổ đó chính là chiếc bùa lam ngọc. Cây gậy Asclepius là một biểu tượng thích hợp cho y học – một liều thuốc đắng trong trường hợp này – nhưng bà đã luôn đeo nó kể từ khi đó.

Chiếc bùa quý giá của mình, bà thầm nghĩ. Món quà chia tay từ một người đàn ông muốn mình sinh con cho anh ấy.

Ngày nay, đối với bà, các đảo Venice không còn lãng mạn, những ngôi làng biệt lập của chúng gợi lên ý nghĩ không phải về tình yêu mà về những khu vực kiểm dịch từng được thiết lập trên đó để kiểm soát Cái chết Đen.

Khi chiếc tàu Blackbird lao qua đảo San Pietro, Elizabeth nhận ra họ đang hướng đến một du thuyền màu xám rất lớn, hình như buông neo ở một luồng nước sâu, chờ họ đến.

Con tàu màu xám kim khí trông như một hạng mục trong chương trình lá chắn của quân đội Hoa Kỳ. Cái tên ghi rõ ở phía sau không cho biết điều gì về thể loại tàu cả.

The Mendacium?

Con tàu hiện ra càng lúc càng lớn hơn, chỉ chốc lát Sinskey đã có thể nhìn rõ một bóng người đơn độc đứng trên boong sau – một người đàn ông cô độc, nhỏ bé, nước da rám nắng, đang quan sát họ qua ống nhòm. Khi chiếc Blackbird tiến lại khoang neo đậu ở phía sau tàu The Mendacium, người đàn ông bước xuống thang để đón họ.

“Tiến sĩ Sinskey, chào mừng bà lên tàu.” Người đàn ông sạm nắng lịch thiệp bắt tay bà, bàn tay ông ta mềm và nhẵn, không thể là tay của một thủy thủ. “Tôi rất mừng vì bà đến. Xin hãy theo tôi.”

Khi cả nhóm leo lên vài tầng, Sinskey mới chú ý đến cách bài trí giống như các buồng ngăn ô nhộn nhịp. Con tàu kỳ lạ này thực tế chứa nhiều người, nhưng không có ai nghỉ ngơi cả - tất cả bọn họ đều đang làm việc.

Làm việc gì chứ?

Khi họ leo tiếp lên cao, Sinskey có thể nghe rõ tiếng động cơ rất mạnh của con tàu chạy ầm ầm, tạo ra một lằn nước sâu khi con tàu bắt đầu chuyển động.

Chúng ta đi đâu đây nhỉ? Bà cảnh giác thắc mắc.

“Tôi muốn nói chuyện riêng với tiến sĩ Sinskey”, người đàn ông nói với mấy người lính, hơi ngừng lại để nhìn Sinskey. “Nếu bà thấy tiện?”

Elizabeth gật đầu.

“Thưa ngài”, Brüder miễn cưỡng nói, “Tôi đề nghị một bác sĩ trên tàu kiểm tra cho tiến sĩ Sinskey. Bà ấy có một số…”

“Tôi không sao”, Sinskey xen vào. “Thực sự. Nhưng cũng cảm ơn anh”

Thị Trưởng nhìn Brüder một lúc lâu và sau đó ra hiệu về phía một bàn thức ăn đồ uống đã được bố trí trên boong. “Nghỉ ngơi đi. Các anh cần như vậy. Chỉ lát nữa là các anh phải quay vào bờ rồi”

Không bận tâm thêm nữa, Thị Trưởng quay lưng lại gã đặc vụ và dẫn Sinskey vào một phòng khánh tiết cũng là phòng làm việc trang nhã, đóng cửa lại phía sau.

“Bà uống một chút chứ?”, ông ta hỏi, ra hiệu về phía quầy rượu.

Bà lắc đầu, vẫn đang cố tìm hiểu không gian kỳ lạ xung quanh mình. Người đàn ông này là ai? Ông ta làm gì ở đây?

