Tác giả: Dan Brown
--98--
Sáu người lính cứu hoả đã nhận được lệnh dùng khí Halon để dập tắt ngọn lửa bốc cao trong nhà thờ Santa Maria Della Vittoria. Dùng nước đỡ tốn kém hơn nhiều, nhưng sẽ làm tổn hại đến các bức bích hoạ trong nhà nguyện. Vatican đã trả lương rất hậu cho các đội cứu hoả ở Rome để bảo vệ các công trình do Vatican sở hữu.
Do đặc thù công việc của mình, những người lính cứu hoả này gần như ngày nào cũng phải chứng kiến các bi kịch, nhưng những gì xảy ra trong nhà thờ này sẽ ghi dấu ấn rất đậm trong tâm trí. họ. Quang cảnh trong nhà thờ như được dựng lại từ những cơn ác mộng, phần giống như giàn thiêu, phần giống như một cái giá treo, phần như bị thiêu sống.
Rủi thay, như mọi khi, cánh nhà báo đã nhanh chân hơn họ. Những người này đã quay phim chụp ảnh rất nhiều trước khi đội cứu hoả bắt tay vào hành động. Khi những người lính cứu hoả cắt được sợi dây thừng và hạ cái xác xuống mọi người nhận ra ngay lập tức đó là ai.
- Hồng y Guidera, - một người thì thào. - Phụ trách giáo xứ Barcelona.
Nạn nhân bị lột hết quần áo. Nửa dưới cơ thể bị cháy đen sì, máu rỉ ra từ hai vết rách toạc trên đùi. Xương ống chân lòi cả ra ngoài. Một người lính cứu hoả nôn mửa ngay tại chỗ. Một người khác phải chạy ra ngoài để hít thở khí trời.
Tuy nhiên, đáng sợ nhất vẫn là dấu khắc nung trên ngực nạn nhân. Kinh hoàng, người đội trưởng xoay cái thi thể đúng một vòng. Chắc chắn là bàn tay của quỷ Sa-tăng, anh ta lẩm bẩm, và lần đầu tiên trong đời, người đội trưởng làm dấu thánh.
- Un altro corpol! - Một người kêu lên. Một người lính cứu hoả vừa phát hiện thêm một xác người nữa.
Nạn nhân thứ hai thì người đội trưởng nhận ra ngay. Người đội trưởng khắc khổ của đội lính gác Thuỵ Sĩ, vốn không được những quan chức trong ngành hành pháp ưa thích. Anh ta gọi điện đến toà thánh, nhưng tất cả các đường dây đều bận. Dù sao thì vài phút nữa tin này cũng sẽ được phát trên ti-vi, đội lính gác Thuỵ Sĩ sẽ biết ngay thôi.
Khi người đội trưởng đang đánh giá mức độ thiệt hại và cố mường tượng xem chuyện gì đã diễn ra trong thánh đường này, anh chợt nhìn thấy một cái hố chi chít vết đạn. Cỗ quan tài đá trong hốc đã bị lật khỏi bệ đỡ, rõ ràng là đã có một cuộc ẩu đả.
Mọi thứ tan hoang. Phần này thì để cảnh sát xử lý, người đội trưởng thầm nghĩ và định quay đì.
Đúng lúc ấy anh dừng ngay lại. Có một tiếng động phát ra từ trong cỗ quan tài lật úp. Thứ âm thanh mà những người lính cứu hoả không muốn nghe thấy chút nào.
- Bomba! (2) - Anh hét to. - Tutti fuori! (3)
Khi đội phá bom lật cỗ quan tài lên, họ phát hiện ra nguyên do của những tiếng bíp bíp ấy. Họ sững sờ, trợn tròn mắt.
- Gọi bác sĩ! - Cuối cùng một người kêu lên. - Gọi bác sĩ ngay!
Chú thích
(1) Un altro copro: Một xác người nữa!
(2) Bomba: Bom
(3) Tutti fuori: Tất cả tránh ra.
--99--
- Có tin tức gì của Olivetti không? - Giáo chủ Thị thần hỏi. Khi hộ tống Giáo chủ Thị thần từ nhà nguyện Sistine về phòng làm việc của Giáo hoàng, đại tá Rocher thấy ngài có vẻ mệt mỏi.
- Không, thưa cha. Con sợ là chuyện tồi tệ nhất đã xảy ra rồi.
Về đến phòng làm việc của Giáo hoàng, giọng nói của Giáo chủ Thị thần có vẻ nặng nhọc:
- Ông đại tá này, tối nay ta chẳng còn làm thêm được gì nữa đâu. E rằng ta đã làm quá nhiều mất rồi. Ta sẽ cầu nguyện ở đây. Đừng làm phiền ta. Những gì còn lại xin phó thác nơi Chúa.
- Vâng, chưa cha.
- Muộn rồi đấy, ông đại tá ạ. Tiếp tục tìm cái hộp đi.
- Con vẫn đang tiến hành rà soát đấy ạ. - Rocher lưỡng lự. - Hình như cái hộp đó được giấu ở một nơi rất kín đáo.
Giáo chủ Thị thần chớp mắt, như thể ngài chưa hề nghĩ đến khả năng đó.
- Đúng thế. Đúng 11 giờ 15 phút, nếu vẫn còn trong tình trạng nguy hiểm thì ông hãy sơ tán toàn bộ Hồng y đoàn. Ta tin tường ở ông. Chỉ yêu cầu ông một điều: Hãy để cho họ ra khỏi Vatican trong danh dự. Hãy đưa họ ra quảng trường St. Peter và để họ đứng sát cánh với toàn thế giới. Ta không muốn hình ảnh cuối cùng của toà thánh là những ông già hốt hoảng chạy ra đằng cửa hậu.
- Vâng, thưa cha. Còn cha thì sao? Đến 11 giờ 15 phút con đến đón cha luôn nhé?
- Không cần đâu!
- Cha bảo sao ạ?
- Ta sẽ rời nơi này khi linh hồn đến gọi ta đi.
Có lẽ Giáo chủ Thị thần định sống chết với con thuyền sắp chìm, Rocher thầm nghĩ.
Giáo chủ Thị thần mở cửa phòng làm việc của Giáo hoàng và bước vào trong.
- Thật ra thì… - ngài quay sang Rocher. - Còn một việc nữa. Đêm nay căn phòng này lạnh lẽo quá, ta đang run lên đây.
- Lò sưởi điện đã bị ngắt mất rồi. Để con nhóm lò sưởi cho cha.
Giáo chủ Thị thần cười mệt mỏi:
- Cảm ơn con. Cảm ơn con rất nhiều.
Rocher ra khỏi phòng làm việc của Giáo hoàng. Giáo chủ Thị thần đang cầu nguyện bên tượng Đức mẹ đồng trinh Maria, trước ngọn lửa. Một cảnh tượng kỳ dị. Một bóng đen đang quỳ bên một đốm sáng bập bùng. Rocher đi đến cuối hành lang thì thấy một người lính chạy đến. Trong ánh nến lờ mờ, ông ta nhận ra ngay thiếu uý Chartrand, trẻ măng, mặt tái mét, rất sốt sắng.
