Tác giả: Dan Brown
--92--
Ba lần bỏ phiếu. Chưa có Giáo hoàng.
Trong nhà nguyện Sistine, Hồng y Mortati đang cầu mong một phép nhiệm màu. Xin cho bốn người được lựa chọn xuất hiện!
Trì hoãn thế là lâu lắm rồi. Nếu chỉ thiếu một vị thôi, thì đức cha còn hiểu được. Nhưng cả bốn cùng một lúc? Chẳng còn lựa chọn nào khác. Thế này thì chỉ có Chúa đích thân ra tay mới có được hai phần ba số phiếu cần thiết.
Khi then cửa nhà nguyện bắt đầu dịch chuyển, Hồng y Mortati và toàn thể Hồng y đoàn đều quay sang nhìn. Hành động mở dấu niêm phong thế này chỉ có thể có một ý nghĩa duy nhất.
Theo luật, cửa nhà nguyện chỉ được mở trong hai trường hợp - để đưa người bị ốm ra ngoài, và để đón các vị Hồng y đến muộn.
Bốn vị được lựa chọn đã quay trở lại!
Tim Hồng y Mortati đập rộn lên. Mật nghị Hồng y có cơ hội thành công rồi!
Khi hai cánh cửa mở ra, tất cả những ai có mặt trong nhà nguyện đều há hốc mồm, nhưng không phải vì vui sướng. Thấy người đó bước vào, đức cha kinh ngạc. Lần đầu tiên trong lịch sử Vatican, một Giáo chủ Thị thần dám cả gan phá dấu niêm phong trên cửa nhà nguyện Sistine sau khì đã đóng hai cánh cửa ấy lại.
Viên Thị thần này đang nghĩ gì không biết!
Giáo chủ Thị thần sải bước đến bên bàn thờ Chúa và bắt đầu phát biểu trước sự kinh ngạc tột cùng của toàn thể Hồng y đoàn.
- Thưa các ngài. - Anh ta nói - Tôi đã đợi quá lâu rồi. Chuyện này các ngài có quyền được biết.
--93--
Langdon chẳng cần biết sẽ đi đến đâu. Bản năng là phương tiện định hướng duy nhất để thoát khỏi hiểm nguy lúc này. Khuỷu tay và đầu gối đau rát vì phải bò lồm cồm dưới gầm ghế. Nhưng Langdon vẫn tiếp tục bò. Tâm trí mách bảo anh hãy di chuyển về bên trái. Nếu ra được đến lối đi giữa là có thể chạy thoát ra ngoài. Anh biết điều đó là không thể. Lối đi chính đã bị cả một bức tường lửa bịt mất rồi! Đầu Langdon căng ra để tìm đường thoát thân, trong khi tay và chân vẫn tiếp tục bò. Tiếng bước chân bên phải đã gần hơn.
Langdon hoàn toàn bị bất ngờ. Anh cứ tưởng còn khoảng 3 mét nữa thì sẽ đến cửa trước của thánh đường. Nhưng anh đã ước lượng sai. Bất ngờ, những chiếc ghế đang che chắn cho anh biến mất. Langdon sợ cứng người, người anh nhô hẳn ra ngoài, ngay phía trước thánh đường. Từ góc nhìn kỳ dị của anh lúc này, Langdon thấy một hình khối rất lớn hiện ra phía tay trái, chính là tác phẩm nghệ thuật đã dẫn dắt anh đến đây. Langdon đã quên hẳn tác phẩm điêu khắc này. Khoảnh khắc đê mê của thánh Teresa hiện ra, chẳng khác nào một vật phẩm khiêu dâm thời hiện đại… vị thánh trong tư thế nằm ngửa, cơ thể oằn oại trong hoan lạc, miệng hé mở như thể đang rên rỉ đê mê, và trên người nữ thánh, một thiên thần đang giương cao cây giáo lửa.
Một phát đạn nổ ngay trên hàng ghế băng, sượt qua đầu Langdon. Anh bất giác căng người lên như một vận động viên thể thao đang chạy nước rút. Lượng adrenaline trong máu tăng vọt, theo bản năng, anh chạy, đầu chúi xuống, chạy ngang qua thánh đường rộng lớn, hướng về phía tay phải. Lại có tiếng súng nổ sau lưng, một lần nữa Langdon chúi xuống thật thấp, rồi trượt chân, văng một đoạn dài trên sàn đá hoa cương, rồi ngã vật xuống ngay trước hàng lan can của một cái hốc tường bên tay phải.