Lúc này vị chủ nhà đang quan sát bà, những ngón tay của ông ta đỡ bên dưới cằm. “Chắc bà biết ông khách Bertrand Zobrist của tôi gọi bà là ‘con quỷ tóc bạc’ phải không?”

“Tôi cũng có một số tên gọi dành cho hắn.”

Người đàn ông không để lộ cảm xúc gì trong lúc đi về phía bàn làm việc và chỉ tay xuống một cuốn sách to. “Tôi rất muốn bà xem thứ này.”

Sinskey bước lại và nhìn trang bìa. Hỏa ngục của Dante à? Bà nhớ lại những hình ảnh chết chóc rùng rợn mà Zobrist đã cho bà xem trong cuộc gặp gỡ của họ tại Hội đồng Quan hệ Đối ngoại.

“Zobrist cũng cho tôi xem thứ này hai tuần trước. Còn có một dòng chữ nữa.”

Sinskey chăm chú nhìn dòng chữ viết tay trên trang bìa. Nó có chữ ký của Zobrist.

“Bạn thân mến của tôi, cảm ơn bạn vì đã giúp tôi tìm ra đường đi.

Thế giới cũng cảm ơn bạn.”

Sinskey cũng cảm thấy rùng mình. “Ông đã giúp hắn tìm ra con đường nào?”

“Tôi không hề biết. Hay đúng hơn, cho tới vài tiếng trước thì tôi vẫn chưa biết.”

“Còn bây giờ?”

“Giờ tôi đã phải tạo ra một ngoại lệ hiếm hoi trong quy trình của mình… và tôi mời bà đến.”

Sinskey đã đi cả một chặng đường dài và không có tâm trí đâu cho một cuộc trò chuyện khó hiểu. “Thưa ông, tôi không biết ông là ai, hay ông đang làm việc quái gì trên con tàu này, nhưng ông nợ tôi một lời giải thích. Hãy cho tôi biết tại sao ông lại che giấu một kẻ đang bị Tổ chức Y tế Thế giới tích cực truy lùng.”

Bất chấp giọng nói nóng nảy của Sinskey, người đàn ông vẫn trả lời rất khẽ như thì thào. “Tôi nhận ra bà và tôi đang làm việc vì những mục tiêu xung đột với nhau, nhưng tôi mong rằng chúng ta nên quên đi quá khứ. Tương lai, như tôi cảm nhận được, chính là những gì đòi hỏi chúng ta phải chú tâm ngay lập tức.”

Nói xong, người đàn ông rút ra một thẻ nhớ nhỏ màu đỏ và cắm vào máy tính của mình, ra hiệu cho bà ngồi xuống. “Bertrand Zobrist tạo ra đoạn video này, Ông ta muốn tôi phát tán nó cho ông ta vào sáng mai.”

Sinskey chưa kịp đáp lại thì màn hình máy tính đã chuyển sang lờ mờ và bà nghe thấy những âm thanh nhè nhẹ của nước. Một khung cảnh bắt đầu hiện rõ trong bóng tối của lòng hang ngập nước, giống như một cái hồ chìm dưới lòng đất. Điều lạ lùng là có vẻ như nước đã được chiếu sáng từ bên trong, phát ra thứ ánh sáng đỏ đòng đọc rất kỳ quái.

Tiếng nước róc rách vẫn tiếp tục, máy quay lia xuống dưới và chìm hẳn vào làn nước, định vị trên nền hang phủ đầy bùn. Bắt vít xuống nền hang là tấm biển hình chữ nhật sáng loáng khắc ngày tháng và một cái tên bên trên.

“TẠI NƠI NÀY, VÀO NGÀY NÀY,

THẾ GIỚI THAY ĐỔI MÃI MÃI.”

Ngày tháng chính là ngày mai. Còn cái tên là Bertrand Zobrist.