- Thưa đại tá. - Chartrand gọi lớn, chìa ra chiếc máy điện thoại. - Chắc là lời kêu gọi của Giáo chủ Thị thần đã có tác dụng rồi. Có một người gọi đến, nói rằng có thể giúp chúng ta. Người này gọi đến số máy nội bộ của toà thánh. Không hiểu thế nào mà ông ta lại có được số máy này.
Rocher dừng bước:
- Cái gì?
- Ông ta yêu cầu được nói chuyện với cấp chỉ huy.
- Có tin gì của Olivetti không?
- Không ạ.
Rocher cầm lấy điện thoại.
- Đại tá Rocher đây. Tôi hiện là cấp chỉ huy ở đây.
- Rocher, tôi sẽ tự giới thiệu về mình! - Đầu dây bên kia nói - Rồi tôi sẽ cho anh biết tiếp theo phải làm những gì.
Khi người ấy nói xong và cúp máy, Rocher kinh ngạc. Giờ thì viên đại tá đã hiểu ông ta đang nhận mệnh lệnh của ai.
o O o
Tại CERN, Sylvie Baudeloque đang ra sức ghi lại tất cả những tin nhắn được gửi đến số máy của Kohler về việc mua bản quyền phát minh. Đường dây cá nhân trên bàn bỗng đổ chuông, Sylvie giật nảy người. Không một ai có số máy này. Chị nhấc máy trả lời.
- Tôi nghe.
- Cô Baudeloque đấy à? Giám đốc Kohler đây. Hãy liên lạc với phi công của tôi. Bảo chuẩn bị máy bay riêng của tôi trong vòng 5 phút nhé.
--100--
Mở mắt ra, trông thấy mặt dưới của mái vòm nhà thờ được trang trí theo trường phái ba-rốc, Robert Langdon không biết anh đang ở đâu, và đã bất tỉnh trong bao lâu. Khói đang bốc lên. Miệng bị bịt. Hoá ra là mặt nạ ôxi. Langdon giật cái mặt nạ ra. Căn phòng này đặc quánh một thứ mùi khủng khiếp - như mùi thịt cháy.
Langdon nhăn mặt, đầu đau như búa bổ. Anh cố sức ngồi dậy.
Một người mặc bộ đồng phục màu trắng đang quỳ bên cạnh anh.
- Riposati! (1) - Anh ta vừa nói vừa đẩy Langdon nằm xuống.
Langdon phục tùng. Đầu óc choáng váng. Chuyện quái gì đã xảy ra nhỉ? Toàn thân anh đau nhức.
- Topo salvatore(2), người nhân viên y tế nói - Chú chuột đã cứu mạng anh đấy.
Langdon càng không hiểu gì. Chuột cứu mạng?
Anh ta chỉ tay vào chiếc đồng hồ có hình chuột Mickey đeo trên cổ tay Langdon. Anh bắt đầu hiểu ra. Anh nhớ rằng mình đã đặt chế độ báo thức. Lơ đễnh, Langdon nhìn đồng hồ. 10 giờ 28 phút.
Anh ngồi bật dậy.
Thế rồi Langdon nhớ lại tất cả.
Langdon đứng cạnh bàn thờ chúa, cùng với người đội trưởng đội cứu hoả và một số nhân viên của anh ta. Họ đã hỏi anh khá nhiều, nhưng Langdon như không nghe thấy gì. Anh cũng có những câu hỏi của riêng mình. Toàn thân đau như dần, nhưng Langdon biết cần phải hành động ngay lập tức.
Một người lính cứu hoả tiến lại bên Langdon.
- Tôi đã kiểm tra lại rồi, chỉ thấy có thi thể của Hồng y Guidera và chỉ huy đội lính gác Thuỵ Sĩ. Không thấy có thi thể phụ nữ nào cả.
- Cảm ơn anh. - Langdon đáp, anh không hiểu nổi mình đang cảm thấy nhẹ nhõm hay lo lắng thêm. Chắc chắn anh trông thấy Vittoria nằm bất tỉnh trên sàn. Lúc này thì không thấy cô gái đâu nữa. Nguyên do duy nhất nảy ra trong đầu anh lúc này chẳng dễ chịu chút nào. Trên điện thoại, tên giết người tỏ ra chẳng chút gì gượng nhẹ. Cô có vẻ mạnh mẽ đấy. Tôi thích thế. Có thể lúc nào xong việc tôi sẽ đi tìm có em. Và lúc đó thì…
Langdon nhìn quanh.
- Đội lính gác Thuỵ Sĩ đâu rồi?
- Vẫn không liên lạc được. Tất cả các số máy của Vatican đều bận.
Langdon cảm thấy kiệt quệ và đơn độc. Olivetti đã chết. Vị Hồng y cũng đã từ trần. Vittoria thì bị mất tích. Loáng một cái, anh đã để mất nửa giờ quý giá trong đời.
Ngoài kia, cánh nhà báo đã ùn ùn kéo đến. Chắc những hình ảnh về vị Hồng y Giáo chủ bị sát hại sắp được phát trên sóng, nếu không nói là bây giờ đã lên sóng rồi. Hi vọng Giáo chủ Thị thần đã sớm lường tới tình huống xấu nhất và đã kịp thời hành động. Phải sơ tán toàn bộ Vatican! Đủ lắm rồi! Chúng ta đã thua!
Langdon chợt nhận: thấy tất cả những gì đã thúc đẩy anh phải nỗ lực suốt ngày hôm nay - nghĩa vụ giúp Vatican tìm hộp phản vật chất, cứu bốn vị Hồng y, đối diện với một hội kín mà anh đã bỏ công sức nghiên cứu về nó bao năm nay - tất cả những thứ ấy bỗng nhiên không còn tồn tại nữa. Họ đã thua. Anh cảm thấy trong tâm trí một sự thúc bách mới. Một nhiệm vụ đơn giản. Nhưng quan trọng hơn hết thảy.
Tìm Vittoria.
Langdon chợt cảm thấy trống trải. Anh đã từng nghe nói rằng những tình huống hiểm nghèo có thể gắn kết hai con người lại với nhau mà quãng thời gian hàng chục năm cũng chưa chắc đã làm nổi. Giờ thì anh bắt đầu tin rằng chuyện đó là có thật.
Không có Vittoria, Langdon chợt cảm thấy một thứ tình cảm từ nhiều năm nay anh chưa một lần trải nghiệm. Sự cô đơn. Nỗi đau bỗng khiến anh trở nên mạnh mẽ.
Gạt khỏi tâm trí tất cả mọi thứ khác, Langdon tập trung suy nghĩ. Cầu cho tên sát thủ sẽ tập trung làm cho xong việc của hắn trước khi nghĩ đến chuyện hưởng thụ. Nếu không thì lúc này đã là quá muộn. Không đâu, anh tự an ủi bản thân, mình vẫn còn thời gian. Hắn còn việc phải làm. Hắn còn phải xuất hiện thêm một lần cuối cùng nữa trước khi biến mất mãi mãi.