Đúng lúc này, anh trông thấy cô gái đang nằm bất động phía cuối thánh đường. Vittoria! Đôi chân trần của cô gái quặp lại, bất động, nhưng hình như vẫn còn thở. Langdon chẳng kịp làm gì để giúp Vittoria.
Ngay lập tức, tên sát thủ vòng qua những hàng ghế bên tay trái nhà thờ và bắt đầu sải bước về phía Langdon. Trong tích tắc, Langdon nhận ra, thế là hết. Hắn giương súng lên, và điều duy nhất Langdon có thể làm trong lúc này là lăng người, nhảy qua lan can vào trong hốc. Đúng lúc Langdon chạm chân xuống sàn đá bên trong hốc, hàng cột đá bao quanh hốc bị một loạt đạn phá tan tành.
Loạng choạng bò sâu thêm vào trong hốc, Langdon cảm thấy mình đã thật sự bị dồn vào chân tường trong cái hốc hình bán nguyệt này. Trước mắt anh, thứ duy nhất được đặt trong hốc hiện ra mới đúng lúc làm sao - một cái quách bằng đá. Có lẽ để dành riêng cho mình, anh thầm nghĩ. Đến cả kiểu dáng của nó cũng thích hợp một cách kỳ lạ. Đây là loại quan tài đá nhỏ, giản dị, không có các chi tiết trang trí cầu kỳ. Chứng tỏ gia tộc này không giàu có lắm. Chiếc quan tài được kê trên hai phiến đá hoa cương, Langdon quan sát khe hở giữa chiếc quan tài và sàn nhà, ước lượng xem có thể chui lọt xuống dưới không.
Tiếng bước chân vang lên ngay sau lưng.
Chẳng còn sự lựa chọn nào khác, Langdon dán chặt người xuống sàn, trườn vào bên dưới chiếc quan tài đá. Mỗi tay bám vào một phiến đá hoa cương, anh đẩy người vào trong, giống như một vận động viên bơi ếch, kéo thân mình vào bên dưới quan tài.
Súng nổ.
Cùng với tiếng súng là một cảm giác mà lần đầu tiên trong đời Langdon trải qua… một viên đạn sượt qua da thịt. Tiếng gió rít rồi như một cái roi da quất xuống thật mạnh, viên đạn sượt qua người anh, trúng vào tảng đá hoa cương và bụi bay tung tóe.
Tim đập thình thịch, Langdon đẩy tay thật mạnh, thu nốt người vào hẳn dưới gầm quan tài. Lồm cồm, anh chui qua chiếc quan tài đá sang phía bên kia.
Hết đường.
Lúc này Langdon đang đối diện với bức tường sau của mộ phần. Không còn nghi ngờ gì nữa, cái góc chật hẹp này sẽ là nấm mồ của chính anh. Và rất mau lẹ, Langdon trông thấy nòng súng chĩa vào khe hở giữa quan tài đá và sàn nhà. Tên sát thủ hạ súng xuống song song với sàn nhà, chĩa thẳng vào người Langdon.
Không thể trượt được.
Bản năng tự vệ lúc này đã hoàn toàn chi phối đầu óc Langdon.
Anh xoay người nằm sấp xuống, song song với chiếc quan tài. úp mặt xuống, anh tì hai tay trên sàn, vết đứt do bị kính vỡ găm vào lúc ở trong Nhà mái vòm bí mật đau nhói lên. Mặc kệ, anh chống tay thật mạnh. Anh đẩy cho toàn thân cong lên trong một tư thế khá kỳ quặc, đúng lúc súng nổ. Đạn bay sượt qua dưới bụng Langdon, không khí rung lên, những phiến đá hoa cương lát sàn bị thủng lỗ chỗ. Mắt nhắm nghiền, cố chống lại cảm giác mệt mỏi đến kiệt quệ, anh cầu cho loạt đạn chấm dứt.