Elizabeth Sinskey thấy rùng mình. “Chỗ này là đâu vậy?!”, bà hỏi. “Chỗ này là nơi nào?!”

Để đáp lại, Thị Trưởng biểu lộ chút cảm xúc đầu tiên của ông ta – một tiếng thở dài thất vọng và lo lắng. “Tiến sĩ Sinskey”, ông ta đáp, “tôi hy vọng bà có thể biết được câu trả lời cho thắc mắc ấy”.

o O o

Cách đó một dặm, trên lối tản bộ bên bờ nước của Riva degli Schiavoni, cảnh tượng nhìn ra phía biển có chút thay đổi. Nếu có ai đó quan sát kỹ, ắt sẽ nhận ra một du thuyền màu xám rất lớn vừa xuất hiện chỗ mũi đất phía đông. Giờ nó đang hướng về phía quảng trường St.Mark.

'The Mendacium', FS-2080 nhận ra ngay cùng với chút sợ hãi.

Phần thân tàu màu xám không thể lẫn đi đâu được.

Thị Trưởng đang đến… và thời gian đang cạn dần.


--71--

Luồn lách qua những đám đông người ở Riva degli Schiavoni, Langdon, Sienna và Ferris đi sát theo mép nước, tìm đường tiến vào Quảng trường St. Mark và đến rìa phía nam, nơi quảng trường tiếp giáp biển.

Ở đây, du khách đông nghịt, tạo thành một đám đông chen chúc vây quanh Langdon khi họ cùng đổ dồn tới quảng trườAng để chụp hai cây cột đồ sộ, sừng sững tại đó.

Cổng chào chính thức đi vào thành phố, Langdon nghĩ thầm, biết rằng địa điểm này từng được dùng cho các vụ hành quyết công khai cho tới cuối thế kỉ XVIII.

Trên đỉnh một trong hai trụ biểu của cổng chào là biểu tượng xuất hiện khắp mọi nơi của Venice – con sư tử có cánh. Trong khắp thành phố, có thể nhìn thấy con sư tử có cánh kiêu hãnh đặt móng vuốt lên một cuốn sách mở có dòng chữ Latin 'Pax tibi Marce, evangelista meus' (Mong người bình yên, Mark, nhà truyền giáo của ta). Theo truyền thuyết, những lời này là của một thiên thần ban cho Thánh Mark khi ngài đến Venice, cùng với lời tiên đoán rằng thân xác ngài sẽ có ngày nằm lại đây. Câu chuyện không xác thực này sau này được người dân Venice biện minh cho việc đoạt hài cốt Thánh Mark từ Alexandria để an táng tại Thánh đường St. Mark. Tới hôm nay, con sư tử có cánh vẫn được xem như biểu tượng của thành phố và gần như có thể nhìn thấy ở mọi chỗ.

Langdon ra hiệu về phía bên phải mình, vượt qua những trụ biểu, bên kia Quảng trường St. Mark. “Nếu chúng ta bị tách ra, hãy gặp nhau ở cửa trước của thánh đường.”

Hai người kia đồng ý và nhanh chóng men theo mé ngoài của đám đông, lần dọc bức tường phía tây của Dinh Tổng trấn để tiến vào quảng trường. Mặc dù có luật cấm việc tự ý cho động vật ăn nhưng những đàn bồ câu được yêu quý của Venice có vẻ vẫn sống khỏe, một số con còn kiếm mồi dưới chân đám đông trong khi những con khác sà xuống các quán cà phê ngoài trời, cướp những gói bánh mì không có ai trông giữ và quấy nhiễu những người hầu bàn mặc lễ phục.