Bàn thờ khoa học cuối cùng, Langdon thầm nghĩ. Tên sát thủ còn phải tiến hành một vụ hành quyết nữa. Đất. Khí Lửa. Nước.
Langdon xem đồng hồ. 30 phút. Băng qua những người lính cứu hoả, anh lao đến bên Khoảnh khắc đê mê của thánh Teresa của Bernini và chăm chú quan sát. Lần này thì Langdon biết chắc chắn mình cần tìm cái gì.
Thiên thần dẫn lối trên hành trình cao cả…
Thiên thần của Bernini đang bay lượn ngay bên trên vị thánh, trên nến một lưỡi lửa mạ vàng. Trên tay thiên thần là một lưỡi giáo lửa, Langdon đưa mắt theo hướng cây giáo được giương lên cao, chỉ về bên tay phải thánh đường. Mắt Langdon chạm phải bức tường. Anh nhìn kỹ một lượt nhưng không thấy gì. Dĩ nhiên là lưỡi giáo này hướng về một địa điểm nữa bên ngoài bức tường này, trong màn đêm, đâu đó phía bên kia thành Rome.
- Đây là hướng gì nhỉ? - Lòng tràn đầy quyết tâm! - Langdon quay sang hỏi người đội trưởng đội cứu hoả.
- Hướng à? Anh ta liếc nhìn về phía tay Langdon đang chỉ, vẻ hơi bối rối. - Không rõ lắm… chắc là hướng Tây!
- Ở phía ấy có nhà thờ nào không?
Người đội trưởng càng có vẻ bối rối hơn.
- Hàng chục nhà thờ. Để làm gì?
Langdon nhíu mày. Dĩ nhiên là phải đến hàng chục rồi.
- Tôi cắn một tấm bản đổ thành phố. Ngay lập tức.
Người đội trưởng yêu cầu một nhân viên chạy về xe lấy bản đồ Langdon quay lại quan sát bức tượng Đất… Khí… Lửa… VITTORIA.
Yếu tố cuối cùng là Nước, anh tự nhủ. Nước của Bernini. Trong một nhà thờ nào đó, đâu đây trong thành phố này. Như một cái kim giấu trong đống cỏ khô, Langdon điểm lại trong óc tất cả những tác phẩm của Bernini anh có thể nghĩ ra được lúc này. Cần tìm một tác phẩm liên quan đến Nước!
Anh chợt nghĩ đến bức tượng Triton của Bernini - tượng thần biển của người Hi Lạp. Rồi lại nhớ ra rằng tác phẩm đó được đặt ở quảng trường ngay trước mặt thánh đường này, nhưng lại hoàn toàn sai hướng. Langdon cố tập trung suy nghĩ. Bernini đã tạo ra tác phẩm nào để tôn vinh nước nhỉ? Thần biển hay thần mặt trời nhỉ? Rủi thay, bức tượng đó đang được trưng bày ở bảo tàng Victoria và Albert ở tận London.
- Thưa ông, bản đồ đây. - Một người lính cứu hoả mang lại cho Langdon tấm bản đồ thành phố.
Sau khi cảm ơn người lính cứu hoả, Langdon trải rộng tấm bản đồ Ngay lập tức, anh biết mình đã hỏi đúng người cần hỏi; bản đồ thành Rome của đội lính cứu hoả quả là chi tiết.
- Giờ chúng ta đang ở đâu?
Anh ta đưa tay chỉ.
- Gần quảng trường Barberini.
Langdon lại quay sang nhìn theo hướng ngọn giáo giương cao của thiên thần. ước lượng của người đội trưởng quả là chính xác.
Theo tấm bản đồ này thì ngọn giáo chỉ về hướng Tây. Gần như ngay lập tức, hi vọng của anh giảm hẳn đi. Dọc, theo vệt tay đi của Langdon, cứ một hai phân lại thấy có một công trình được đánh dấu bằng một chữ thập màu đen nhỏ xíu. Nhà thờ. Thành phố này dày đặc những nhà thờ. Hết vùng nội đô, ngón tay Langdon đi ra đến vùng ngoại thành. Thở hắt ra, anh xem lại một lần nữa. Khỉ thật!
Quan sát bao quát bản đồ, Langdon xác định lại vị trí ba nhà thờ mà các vị Hồng y đã bị sát hại. Nhà nguyện Chigi… Quảng trường St. Peter… và ở đây…
Xác định xong cả ba vị trí, Langdon cảm thấy những địa danh này có gì đó đặc biệt. Lúc đầu anh nghĩ những địa điểm này sẽ nằm rải rác trong thành Rome, nhưng rõ ràng không phải thế.
Thật kinh ngạc, ba thánh đường này được bố trí ở những khoảng cách đều nhau, tạo thành một hình tam giác lớn trải rộng khắp thành phố. Langdon kiểm tra lại một lần nữa. Không phải là anh tự tưởng tượng.
- Cho tôi cái bút. - Anh nói, không ngẩng mặt lên.
Ai đó đưa cho Langdon một cây bút.
Anh khoanh tròn ba nhà thờ. Tim đập thình thịch. Rồi kiểm tra lại một lần nữa. Hình tam giác đều!
Thoạt đầu Langdon nghĩ đến hình con dấu vĩ đại trên tờ bạc một đô la - một hình tam giác bao quanh con mắt nhìn thấu suốt. Nhưng như thế không có nghĩa. Anh mới đánh dấu được có ba điểm. Cần phải có bốn điểm mới đủ.
Nước ở chỗ nào nhỉ? Thêm một điểm nữa vào bất kỳ chỗ nào thì hình tam giác đều cũng sẽ bị phá vỡ. Điểm duy nhất có thể bảo toàn được sự cân đối là ở trong hình tam giác, đúng vào tâm điểm. - Anh nhìn vào điểm ấy trên bản đồ. Không có gì. Nhưng ý tưởng đó vẫn khiến anh phải suy nghĩ. Bốn nguyên tố của khoa học được coi là đồng đẳng. Nước không có gì đặc biệt; nước không thể được đặt ở giữa ba nguyên tố còn lại.
Thế nhưng bản năng vẫn mách bảo Langdon rằng hình tam giác đều này không thể là sự ngẫu nhiên. Mình vẫn chưa thấy hết toàn bộ bức tranh cơ mà! Chỉ còn một lựa chọn nữa. Nếu bốn điểm không tạo ra hình tam giác thì phải là một hình khác nữa.
Langdon lại nhìn bản đồ. Biết đâu lại là hình vuông? Dù không hợp lý lắm, nhưng ít ra thì hình vuông còn có tính cân đối.
Langdon đặt ngón tay lên một điểm trên bản đồ để biến tam giác thành hình vuông. Anh lập tức nhận thấy rằng hình vuông là không hợp lý. Các thiên thần ở ba địa điểm này chỉ tay về những hướng chếch nhau, tạo ra một hình tứ giác rất méo mó.