Mãi rồi nó cũng phải hết.
Tiếng băng đạn rỗng lách cách thay cho tiếng đạn nổ ầm ầm.
Langdon chậm chạp mở mắt ra, chỉ sợ hai mí mắt có thể gây ra tiếng động. Cố nén đau, anh giữ nguyên tư thế của mình, như một con mèo đang vươn vai. Không dám thở. Tai ù đi vì tiếng súng, nhưng Langdon vẫn cố lắng nghe xem kẻ giết người có dấu hiệu bỏ đi không. Yên lặng. Nghĩ đến Vittoria, anh thầm ước có thể làm gì đó để giúp cô gái.
Rồi một âm thanh khủng khiếp vang lên. Gần như không phải tiếng người mà là tiếng gầm gào lên gân lên cốt.
Chiếc quan tài đá bên cạnh Langdon bỗng nghiêng lên. Thấy khối đá hàng trăm cân sắp sửa đổ chụp xuống người, Langdon nằm bẹp xuống sàn. Trọng lực đã thắng lực ma sát, và nắp quan tài trượt xuống ngay bên cạnh anh. Tiếp đến là chiếc quan tài, nó trượt khỏi bệ đỡ, rồi úp xuống người Langdon.
Langdon biết hoặc là anh bị chụp vào bên trong cỗ quan tài, hoặc là sẽ bị nghiền nát dưới gô mép của nó. Thu đầu và chân lại hai tay ép chặt vào mạng sườn, Langdon nhắm mắt chờ đợi cỗ quan tài đá đổ sập xuống.
Rồi cỗ quan tài sập xuống, mặt đất rung lên. Mép trên của nó sập xuống chỉ cách đầu Langdon có vài li làm anh tê nhói đến tận chân răng. Cánh tay phải cứ tưởng sẽ bị nghiền nát, thế mà lại không hề hấn gì. Mở mắt ra, Langdon thấy một luồng sáng.
Cạnh bên phải của chiếc quan tài vẫn chưa trượt hẳn khỏi bệ đỡ và đang lơ lửng. Tuy nhiên, ngay trên đầu anh hiện ra khuôn mặt của thần chết, thần chết theo đúng nghĩa đen của nó.
Chủ nhân của mộ phần đang lơ lửng ngay trên đầu anh, những cái xác đã phân huỷ thường dính chặt vào đáy quan tài.
Bộ xương đung đưa như một người tình dịu dàng, rồi nghe có tiếng nứt gãy, nó đầu hàng trước trọng lực và đổ sụp xuống. Cái xác lao xuống, ôm ghì lấy Langdon, bộ xương mục đã mủn ra thành bột rơi như mưa vào mắt và miệng anh.
Langdon còn chưa kịp hoàn hồn thì đã thấy một bàn tay thò vào trong mép quan tài, lần mò, dò dẫm trên bộ xương mục, y như con trăn đói. Bàn tay ấy tiếp tục lần sờ cho đến khi chạm vào cổ Langdon, rồi siết chặt. Langdon cố sức chống cự lại những ngón tay cứng như thép đang siết chặt thanh quản của anh, nhưng tay áo bên trái của anh đã bị kẹp vào mép quan tài đá. Chỉ còn có tay phải được tự do, Langdon cuống quít chống chọi.
Langdon thu chân lên, tận dụng khoảng trống ít ỏi bên trong cỗ quan tài, cố đặt bàn chân lên đáy quan tài trên đầu. Đây rồi. Thu người, anh dận mạnh hai chân. Đúng lúc những ngón tay cứng như sắt bắt đầu siết mạnh hơn nữa vào cổ bọng, Langdon nhắm mắt, chống mạnh chân lên. Cỗ quan tài chuyển động rất ít, nhưng thế là đủ.
Có tiếng đá nghiến vào đá nghe lọng óc, rồi cỗ quan tài trượt hẳn khỏi bệ đỡ, và đổ hẳn xuống sàn. Mép quan tài nghiến vào bàn tay của hắn, kẻ giết người đau đớn kêu thét lên. Những ngón tay đang siết cổ Langdon rời ra, rồi biến mất trong bóng tối. Khi hắn rút được bàn tay ra, cỗ quan tài đổ phịch xuống, úp chặt xuống nền đá hoa cương.