Khu quảng trường rộng lớn này, khác với hầu hết quảng trường ở châu Âu, có hình dáng không phải của một quảng trường mà lại là chữ L. Phần chân ngắn hơn – vẫn được gọi là piazzetta – nối đại dương với Thánh đường St. Mark. Phía trước mặt, quảng trường ngoặt sang trái một góc chín mươi độ để ăn vào phần chân dài hơn, chạy suốt từ thánh đường đến Bảo tàng Correr. Rất lạ là, thay vì chạy thẳng, quảng trường này lại là một hình thang không đều, thu hẹp khá nhiều ở một đầu. Cái ảo giác kiểu ngôi nhà hoạt náo này làm cho quảng trường trông dài hơn nhiều so với thực tế, một hiệu ứng càng tăng lên thấy rõ nhờ mảng gạch lát được bố trí bao lấy những gian hàng sơ khai của các thương gia đường phố ở thế kỉ XV.

Khi tiến đến những khúc ngoặt của quảng trường, Langdon có thể nhìn rõ, thẳng trước mặt cách đó một quãng, mặt kính màu lam lấp loáng của Tháp đồng hồ St. Mark – cũng chính là cái đồng hồ thiên văn nơi điệp viên James Bond ném một tên tội phạm xuống dưới trong phim người đi tìm trăng [43].

Không phải tới thời điểm này, khi đã tiến vào khu quảng trường kín đáo, Langdon mới đánh giá được đầy đủ món quà độc đáo nhất của thành phố này.

Âm thanh.

Hầu như không có xe hơi hay loại xe gắn động cơ nào, Venice vắng hẳn những dòng xe cộ, tàu điện ngầm, và còi xe, nhường không gian âm thanh cho món “lẩu” tiếng động rất đặc trưng và không hề có tí máy móc nào: Tiếng con người, tiếng bồ câu gù, và tiếng vĩ cầm du dương vang lên ở những quán cà phê ngoài trời. Âm thanh của Venice không giống bất kỳ đại đô thị nào trên thế giới.

Khi trời ngả chiều, mặt trời từ phía tây chiếu xuống St. Mark tạo ra những bóng đổ dài trên quảng trường lát gạch, Landon ngước nhìn tòa tháp chuông cao vút vươn cao phía trên quảng trường và sừng sững in trên bầu trời Venice cổ kính. Phần hành lang phía trên của tháp chen chúc hàng trăm con người. Chỉ nghĩ đến việc leo lên đó đã khiến anh rùng mình, cho nên anh cúi đầu xuống và tiếp tục len qua biển người.

o O o

Sienna có thể bám sát Langdon dễ dàng, nhưng Ferris tụt lại phía sau, và Sienna quyết định tách hẳn ra để có thể trông chừng cả hai người. Tuy nhiên, lúc này khi khoảng cách giữa họ thêm cách biệt, cô nôn nóng nhìn lại. Ferris chỉ tay vào ngực mình, tỏ ý ông ta mệt đứt hơi rồi, và ra hiệu cho cô cứ đi tiếp.

Sienna làm theo, nhanh chóng bám sau Langdon và không để mắt đến Ferris nữa. Nhưng khi len lỏi qua đám đông, cô có cảm giác mình đang bị ai đó bám riết. Trong cô dấy lên một nỗi nghi ngờ rất lạ rằng Ferris đang cố tình tụt lại sau, như thể ông ta đang tìm cách tạo ra khoảng cách giữa họ.

Từ lâu đã học được cách tin vào bản năng của mình, Sienna lần vào một hốc tường và từ trong bóng râm nhìn ra, đưa mắt quét qua đám đông phía sau mình và tìm kiếm Ferris.

Ông ta biến đâu rồi?!

Cứ như thế ông ta thậm chí không còn tìm cách bám theo họ. Sienna nhìn kỹ từng gương mặt trong đám đông, và cuối cùng nhìn thấy ông ta. Trước vẻ ngạc nhiên của cô, Ferris dừng lại và cúi thấp, bấm lia lịa trên điện thoại của mình.

Vẫn là cái điện thoại ông ta bảo đã hết pin.

Một cảm giác sợ hãi rất bản năng của cô, và một lần nữa cô biết cô cần phải tin vào nó.