Xem xét thêm một vài điểm nữa trên bản đồ, Langdon chợt phát hiện ra. Anh nhận thấy đường thẳng trước đó anh vừa vạch ra để chỉ theo hướng mũi giáo của thiên thần đi qua một trong những địa điểm anh phỏng đoán. Kinh ngạc. Langdon khoanh tròn điểm đó. Lúc này, anh quan sát bốn địa điểm được đánh dấu bằng bút bi, tạo thành viên kim cương hình cái diều khá kỳ dị.
Langdon nhíu mày. Kim cương cũng không phải là biểu tượng của Illuminati. Ngừng một lát. Thế nhưng…
Trong thoáng chốc, Langdon nhớ đến viên kim cương Illuminati nổi tiếng. Tuy nhiên, ý nghĩ này thật kỳ quặc. Bên cạnh đó, viên kim cương này trông như một cái điều - khó có thể là một ví dụ cho tính khuôn mẫu, đối xứng của viên kim cương Illuminati vốn rất được tôn sùng.
Cúi xuống để nhìn cho kỹ địa điểm vừa đánh dấu, Langdon ngạc nhiên thấy nó rơi đúng vào trung tâm quảng trường Navona nổi tiếng của thành Rome. Anh biết cạnh quảng trường này là một thánh đường, nhưng ban nãy Langdon đã đi ngón tay qua, và đã nghĩ đến nó rồi. Theo như anh biết thì trong đó không có tác phẩm nào của Bernini cả. Thánh đường này có tên là Nỗi đau của thánh Agnes. Thánh Agnes là một thiếu nữ trẻ xinh đẹp, đã chấp nhận kiếp sống khổ nhục của một nô lệ tình dục chứ không chịu từ bỏ đức tin của mình.
Chắc chắn trong nhà thờ này phải có cái gì đó! Langdon cố vắt óc mường tượng quang cảnh bên trong thánh đường. Anh chẳng nhớ ra tác phẩm nào của Bernini trong đó, liên quan đến nước thì lại càng không. Những sắp đặt hiện ra trên bản đồ cũng khiến Langdon băn khoăn. Hình viên kim cương. Đủ chính xác để không thể là ngẫu nhiên được, nhưng lại chưa đủ độ tuyệt đối để thể hiện bất kỳ ý nghĩa nào. Hay là cái diều? Hay là Langdon đánh dấu không chính xác? Mình đá bỏ sót chi tiết nào rồi!
Mất thêm 30 giây nữa anh mới nghĩ ra câu trả lời khi đã có câu trả lời, anh thấy vô cùng phấn khởi, chưa một giây phút nào trong sự nghiệp khoa học của mình khiến anh phấn khởi đến thế.
Dường như thiên tài của Illuminati không bao giờ bỏ qua chi tiết nào.
Đây không phải là hình viên kim cương. Bốn điểm này tạo ra hình viên kim cương chỉ vì Langdon mới nối những điểm lân cận với nhau. Illuminati tôn thờ sự đối xứng! Tay run run, Langdon nối hai cặp đỉnh đối diện. Trước mắt anh hiện ra hình cây thập tự khổng lồ. Là hình chữ thập! Bốn nguyên tố đầu tiên của khoa học hiện ra trên tấm bản đồ… nằm rải rác khắp thành Rome, tạo thành một chữ thập lớn trải rộng khắp thành phố.
Tròn mắt kinh ngạc, Langdon nhớ lại dòng thơ ấy… như một người bạn cũ, nay bỗng dưng mang một khuôn mặt mới.
"Nguyên tố huyền bí hiển hiện khắp thành Rome…
"Khắp thành Rome…
Sương mù bắt đầu tan. Hoá ra câu trả lời đã ở ngay trước mắt anh từ lâu rồi! Bài thơ của hội Illuminati đã mách bảo anh cách thức các nguyên tố này được bố trí. Khắp.
"Nguyên tố huyền bí hiển hiện khắp thành Rome…
Quả là lối chơi chữ thông minh. Lúc đầu Langdon không để ý lắm đến từ "khắp". Anh tưởng sự lựa chọn từ này chỉ là để đáp ứng yêu cầu về nhịp phách của dòng thơ. Hoá ra không chỉ có thế?
Lại thêm một đầu mối nữa hiện ra.
Hoá ra hình chữ thập trên bản đồ thề hiện tính đối ngẫu tuyệt đối mà Illuminati tôn sùng. Nó là một biểu tượng tôn giáo, được tạo nên bởi bốn nguyên tố của khoa học. Con đường ánh sáng của Galileo tôn vinh cả khoa học lớn Chúa trời!
Phần còn lại của câu đố hóc búa hiện ra gần như tức thì.
Quảng trường Navona.
Chính giữa quảng trường Navona, trước mặt nhà thờ Nỗi đau của thánh Agnes, là một trong những tác phẩm trứ danh nhất của Bernini. Tất cả những ai đến thăm thành Rome đều muốn chiêm ngưỡng tác phẩm này.
Đài phun nước. Bốn dòng sông!
Một cách thức tuyệt hảo để tôn vinh nước. Đài phun, nước. Bốn dòng sông của Bernini ngợi ca bốn dòng sông lớn của cựu lục địa - sông Nile, Ganges, Danube và Rio Plata.
Nước, Langdon thầm nghĩ. Đầu mối cuối cùng. Thật hoàn hảo.
Thêm một chi tiết tuyệt vời nữa, như một trái sơ-ri ngọt ngào trên chiếc bánh ga-tô, chính là toà Kim tự tháp bằng đá ngay giữa đài phun nước này.
Đứng phắt dậy, mặc kệ những người lính cứu hoả còn đang ngơ ngác, Langdon chạy tới bên thi thể của Olivetti.
10 giờ 32 phút rồi, anh thầm nghĩ. Vẫn còn thiếu thời gian. Lần đầu tiên trong ngày hôm nay, Langdon cảm thấy mình đi trước được một bước.
Quỳ xuống bên xác Olivetti, khuất sau mấy hàng ghế, Langdon kín đáo rút khẩu súng bán tự động và chiếc máy bộ đàm ở lưng ông ta. Anh phải gọi người ứng cứu, nhưng không phải ở đây.
Lúc này cần phải giữ bí mật về bàn thờ khoa học cuối cùng. Đám đông các nhà báo cùng với đội xe cảnh sát rú còi ầm ĩ lao về phía quảng trường Novona sẽ chẳng được tích sự gì.
Không nói không rằng, Langdon lẻn ra khỏi cửa, vòng ra sau lưng đám nhà báo lúc này đang lũ lượt kéo vào trong thánh đường.
Anh đi qua quảng trường Babernini, ra đến một góc tối, anh bật máy bộ đàm. Anh ra sức gọi nhưng chẳng thấy có tín hiệu. Một là anh đã ở ngoài vùng phủ sóng, hai là để sử dụng chiếc máy này cần biết một tần số đặc biệt nào đó. Langdon ra sức điều chỉnh những cái nút và cần gạt, nhưng chẳng tác dụng gì. Đột nhiên, anh nhận thấy kế hoạch gọi người đến trợ giúp không còn khả thi nữa. Langdon lập tức chạy đi tìm bốt điện thoại. Không có. Mà dù sao thì các đường dây của Vatican cũng đều bận hết rồi.