Chỉ còn lại bóng tối mịt mùng.
Không một tiếng động.
Không thấy có tiếng đập phá cay cú trên cỗ quan tài đã bị lật úp Không có bàn tay nào cố lần mò sờ soạng. Chẳng thấy gì.
Nằm cạnh đống xương mục trong bóng tối, Langdon cố chống cự lại một thứ bóng tối khác đang muốn chụp lấy tâm trí, anh hướng ý nghĩ của mình về cô gái.
- Vittoria. Em còn sống hay không?
Nếu Langdon biết sự thật - cảm giác kinh hãi tột độ mà Vittoria sẽ phải trải qua khi hồi tỉnh lại - thì hẳn anh đã thương cô gái đến mức sẽ cầu cho Vittoria được chết đi.
--94--
Trong nhà nguyện Sistine, cùng với toàn thể Hồng y đoàn, Hồng y Mortati cố hiểu những gì vừa nghe được. Trước mắt đức cha, trong ánh sáng toả ra từ những cây nến, Giáo chủ Thị thần vừa mới nói về những mối cừu thù, về sự phản trắc, khiến cho đức cha thấy run lên. Giáo chủ Thị thần vừa kể về những vị Hồng y bị bắt cóc, bị đóng dấu sắt nung lên người và bị sát hại, về một hội kín cổ xưa có tên là Illuminati - chỉ riêng cái tên thôi cũng đã đủ gợi lại những lo lắng vốn đã chìm vào quên lãng. Illuminati vừa mới hồi sinh, và nguyền sẽ trả thù giáo hội. Với giọng nói đầy đau đớn, Giáo chủ Thị thần nói về cố Giáo hoàng… người đã bị Illuminati đầu độc. Rồi với giọng nói gần như thì thầm, vị thầy tu trẻ tuổi này nói về một thứ kỹ thuật mới thật đáng sợ, phản vật chất. Chưa đầy hai giờ nữa, nó sẽ tiêu huỷ toàn bộ Vatican.
Sau khi Giáo chủ Thị thần nói xong, toàn bộ dưỡng khí trong nhà nguyện tưởng như đã bị một con quỷ sa-tăng hút kiệt. Không một ai nhúc nhích. Những lời nói của Giáo chủ Thị thần như vẫn còn lơ lửng trong bóng đêm.
Tiếng động duy nhất mà Hồng y Mortati nghe thấy là tiếng sè sè của máy quay phim phát ra từ phía cuối nhà nguyện. Lần đầu tiên trong lịch sử giáo hội, một thiết bị điện tử được đưa vào căn phòng này, do Giáo chủ Thị thần khăng khăng đòi như vậy.
Trước sự kinh ngạc của toàn thể Hồng y đoàn, viên thị thần này đã dẫn hai phóng viên BBC vào nhà nguyện - một nam, một nữ - và tuyên bố trịnh trọng rằng họ sẽ truyền hình trực tiếp cho cả thế giới được biết.
Lúc này, hướng thẳng vào ống kính máy quay, Giáo chủ Thị thần nói:
- Có một điều ta xin nói với hội Illuminati và với các nhà khoa học, - ngài hạ giọng xuống. - Các người đã chiến thắng.
Lúc này, sự im lặng tuyệt đối đã lan toả đến mọi ngóc ngách trong nhà nguyện. Mortati còn nghe được cả những nhịp đập tuyệt vọng trong lồng ngực mình.
- Bánh xe lịch sử đã bắt đầu lăn từ lâu lắm rồi. - Giáo chủ Thị thần nói - Chiến thắng của các người là hiển nhiên. Và giờ đây điều đó càng rõ ràng hơn bao giờ hết. Khoa học chính là đức Chúa mới.
Anh ta đang nói cái gì không biết! Hồng y Mortati thầm nghĩ. Hay là anh chàng này hoá điên mất rồi? Cả thế giới đang nghe cơ mà!