Ông ta đã nói dối mình lúc ở trên tàu.

Khi quan sát Ferris, Sienna cố gắng đoán xem ông ta đang làm gì. Bí mật gửi tin nhắn cho ai đó chăng? Tìm hiểu sau lưng cô chăng? Cố gắng giải quyết bí ẩn trong bài thơ của Zobrist trước khi Langdon và Sienna có thể làm được chăng?

Cho dù lý do là gì thì ông ta cũng đã ngang nhiên lừa dối cô.

Mình không thể tin hắn.

Sienna tự hỏi liệu cô có nên trách móc và đối đầu với ông ta không, nhưng cô nhanh chóng quyết định lẩn vào đám đông trước khi ông ta phát giác ra mình. Cô lại nhắm về phía thánh đường, tìm kiếm Langdon. Mình phải cảnh báo anh ấy đừng tiết lộ thêm gì cho Ferris.

Cô chỉ còn cách thánh đường năm mươi thước thì cảm thấy có người túm chặt lấy áo mình từ phía sau.

Cô xoay lại và thấy mình mặt đối mặt với Ferris.

Người đàn ông bị dị ứng đang thở hổn hển, rõ ràng đã phải len lách qua đám đông để bắt kịp cô. Ông ta có vẻ điên cuồng gì đó mà Sienna không nhận ra trước đó.

“Xin lỗi”, ông ta nói, gần như không thở nổi. “Tôi bị lạc trong đám đông.”

Khoảnh khắc nhìn vào mắt ông ta, Sienna thấy rất rõ.

Ông ta đang che giấu điều gì đó.

o O o

Khi đến được phía trước Thánh đường St. Mark, Langdon ngạc nhiên phát hiện ra rằng hai người bạn đồng hành đều không còn ở phía sau anh. Langdon cũng ngạc nhiên là hoàn toàn không có du khách nào đang đợi vào thăm nhà thờ. Nhưng rồi anh nhận ra giờ đã là chiều muộn ở Venice, thời điểm hầu hết du khách du lịch – do năng lượng giảm sút sau bữa trưa no nê gồm mì sốt và rượu vang – đều quyết định đi dạo trên quảng trường hoặc nhâm nhi chút cà phê thay vì cố thu nạp thêm những chi tiết lịch sử.

Nghĩ rằng Sienna và Ferris sẽ đến bất kì lúc nào, Langdon đưa mắt nhìn lối vào thánh đường trước mặt mình. Đôi khi bị cho là “có quá nhiều không gian ra vào”, phần mặt tiền dưới thấp của tòa nhà gần như bị choán hết diện tích bởi một đội hình năm lối ra vào gồm những nhóm cột trụ, những cổng tò vò uốn cong, và những cánh cửa đồng toang hoác khiến cho công trình, nếu không còn gì khác, luôn rộng mở chào đón.

Là một trong những bản mẫu đẹp nhất của kiến trúc Byzantine ở châu Âu, nhà thờ St. Mark có bề ngoài kỳ lạ và mềm mại, rất nổi bật. Trái ngược với những tòa tháp xám xịt chân phương của nhà thờ Notre-Dame hay Chartres, nhà thờ St. Mark dường như hùng vĩ nhưng lại gần gũi hơn nhiều. Nhà thờ không vươn cao mà trải rộng ra, có đỉnh là năm mái vòm quét sơn trắng, toát ra vẻ thoáng đãng, gần như náo nhiệt. Không ít cuốn sách hướng dẫn du lịch đã phải so sánh St. Mark với một chiếc bánh cưới phủ kem trứng.

Trên đỉnh của mái vòm trung tâm là bức tượng Thánh Mark nhìn xuống dưới quảng trường mang tên mình. Hai chân ngài đặt trên đỉnh một vòm cung sơn màu lam thẫm và có điểm những ngôi sao bằng vàng. Trên phông nền sặc sỡ này, con sư tử có cánh thếp vàng của Venice đứng sừng sững như linh vật lấp lánh của thành phố.