Đơn độc. Cảm giác tự tin lúc đầu nhanh chống biến mất. Langdon đứng lặng đi, nghĩ đến tình cảnh thảm hại của mình: người dính đầy vụn xương mục, bị thương, kiệt sức và đói.
Anh quay lại nhìn nhà thờ. Khói đen cuồn cuộn trên mái vòm sáng trưng dưới ánh đèn máy quay và xe cứu hoả. Anh phân vân không biết có nên quay vào đó nhờ người giúp đỡ hay không.
Nhưng bản năng mách bảo rằng sự trợ giúp của những người không có chuyên môn sẽ chi mang lại nhiều bất lợi. Nhỡ tên sát thủ trông thấy mọi người kéo đến… Anh nghĩ đến Vittoria, và biết rằng đây là cơ hội cuối cùng để tóm được hung thủ.
Quảng trường Navona, anh nghĩ, thầm biết rằng còn đủ thời gian để đến đó và khoanh vùng địa điểm. Anh nhìn quanh tìm xe taxi, nhưng phố vắng tanh. Hình như cả cánh lái xe taxi cũng bỏ hết mọi thứ để ngồi trước màn hình ti-vi. Quảng trường Navona chỉ cách có một dặm nhưng Langdon không muốn phung phí sức lực bằng cách cuốc bộ đến đó. Anh lại nhìn nhà thờ, cân nhắc khả năng mượn xe của ai đó để đi.
Xe cứu hoả? Xe hòm của nhà báo? Phải cẩn thận.
Biết rằng càng do dự thì càng dễ để tuột mất cơ hội, Langdon nhanh chóng quyết định. Rút súng ra, anh hành động khác hẳn phong cách thường ngày của bản thân mình, khác đến mức Langdon nghĩ mình đã bắt đầu bị quỷ ám. Chạy đến bên một chiếc xe Citroen đang đỗ bên lề đường, Langdon chĩa súng vào người lái xe đang ngồi bên trong và hét lên:
- Fuori! (3)
Người lái xe run rẩy bước xuống.
Langdon nhảy ngay vào ngồi sau vô lăng và kéo cần ga.
Chú thích
(1) Riposati: Nằm nghỉ đi.
(2) Topo salvatore: Chú chuột cứu mạng.
(3) Fouri: Ra ngoài!
--101--
Gunther Glick đang ngồi uống nước trong văn phòng của đội lính gác Thuỵ Sĩ. Anh đang cầu khấn tất cả các vị thần linh trên đời. Xin cho tối nay không phải là một giấc mơ. Glick đã đưa được một bản tin để đời. Bản tin mà mọi phóng viên đều ao ước.
Lúc này, tất cả các phóng viên trên khắp hành tinh đều mơ ước được ở vào địa vị của Glick. Mình đang tỉnh đấy chứ, anh ta tự nhủ. Và mình vừa trở thành một ngôi sao. Dan Rather lúc này sắp phát khóc lên rồi.Macri ngồi ngay cạnh Glick, có vẻ kinh ngạc. Glick không trách gì cô ta hết. Ngoài việc truyền hình trực tiếp bài phát biểu của Giáo chủ Thị thần, hai người đã cho cả thế giới xem những bức ảnh kinh hoàng về Giáo hoàng và các vị Hồng y - cái lưỡi của Người! Và cả hình ảnh trực tiếp về chiếc hộp chứa phản vật chất đang đếm ngược thời gian. Không thể tin nổi!
Dĩ nhiên là tất cả đều do mệnh lệnh của Giáo chủ Thị thần, cho nên lúc này hai người mới bị nhốt trong văn phòng của đội lính gác Thuỵ Sĩ. Đội lính gác không hài lòng về những thông tin ngoài lề mà Glick đã đưa thêm. Biết rằng mình không được phép nghe cuộc đàm thoại đó, nhưng đó là cơ hội ngàn năm có một. Một hành động phi thường nữa của Glick!
- Nhân vật bác ái lúc 11 giờ đêm là thế nào? - Macri rên rỉ, có vẻ không thích thú chút nào.
Glick mỉm cười:
- Ý tưởng thông minh đấy chứ?
- Thông minh cái con khỉ.
Cô ta đang ghen, Glick biết thế. Không bao lâu sau khi truyền hình trực tiếp bài phát biểu của Giáo chủ Thị thần, Glick lại tình cờ có mặt đúng lúc và đúng chỗ. Anh nghe lỏm được những mệnh lệnh mới của Rocher. Rõ ràng là ông đại tá này đã nhận được một cú điện thoại của một nhân vật bí ẩn, người mà Rocher cho rằng có những thông tin có tính chất sống còn trong tình huống ngàn cân treo sợi tóc này. Nghe khẩu khí của Rocher thì người này có thể giúp họ, và ông ta ra lệnh chuẩn bị đón khách.
Dù thông tin này thuộc loại bí mật, nhưng Glick đã hành động như tất cả những phóng viên tận tâm khác - không đếm xỉa đến danh dự. Anh ta tìm một góc tối, bảo Macri bí mật bấm máy quay từ xa, và thông báo tin đó.
"Những tiến triển gây sốc bên trong thành phố của Chúa", Glick đã nói thế, anh ta lại còn nheo nheo mắt để tăng thêm độ biểu cảm. Sau đó anh ta thông báo rằng một vị khách bí ẩn sẽ đến cứu Vatican. Glick còn gọi người đó là nhân vật bác ái lúc 11 giờ khuya, cái tên thật thích hợp với một người giấu mặt xuất hiện vào phút chót, ra tay làm việc nghĩa. Tất cả các hệ thống phát thanh truyền hình khác lập tức chộp lấy tin đó, và lại một lần nữa Glick trở thành bất tử.
Mình quả là xuất sắc, Glick thầm nghĩ. Peter Jenning chắc phải ghen tị đến mức nhảy cầu tự vẫn mất thôi.
Dĩ nhiên là anh ta không chịu dừng ở đó. Nhân lúc cả thế giới đang chú ý đến mình, anh ta đã thêm mắm thêm muối vào cho mùi mẫn.
Xuất sắc! Vô cùng xuất sắc!
- Anh nói dối. - Macri nói - Đó hoàn toàn là điều bịa đặt.
- Cô nói cái gì thế Tôi cực kỳ thông minh chứ!
Macri trợn tròn mắt, tỏ vẻ không tin.
- Cựu tổng thống George Bush, ông ấy là thành viên của Illuminati thật sao?
Glick mỉm cười. Hiển nhiên đến thế còn gì nữa? Có vô số tài liệu về ông ta, Hội viên hội Tam Điểm, và là người đứng đầu CIA đúng vào thời gian cơ quan này quyết định dừng điều tra về Illuminati vì thiếu chứng cớ. Và những bài phát biểu về "một ngàn đốm sáng" và "một trật tự thế giới mới"… rõ ràng Bush là hội viên của Illuminati.
- Thế còn những chi tiết về CERN thì sao? - Macri nghiêm mặt. - Sáng mai anh sẽ phải đối mặt với hàng loạt luật sư đến kiện cáo đấy!