- Dược khoa, các phương tiện liên lạc hiện đại, du lịch trong không gian, biến đổi gene… chính là những phép màu nhiệm mà ngày nay chúng ta vẫn kể với con trẻ. Đó chính là nhung bằng chứng để tin rằng khoa học sẽ cho chúng ta những câu trả lời. Những huyền thoại cổ xưa về sự thụ thai trinh tiết, về những rừng cây bốc cháy, về những đại dương mới được hình thành không còn thích hợp nữa rồi. Chúa trời đã trở thành một khái niệm lỗi thời. Khoa học đã chiến thắng. Chúng ta thừa nhận điều đó.
Tiếng xì xầm kinh ngạc lan toả khắp nhà nguyện.
- Nhưng chiến thắng của khoa học, - Giáo chủ Thị thần nói tiếp, - đi kèm với một cái giá rất đắt. Cái giá mà tất cả chúng ta đều phải trả.
Im lặng.
- Khoa học có thể làm dịu những chỗ đau nhức trên cơ thể, giảm sự cực nhọc của con người, tạo ra những công cụ để giải trí, nhưng nó cũng khiến cho cuộc đời trở nên trần tục hơn nhiều. Hoàng hôn đã bị thay bằng những bước sóng và tần số. Sự kỳ diệu của vũ trụ bị chặt vụn ra thành những phương trình toán học. Thậm chí cả giá trị bản thân của mỗi chúng ta cũng bị huỷ hoại. Khoa học cho rằng trái đất và những sinh vật sống trên đó chẳng qua chỉ là những đốm nhỏ vô nghĩa trong vũ trụ bao la. Chỉ là một sự cố trong vũ trụ mà thôi. - Giáo chủ Thị thần ngừng giây lát:
- Thậm chí cả những kỹ thuật lúc đầu hứa hẹn khả năng kết nối chúng ta cuối cùng cũng khiến chúng ta bị chia rẽ. Mỗi chúng ta giờ đây được kết nối với thế giới bằng kỹ thuật điện tử, để rồi lại càng cảm thấy cô đơn hơn trước. Chúng ta phải chứng kiến biết bao cảnh bạo lực, sự chia rẽ, sự rạn nứt, và sự phản trắc. Thậm chí, giờ đây hoài nghi còn là một đức tính tốt. Sự nghi ngờ, sự đòi hỏi phải có bằng chứng giờ dây lại trở thành ý nghĩ thông thái. Phải chăng nhân loại đang cảm thấy tuyệt vọng và thất bại hơn bất kỳ một thời đại nào khác trong lịch sử? Khoa học có thể mang lại bất cứ thứ gì thiêng liêng không? Khoa học tìm câu trả lời bằng cách can thiệp vào những mầm sống chưa chào đời Khoa học còn dự định tái sắp xếp chuỗi ADN của chúng ta. Khoa học biến Chúa trời thành muôn vàn mảnh nhỏ nhằm khám phá bản chất của Người… nhưng rồi lại càng tìm thấy thêm nhiều câu hỏi khác nữa.
Hồng y Mortati kinh hãi quan sát. Lúc này Giáo chủ Thị thần gần như đã bị thôi miên. Chưa bao giờ đức cha thấy có ai nói một cách mạnh mẽ đến thế trước bàn thờ của Vatican.
Giọng nói của người tu sĩ này thấm đẫm cảm giác buồn bã và đau khổ.
- Cuộc chiến cổ xưa giữa tôn giáo và khoa học đã đi đến hồi kết. - Giáo chủ Thị thần nói - Các người đã thắng. Nhưng thắng lợi đó không hề công bằng chút nào. Chiến thắng này không phải là kết quả của những lời giải đáp. Các người đã chiến thắng áp đảo bằng cách biến những chân lý vốn được coi là linh thiêng trở nên không còn thích hợp nữa. Tôn giáo không thể theo kịp các người. Khoa học phát triển theo cấp số nhân. Nó tự nuôi lớn bản thân mình, y như những con virus. Mỗi bước đột phá lại mở đường cho những bước dột phá tiếp theo. Loài người phải mất hàng ngàn năm mới phát triển được cái bánh xe lên thành chiếc xe hơi. Nhưng chỉ sau đó vài thập kỷ, nhân loại đã có thể bay vào vũ trụ Giờ đây, sự phát triển của khoa học chỉ còn tính bằng tuần. Chúng ta đang lao rất nhanh,, đến mức không thể kìm giữ nổi. Sự rạn nứt giữa các cá thể đang lớn dần lên, tôn giáo thì đã bị bỏ lại đằng sau, loài người đối mặt với một khoảng trống trong tâm hồn. Chúng ta vật vã kiếm tìm ý nghĩa của cuộc sống. Và chúng ta đã bắt đầu cảm thấy tuyệt vọng. Chúng ta trông thấy các vật thể bay không xác định (UFO), thử nghiệm thần giao cách cảm, tìm hiểu về những kinh nghiệm thoát xác… tất cả những thứ đó đều mang một lớp vỏ khoa học, nhưng thật ra đều vô nghĩa. Đó thực ra là những tiếng khóc tuyệt vọng của tâm hồn trong thời hiện đại, cô độc và bị giày vò, không thể tìm thấy ý nghĩa của bất kỳ hiện tượng nào nếu tách rời khoa học và kỹ thuật.