Tuy nhiên, ngay phía dưới con sư tử vàng, Thánh đường St. Mark lại khoe ra một trong những báu vật nổi tiếng nhất của mình – bốn chú ngựa đực bằng đồng to lớn – lúc này đang phản chiếu ánh nắng về chiều.

Đàn ngựa nhà thờ St. Mark.

Trong tư thế như sẵn sàng nhảy xuống quảng trường bất lỳ lúc nào, bốn con ngựa vô giá này – giống như rất nhiều bảo vật tại Venice – được cướp về từ Constantinople trong các cuộc Thập tự chinh. Một tác phẩm nghệ thuật bị tước đoạt khác cũng được trưng ra bên dưới những chú ngựa ở góc tây nam của nhà thời – bức điêu khắc bằng tràng thạch sắc tía vẫn được gọi là Tứ đế [44]. Bức tượng nổi tiếng vì bị gãy mất một chân lúc đoạt được từ Constantinople vào thế kỷ XIII. Thật kỳ diệu, vào những năm 1960, người ta lại đào được cái chân đó ở Istanbul. Venice thỉnh xin mảng tượng thất lạc ấy, nhưng chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ phúc đáp bằng một bức điện vỏn vẹn: Các vị đánh cắp bức tượng – chúng tôi giữ lại cái chân của mình.

“Thưa ông, mời ông mua?”, một giọng phụ nữ vang lên, khiến Langdon phải nhìn xuống.

Một phụ nữ Gypsy đẫy đà đang giơ ra một cây gậy dài có treo cả bộ sưu tập những chiếc mặt nạ Venice. Hầu hết đều theo phong cách volto intero rất thịnh hành – những chiếc mặt nạ cách điệu màu trắng che kín mặt thường được phụ nữ đeo trong lễ hội hóa trang

Carnevale. Bộ sưu tập của bà cũng có một số mặt nạ Colombina hóm hỉnh chỉ che nửa mặt, vài cái Bauta cằm nhọn hoắt, và một cái mặt nạ tròn Morretta không quai đeo. Mặc dù có nhiều món hàng sặc sỡ nhưng chính chiếc mặt nạ đen xám duy nhất nằm ở đầu gậy mới khiến Langdon chú ý, đôi mắt chết chóc đầy hăm dọa của nó dường như đang nhìn thẳng xuống anh qua cái mũi mỏ chim dài.

Bác sĩ dịch hạch. Langdon ngoảng mặt đi, không cần phải nhớ thêm mình đang làm gì ở Venice này.

“Ông mua không?”, người phụ nữ Gypsy nhắc lại.

Langdong mỉm cười và lắc đầu. “Chúng rất đẹp, nhưng không, cảm ơn bà.”

Khi người phụ nữa rời đi, ánh mắt Langdon dõi theo cái mặt nạ dịch hạch đáng ngại trong lúc nó lắc lư phía trên đám đông. Anh thở dài nặng nề và ngước mắt nhìn lại bốn chú ngựa đồng trên ban công tầng hai.

Một ý nghĩ vụt đến với anh.

Langdon cảm thấy mọi yếu tố đột ngột va vào nhau – Đàn ngựa nhà thờ St. Mark, những chiếc mặt na Venice, và những vật cướp về từ Costantinople.

“Chúa ơi”, anh thì thầm. “Đúng nó rồi!”
XEM TIEP CHUONG http://truyenhiepsi.blogspot.com

Blog Truyện Hiệp Sĩ

truyenhiepsi

Truyện được sưu tầm chia sẻ trên các web miễn phí...

Tìm Kiếm Truyện

Theo dõi blog!

Nhận bài viết mới qua email. Chỉ cần nhập địa chỉ email của bạn dưới đây nếu bạn muốn đăng ký!