- CERN à? Thôi đi mà! Điều đó quá hiển nhiên rồi còn gì! Cô nghĩ mà xem! Illuminati biến mất vào những năm 1950, đúng vào thời điểm CERN được thành lập. Đó là nơi quy tụ những bộ óc sáng láng nhất hành tinh. Hàng núi tiền tài trợ từ các cá nhân. Họ tạo ra một thứ vũ khí có khả năng phá huỷ các thánh đường, và rồi đùng một cái… vũ khí đó bị mất cắp!
- Và anh muốn cả thế giới tin rằng CERN là trụ sở mới của Illuminati chứ gì?
- Dĩ nhiên! Các hội kín có bao giờ biến mất hoàn toàn đâu. Illuminati chắc chắn phải rút vào một địa điểm nào đó chứ. CERN là nơi ẩn náu lý tưởng cho họ. Biết đâu đó còn là hang ổ của hội Tam Điểm ấy chứ! Đa số các nhân viên bình thường thì có thể không biết gì, nhưng những cấp lãnh đạo thì…
- Anh đã bao giờ nghe nói tới tội vu khống chưa? Về các trách nhiệm pháp lý ấy.
- Thế cô đã bao giờ biết thế nào là nghề báo thực thụ chưa?
- Nghề báo cái gì? Anh đưa toàn những tin bịa đặt! Đáng ra lúc ấy tôi phải tắt ngay máy đi! Lại còn những điều lảm nhảm về lô-gò hợp nhất của CERN nữa chứ. Biểu tượng của quỷ là thế nào? Anh mất trí rồi hay sao đấy?
Glick mỉm cười. Rõ ràng là Macri đang ghen tị đây mà. Ý tưởng vế lô-gô của CERN hiển nhiên là ý tưởng thông minh nhất. Từ sau khi Giáo chủ Thị thần phát biểu trực tiếp, tất cả các kênh truyền hình đều nói về CERN và về phản vật chất. Một số kênh còn lấy luôn lô-gô của viện nghiên cứu đó làm phông nền. Thoạt nhìn thì biểu tượng đó trông khá chuẩn - hai hình tròn giao nhau tượng trưng cho hai máy gia tốc hạt, và năm đường tiếp tuyến tượng trưng cho các ống bắn hạt. Cả thế giới đang quan sát lô-gô đó, nhưng với tố chất của một nhà biểu tượng học, chính Glick là người luận ra được những biểu tượng của hội Illuminati ẩn trong đó.
- Anh đâu phải là nhà biểu tượng học. - Macri khiển trách - Anh chỉ là một gã phóng viên chết dẫm đang vớ bở. Đáng ra phải để câu chuyện về cái biểu tượng ấy cho anh chàng Harvard kia kìa.
- Anh ta có để ý đến nó đâu! - Glick đáp.
Ý nghĩa biểu tượng của hội Illuminati trên lô-gô đó quá rõ ràng rồi còn gì nữa!
Glick như mở cờ trong bụng. Dù CERN sở hữu rất nhiều máy gia tốc hạt, trên lô-gô chỉ có hai cái. Hai chính là con số chẵn được ưa chuộng của Illuminati. Mặc dù tất cả các máy gia tốc hạt chỉ có một ống bắn hạt mà thôi, trên lô-gô có những năm ống. Năm chính là con số tượng trưng cho ngôi sao năm cánh của Illuminati. Và thế là Glick đã táo bạo hành động - đó mới chính là điểm mấu chốt nhất. Glick chỉ ra rằng trên lô-gô có một con số 6 rất lớn - rõ ràng là một trong những vòng tròn và những đường thẳng đã tạo ra con số đó. Và khi xoay ngược lô-gô, lại một số 6 nữa hiện ra… đến số 6 thứ ba. Trên lô-gô có ba con số 6 tất cả! 666! Con số của quỷ!
Glick quả là thiên tài.
Macri có vẻ như đang muốn bóp chết anh.
Cảm giác ghen tị rồi sẽ hết thôi, Glick biết thế. Đầu óc anh lúc này đang mơ tưởng đến chuyện khác. Nếu CERN chính là đại bản doanh của Illuminati thật, thì không hiểu viên kim cương Illuminati được cất giấu ở chỗ nào? Glick đã từng đọc về viên kim cương đó trên mạng - một viên kim cương hoàn hảo, được tạo ra từ loại đá quý nguyên thuỷ, với sự chuẩn xác đến nỗi tất cả những ai được nhìn thấy nó đều phải trầm trồ thán phục.
Glick mơ màng, biết đâu tung tích của viên kim cương Illuminati là một bí ẩn nữa mà anh ta có thể khám phá trong đêm nay.
--102--
Quảng trường Navona. Đài phun nước Bốn dòng sông.
Đêm ở thành Rome giống như trên sa mạc, lạnh đến mức kỳ lạ dù sau một ngày nắng ấm. Langdon đang hối hả sải bước trên quảng trường, áo khoác quấn sát vào người. Ý như tiếng rầm rầm của xe cộ, tiếng lao xao của các bản tin được phát đi vang vọng khắp nơi. Anh xem đồng hồ. 15 phút. May mắn là còn vài phút để nghỉ ngơi.
Quảng trường vắng tanh. Đài phun nước, tuyệt tác của Bernini đang phun xì xì như có ma thuật. Đài phun nước tạo ra một đám sương, được chiếu sáng từ dưới bằng những ngọn đèn đặt ngầm dưới nước. Dường như một luồng điện lạnh lẽo nào đó đang bao trùm khắp không gian.
Đặc điểm được ca ngợi nhiều nhất của đài phun nước này chính là độ cao của nó. Chỉ riêng phần lõi của đài phun đã cao tới 7 mét - một tảng non bộ bằng đá cẩm thạch để thô, có vô số hốc nhỏ phun nước ra. Toàn bộ quả núi nhỏ này được trang trí bằng các hoạ tiết có tính ngoại đạo. Trên đỉnh núi là một Kim tự tháp cao 12 mét. Langdon ngước mắt nhìn lên. Trên đỉnh Kim tự tháp có một chú chim bồ câu lặng lẽ, đơn độc.
Hình chữ thập, Langdon thầm nghĩ, anh vẫn chưa hết kinh ngạc về cách thức bố trí các đầu mối của con đường trên khắp thành Rome. Đài phun nước Bốn dòng sông của Bernini chính là bàn thờ khoa học cuối cùng. Cách đây vài giờ đồng hố, Langdon còn đang đứng trong điện Pantheon, đinh ninh rằng con đường ánh sáng đã bị huỷ hoại, không ngờ giờ đây anh có thể đến được nơi này. Quả là một sai lầm ngớ ngẩn. Hoá ra toàn bộ con đường vẫn còn nguyên vẹn Đất, Khí, Lửa, Nước. Và Langdon đã lần theo dấu con đường này, từ đầu đến cuối.
Chưa hẳn là đến cuối, con đường này có năm điểm dừng, không phải là bốn. Đài phun nước thứ tư này sẽ chỉ ra cái đích sau cùng nới tụ họp bí mật của hội Illuminati. Đền thờ ánh sáng. Không hiểu địa điểm đó có còn tổn tại không? Không hiểu có phải tên sát thủ đã đưa Vittoria tới đó hay không?