Hồng y Mortati nhoài người về phía trước. Cũng như ngài, toàn bộ Hồng y đoàn và tất cả mọi người trên trái đất đang lắng nghe từng từ một. Giáo chủ Thị thần không tỏ ra hùng biện, cũng chẳng đả kích. Không hề nhắc đến kinh thánh hay Chúa Giê-su.
Toàn những ngôn từ hiện dại, giản dị, không màu mè. Nghe như thể chính Chúa trời đang lên tiếng, và dùng một thứ ngôn ngữ rất hiện đại… để chuyển tải bức thông điệp cổ xưa của mình. Lúc này thì Hồng y Mortati đã hiểu vì sao cố Giáo hoàng lại ưu ái con người này đến vậy. Trong một thế giới đầy những hoài nghi, lãnh cảm và sự sùng bái khoa học kỹ thuật như thời nay, một người vừa rất thực tế, vừa có khả năng lay động hồn người như Giáo chủ Thị thần đúng là tương lai của giáo hội.
Lúc này, những lời nói của Giáo chủ Thị thần càng trở nên mạnh mẽ hơn.
- Các người nói rằng khoa học sẽ cứu rỗi chúng ta. Còn ta lại cho rằng chính khoa học sẽ tiêu diệt chúng ta. Từ thời Galileo, Giáo hội đã ra sức ngăn cản những bước tiến tàn nhẫn của khoa học, đôi khi bằng những phương thức sai lầm nhưng với một mục đích cao cả và từ bi. Bất chấp điều đó, sức cám dỗ của khoa học quá lớn, và con người không thể chiến thắng được nó. Các người hãy nhìn lại mà xem, khoa học có giữ lời hứa đâu. Hứa hẹn về sự đơn giản và hiệu quả, nhưng khoa học lại đẻ ra sự hỗn loạn và ô nhiễm. Chúng ta, một loài vật điên loạn và cô đơn, đang bước trên con đường tuyệt diệt.
Giáo chủ Thị thần ngừng lại giây lát, mắt hướng thẳng vào ống kính máy quay.
- Đức Chúa Khoa học này là thế nào? Chúa gì mà chỉ mang lại cho con người sức mạnh, nhưng không ban cho nhân loại một quy tắc đạo đức về cách thức sử dụng sức mạnh đó? Chúa nào mà đưa cho một đứa trẻ ngọn lửa để chơi, nhưng lại không cảnh báo nó về những nguy hiểm của trò chơi đó? Ngôn ngữ của khoa học không đề cập đến cái tốt và cái xấu. Những cuốn sách giáo khoa về khoa học tự nhiên dạy người ta cách chế tạo bom nguyên tử nhưng lại không có bất cứ chương nào bàn xem đặc tính của nó là tốt hay xấu.