Langdon quan sát kỹ đài phun nước, cố tìm một đầu mối nào đó dẫn tới điểm tụ họp bí mật kia. Thiên thần dẫn lối trên hành trình cao cả. Nhưng gần như ngay lập tức, anh nhận ra một điều không dễ chịu chút nào. Đài phun nước này không có thiên thần nào cả. Từ chỗ đứng hiện thời, Langdon không thấy thiên thần nào hết… và xưa nay anh cũng chưa bao giờ trông thấy. Đài phun nước Bốn dòng sông là một tác phẩm ngoại đạo. Tất cả những hình chạm khắc ở đây đều đậm nét trần tục - người, thú, thậm chí cả một con ta-tu thô kệch nữa. Nếu có thì thiên thần cũng sẽ rất cô độc ở nơi này.
Hay không phải là chỗ này? Langdon lại suy nghĩ về hình chữ thập với bốn Kim tự tháp đá ở bốn điểm. Anh siết chặt nắm đấm. Đài phun nước này quả là hoàn hảo.10 giờ 46 phút, một chiếc xe hòm màu đen xuất hiện từ một con hẻm bên kia quảng trường: Langdon đã chẳng mảy may để ý đến nó, nếu như chiếc xe không bật đèn. Ý như một con cá mập đang tuần tiễu ở vùng vịnh sáng trăng, chiếc xe lượn một vòng quanh quảng trường.
Langdon khom người xuống, nép sát vào một góc tối dưới chân cầu thang nhà thờ Nỗi đau của thánh Agnes. Anh căng mắt nhìn ra quảng trường, tim đập mỗi lúc một nhanh hơn.
Sau khi lượn hai vòng, chiếc xe hướng vào đài phun nước của Bernini. Nó lượn sát vào, cho đến khi áp thật sát vào mép đài phun. Rồi chiếc xe dừng lại cánh cửa trượt bên hông xe chỉ cách mặt nước chưa đến một tấc.
Bọt nước vẫn bắn tung toé.
Langdon cảm thấy sự kiện này báo điềm gở. Hay là tên sát thủ đến sớm? Chẳng lẽ hắn đến bằng xe hòm? Anh những tưởng hắn sẽ đi bộ và dìu nạn nhân đến đây, y như lúc ở quảng trường St. Peter, như thế thì anh có thể ngắm bắn dễ dàng. Nhưng nếu hắn đi xe đến thì mọi thứ sẽ khác đi.
Bất thần, cánh cửa trượt bên hông thùng xe mở ra. Trên sàn xe, một người bị lột hết quần áo đang quằn quại đau đớn. Toàn thân người này quấn dây xích. Người đó đang cố quẫy ra, nhưng những mắt xích vừa to vừa nặng. Một mắt xích gang mồm nạn nhân, chắc để cho người này khỏi kêu cứu. Đúng lúc đó, Langdon trông thấy bóng một người nữa, trong bóng tối đang di chuyển phía sau nạn nhân, như thể đang chuẩn bị những chi tiết cuối cùng.
Langdon biết thời gian hành động của anh chỉ được tính bằng giây.
Súng cầm tay, anh thả áo xuống đất. Anh không muốn chiếc áo to nặng này cản bước, và cũng không muốn trang bản thảo của cuốn Diagramma bị đưa đến gần chỗ có nước. Trang tài liệu sẽ ở đây chỗ khô ráo và an toàn.
Langdon bò về bên phải. Vòng qua đài phun nước, anh hướng tới vị trí đối diện chiếc xe hòm. Hòn núi nhỏ giữa đài phun cản mất tầm nhìn. Đứng thẳng người dậy, anh chạy thẳng đến bên đài phun nước, hi vọng tiếng nước phun sẽ lấp đi tiếng chân chạy thình thịch. Đến dài phun, anh trèo qua mép tường, nhảy vào trong bể nước ngầu bọt.
Nước sâu đến ngang bụng và lạnh như băng. Langdon nghiến răng mà lội. Đáy bồn trơn nhẫy, đã thế lại phủ một lớp dày những đồng xu người ta ném xuống để cầu may. Langdon biết lúc này anh không chỉ cần đến sự may mắn. Bụi nước mù mịt khắp xung quanh, Langdon thầm băn khoăn, không hiểu vì lạnh hay vì sợ hãi mà khẩu súng lục trên tay anh run lên bần bật.
Vào đến gần giữa bồn nước, Langdon vòng qua bên trái. Anh cố lội thật nhanh, và luôn cố ẩn mình sau tảng núi đá nhỏ ở chính giữa đài phun nước. Nấp sau một chú ngựa đá ở trung tâm đài phun, Langdon nhìn ra quan sát. Chiếc xe hòm chỉ cách anh khoảng 5 mét. Tên sát thủ đang lom khom trên sàn xe, hai tay đặt lên người vị Hồng y đã bị trói chặt bằng dây xích, hắn sắp đẩy ngài qua cánh cửa trượt đã mở sẵn.
Trong bồn nước ngập đến ngang thắt lưng, Langdon giương súng, bước ra khỏi đám bụi nước mịt mù. Như thể anh chính là một chàng cao bối đang chọn điểm ngắm bắn.
- Đứng im.
Langdon hô to, giọng nói của anh nghe điềm tĩnh hơn bàn tay đang cầm khẩu súng.
Tên sát thủ ngước nhìn lên. Trong thoáng chốc, dường như hắn giật mình và không hiểu nổi những từ vừa nghe thấy. Rồi bĩu môi, hắn mỉm cười đầy xảo trá, giơ hai tay lên trời.
- Tay giơ rồi đây này.
- Ra khỏi xe mau.
- Ông bạn ướt hết rồi kìa.
- Mày đến hơi sớm.
- Vì tôi muốn sớm quay về với chiến lợi phẩm của tôi.
Langdon giương súng lên:
- Súng của tao không biết do dự đâu!
- Ông bạn đang do dự rồi đấy thôi.
Ngón tay Langdon siết chặt cò súng. Vị Hồng y Giáo chủ lúc này đang nằm bất động trên sàn xe. Trông ngài có vẻ đã kiệt sức, và dường như đang hấp hối.
- Cởi trói cho ông ấy mau.
- Quên ông ta đi, ông bạn đến để tìm con bé cơ mà. Đừng giả bộ làm gì?
Langdon phải cố kìm ý nghĩ muốn hạ thủ hắn ngay lúc này.
- Cô gái đâu?
- Ở một nơi an toàn, đợi tôi trớ về.
Vittoria còn sống. Langdon thấy có một tia hi vọng.
- Có phải trong Đền thờ ánh sáng không?
Kẻ giết người nhếch mép cười.
- Ông bạn làm sao mà tìm được!
Langdon thấy nghi ngờ. Hoá ra nơi gặp gỡ của họ vẫn còn tồn tại.
Anh chĩa súng vào người hắn.
- Ở đâu?