Ta xin tuyên bố với giới khoa học rằng nhà thờ đã mệt mỏi rồi. Sau bao nhiêu nỗ lực để nhắc nhở về cái tốt và cái xấu, Giáo hội đã kiệt sức. Các nguồn lực của chúng ta đã cạn sau những chiến dịch để trở thành đối trọng cho những cố gắng của các người nhằm tạo ra những con chíp nhỏ hơn nữa, và những khoản lợi nhuận lớn hơn nữa. Chúng ta đã tự hỏi tại sao khoa học không thể tự kiềm chế bản thân nó, nhưng làm sao các người có thể làm được điều đó? Thế giới của các người tiến bộ nhanh đến nỗi nếu bất kỳ kẻ nào dừng lại để cân nhắc những hệ luỵ từ phát kiến của chính mình thì sẽ bị kẻ khác qua mặt ngay lập tức. Thế là các người cứ tiến về phía trước. Các người tạo ra những loại vũ khí giết người hàng loạt, để rồi chính Đức Thánh Cha phải đi khắp thế giới để khuyên nhủ các nhà lãnh đạo cố gắng kiềm chế.
Các người tạo ra các mầm sống trong ống nghiệm, để rồi nhà thờ lại phải nhắc các người về những tác động đạo đức của phát kiến ấy. Các người khuyến khích nhân loại liên lạc bằng điện thoại di động, máy tính, màn hình video, để rồi chỉ có nhà thờ mở rộng cửa và nhắc nhở các con chiên của mình hãy giao tiếp với nhau theo đúng cách mà đáng ra phải luôn luôn như thế. Các người thậm chí còn nhân danh y học để giết hại những mầm sống chưa chào đởi, để rồi Giáo hội lại phải chỉ ra tính nguỵ biện trong những luận cứ ấy.
Và các người cũng luôn cho rằng Giáo hội là dốt nát. Nhưng kẻ thực sự dốt nát là ai đây? Là người không thể định nghĩa được sấm chớp, hay là kẻ không biết kính trọng sức mạnh vĩ đại của hiện tượng ấy? Giáo hội luôn mở rộng lòng đối với các người, và với toàn nhân loại, thế nhưng chúng ta càng mở rộng lòng, thì các người càng đẩy chúng ta ra xa hơn nữa. Các người đòi hỏi phải có bằng chứng để chứng minh rằng có Chúa. Các người hãy dùng kính viễn vọng mà nhìn lên trời, chẳng thể thấy Chúa ở đó đâu! - Lúc này, hai mắt Giáo chủ Thị thần đã nhoà lệ. - Các người chất vấn là diện mạo của Chúa trông thế nào? Ta xin hỏi các người, câu hỏi đó xuất phát từ đâu? Câu trả lời chỉ có một mà thôi. Trong khoa học, các người không thấy Chúa đâu đúng không? Làm sao các người lại có thể không thấy Người cơ chứ! Các người tuyên bố rằng chỉ một thay đổi rất nhỏ của trọng lực hay trọng lượng một nguyên tử cũng có thể khiến cho toàn thể vũ trụ này biến thành một hoang mạc không sự sống, thay vì cả một thế giới vô cùng phong phú như chúng ta đang có hiện nay, chẳng lẽ các người không nhận ra rằng đó là nhờ bàn tay của Chúa sao? Như thế chẳng phải dễ dàng hơn nhiều so với cách giải thích rằng đó là một phần triệu xác suất may mắn hay sao? Chẳng lẽ tâm hồn các người đã trở nên cằn cỗi đến mức đặt trọn niềm tin vào một điều không thể xảy ra trên nguyên lý toán học thay vì tin vào một sức mạnh lớn lao hơn bản thân loài người?
- Bất kể các người có tin vào Chúa hay không, - Giáo chủ Thị thần hạ giọng từ tốn, - có một điều mà các người chắc chắn phải tin. Khi nhân loại từ bỏ niềm tin vào một thế lực lớn lao hơn bản thân chúng ta, thì chúng ta cũng đã từ bỏ ý thức tự chịu trách nhiệm. Đức tin… Tất cả mọi đức tin… đều răn dạy con người về một thế lực mà chúng ta không thể thấu hiểu, một thế lực luôn dõi theo từng hành động của chúng ta… Có đức tin, chúng ta sẽ chịu trách nhiệm trước chính bản thân mình và trước một đấng tối linh cao cả. Có thể tôn giáo còn nhiều thiếu sót, nhưng chẳng qua đó là vì bản thân loài người cũng không thể hoàn thiện. Nếu các người cũng nhìn Giáo hội với con mắt giống như ta… không chấp nhặt những nghi lễ đằng sau những bức tường này… thì các người sẽ thấy có phép nhiệm màu ngay giữa thời hiện đại… một tập hợp những linh hồn giản dị và không hoàn thiện nhưng sẵn lòng cất lên tiếng nói vị tha và yêu thương giữa một thế giới đang trượt ra ngoài vòng kiểm soát của bản thân nhân loại.