- Đó là một địa điểm bí mật từ nhiều thế kỷ nay. Thậm chí đến cả tôi cũng mới được biết chưa bao lâu. Có chết tôi cũng không tiết lộ bí mật đó.
- Không cần mày tao cũng tự tìm được.
- Ông bạn quá ngạo mạn.
Langdon hất đầu về phía đài phun nước:
- Tao đã đến được đây đấy thôi.
- Thì khối người khác cũng thế. Bước cuối cùng bao giờ cũng khó nhất.
Langdon tiến lại gần hơn, chân loạng choạng trong nước. Tên sát thủ có vẻ rất bình tĩnh, hắn đang ngồi xổm ở cuối xe, hai tay giơ lên. Chĩa súng vào ngực hắn, Langdon thầm băn khoăn có nên bắn một phát đạn để kết liễu đời hắn ngay lúc này hay không. Không nên. Hắn biết Vittoria ở chỗ nào. Hắn biết hộp phản vật chất giấu ở đâu. Mình thì đang cần thông tin.Ngồi trong thùng xe tối tăm, tên sát thủ chăm chú nhìn kẻ uy hiếp hắn, và không nén nổi cảm giác vừa thương hại vừa khoái trá. Gã người Mỹ này thuộc loại dũng cảm, điều đó thì đã rõ.
Nhưng gã đúng là đồ gà mờ. Dũng cảm mà không có kỹ năng thì chẳng khác nào tự sát. Muốn tự vệ phải biết các quy tắc. Những quy tắc từ ngàn xưa. Và gã người Mỹ này đã vi phạm tất cả những quy tắc đó.
Ông bạn có một lợi thế - đó là yếu tố bất ngờ. Nhưng ông bạn đã lãng phí cái đó.
Gã người Mỹ này không quyết đoán… có lẽ gã đang đợi người đến hỗ trợ… hay đợi mình lỡ lời để lộ thông tin quan trọng nào đó.
Nếu chưa đánh bại được đối thủ thì chưa được phép tra khảo. Con mồi bị dồn vào chân tường chính là đối tượng nguy hiểm nhất.
Gã này lại nói tiếp, giọng dỗ dành.
Suýt nữa thì tên sát thủ cười phá lên. Đây đâu phải là một bộ phim tà giáo của Hollywood cơ chứ… chẳng ai đi tào lao mãi trong khi đang bị chĩa súng vào người. Thời điểm quyết định đã tới. Nào!Vẫn nhìn thẳng vào mắt Langdon, tên sát thủ lần tay lên nóc xe cho đến khi hắn tìm thấy vật cần tìm. Vẫn chăm chăm nhìn thẳng về phía trước, hắn cắm vật đó gọn trong lòng bàn tay.
Rồi hắn bắt đầu hành động.
Hành động của hắn vô cùng bất ngờ. Trong một thoáng chốc, Langdon tưởng như tất cả các quy luật vật lý đều không còn tác dụng. Tên sát thủ đu người lên cao, hai chân hắn vươn dài ra, hất vị Hồng y đã bị trói bằng xích xuống nước. Nạn nhân của hắn rơi tõm xuống, nước bắn lên tung tóe.
Nước văng đầy lên mặt, Langdon nhận ra quá muộn màng. Kẻ giết người đã bám vào một thanh giằng trên nóc xe để đu người về phía trước. Trong bụi nước mịt mù, hắn lao thẳng vào người Langdon, chân choãi ra trước.
Langdon kéo cò, bộ phận giảm thanh kêu đánh cách một tiếng.
Viên dạn nổ đúng vào mũi giày bên trái của hắn. Nhưng ngay lập tức anh bị hai gót giày của hắn đá mạnh vào ngực, và bị hất về phía sau.
Hai người đàn ông ngã nhào xuống, nước lẫn máu bắn tung tóe.
Bị thứ chất lỏng lạnh kinh khủng ấy bao kín lấy toàn thân, cảm nhận đầu tiên của Langdon là đau. Bản năng sinh tốn trỗi dậy trước tiên. Anh nhận thấy khẩu súng không còn trên tay mình nữa. Nó đã bị đá văng đi. Lặn sâu xuống, Langdon mò mẫm quờ quạng dưới đáy bốn nước. Tay anh chạm vào kim loại. Hoá ra là một nắm tiền xu. Anh thả ra. Langdon mở mắt, quan sát đáy bốn. Làn nước lạnh buốt đang vây kín lấy anh.
Cố nhịn thở Langdon lặn xuống đáy bồn để khỏi bị tấn công. Không ngừng quẫy đạp. Không biết cú đánh tiếp theo sẽ từ hướng nào. Phải tìm cho được khẩu súng! Hai tay anh tuyệt vọng dò dẫm.
Mình đang có một lợi thế, anh tự khích lệ bản thân, mình đang ở trong môi trường của mình. Dù chiếc áo len sũng nước trở nên rất vướng víu, Langdon vẫn là một tay bơi nhanh nhẹn. Nước chính là môi trường của mình.
Tay sờ phải kim loại lần thứ hai, Langdon chắc mẩm vận rủi của mình đã kết thúc. Thứ anh cầm trong tay không còn là một nắm tiền xu nữa. Nắm thật chặt, lôi nó về phía mình, nhưng thay vì kéo được vật ấy, anh thấy mình bị kéo về đằng trước. Vật đó không hề xê dịch chút nào.
Còn chưa chạm vào thân thể đang quằn quại của đức Hồng y, Langdon đã nhận ra ngay, anh vừa nắm phải sợi dây xích đang kéo vị thầy tu này xuống dưới đáy nước. Trông thấy khuôn mặt đầy kinh hãi dưới đáy nước đang nhìn mình chằm chằm, Langdon đờ người, chùng chằng mất một khoảnh khắc.
Nhưng ngay khi thấy đôi mắt ấy vẫn ánh lên sự sống, Langdon lập tức hành động: Anh sục tay xuống, túm lấy sợi dây xích, rồi ra sức kéo ông già khốn khổ lên khỏi mặt nước.
Thân thể của nạn nhân nổi lên rất chậm chạp, chẳng khác gì cái mỏ neo. Langdon kéo mạnh tay hơn. Khi mặt nhô được lên khỏi mặt nước, vị Hồng y già thở hổn hển một cách tuyệt vọng. Rồi bỗng dưng thân thể của ngài lăn mạnh, khiến cho sợi xích trơn tuột vuột ra khỏi tay Langdon. Như một tảng đá nặng, Hồng y Baggia rơi xuống nước, rồi chìm nghỉm dưới làn nước ngầu bọt.
Langdon lặn xuống, căng mắt ra để nhìn xuyên làn nước tối âm u. Anh tìm được đức Hồng y Giáo chủ. Nhưng lần này, khi Langdon chạm tay vào, sợi xích ngang ngực nạn nhân bị kéo lệch đi để lộ ra thêm một vết thương đau đớn trên cơ thể nạn nhân… một dấu sắt nung làm cháy sém da thịt.
Trong giây lát, hai chiếc giày hiện ra trong tầm mắt Langdon. Một chiếc đỏ lòm những máu.