Giáo chủ Thị thần đang tay chỉ Hồng y đoàn. Theo bản năng, người kỹ thuật viên hình ảnh của BBC cũng lia máy theo, quay toàn bộ những người đang có mặt trong nhà nguyện.
- Chúng ta có lỗi thời không? - Giáo chủ Thị thần đặt câu hỏi. Những vị ngồi đây có phải là loài khủng long hay không? Ta có phải là khủng long không? Liệu thế giới này có cần một tiếng nói bênh vực cho những kẻ nghèo hèn, yếu ớt, những kẻ bị áp bức, những sinh linh không được chào đời? Liệu thế giới này có cần những người như chúng ta, dù không phải lúc nào cũng hoàn thiện, nhưng sẵn lòng hiến dâng cả cuộc đời để nhắc nhở nhân loại hãy lắng nghe lương tâm mình, để đừng bị lạc lối?
Lúc này thì Hồng y Mortati đã nhận ra rằng, không biết vô tình hay hữu ý, Giáo chủ Thị thần đã đưa ra một quyết định xuất sắc. Bằng cách để các Hồng y xuất hiện, Giáo hội đã được nhân cách hoá. Thành Vatican không còn đơn thuần là một công trình, mà nó là những con người - giống như chính bản thân Giáo chủ Thị thần, người đã dành cả cuộc đời để phụng sự cái tốt.
- Đêm nay, chúng ta đang đứng bên bờ vực thẳm, Giáo chủ Thị thần nói tiếp - Không một ai trong chúng ta có thể thờ ở trước tình huống này. Dù các người có gọi tên chúng là quỷ Sa-tăng, - sự đồi bại, hay sự vô đạo, thì những thế lực đen tối vẫn đang tồn tại và phát triển từng giờ từng phút. Đừng thờ ở với điều đó!
Giáo chủ Thị thần hạ thấp giọng, gần như là thì thầm, và người kỹ thuật viên hình ảnh tiến sát lên một chút:
- Thế lực này, dù rất mạnh, nhưng không phải là vô địch. Cái tốt sẽ chiến thắng. Hãy lắng nghe trái tim mình. Hãy lắng nghe giọng nói của Chúa. Hãy sát cánh bên nhau, chúng ta có thể tránh được vực thầm này.
Đến giờ thì Hồng y Mortati đã hiểu. Hoá ra đây chính là lý do Mật nghị Hồng y đã bị cắt ngang, nhưng đây đúng là cách duy nhất. Đây là lời cầu cứu tuyệt vọng và khẩn thiết. Giáo chủ Thị thần đang hướng tới cả kẻ thù lẫn bằng hữu. Vị thầy tu này đang khẩn khoản kêu gọi tất cả, cả bằng hữu lẫn kẻ thù, hãy nhận ra chân lý và dừng ngay hành động điên rồ này. Chắc chắn trong số những người đang xem truyền hình trực tiếp, sẽ có người hiểu ra và ra tay hành động.
Giáo chủ Thị thần quỳ trước bàn thờ chúa.
- Chúng ta hãy cùng cầu nguyện.
Toàn thể Hồng y đoàn cùng quỳ xuống và hướng về bàn thờ Chúa. Ngoài kia, trên quảng trường St. Peter, trên khắp địa cầu… toàn thể nhân loại đang quỳ xuống cùng với họ.
--95--
Đặt cô gái đang bất tỉnh nằm sóng soài ở sau xe hòm, tên sát thủ dành một chút thời gian để chiêm ngưỡng chiến lợi phẩm của mình. Không đẹp bằng những cô gái mà hắn vẫn dùng tiền để mua, nhưng cô gái này có một sức mạnh rất hoang dại, khiến hắn thấy vô cùng phấn khích. Nước da sáng, thân thể ướt đẫm mồ hôi. Có mùi thơm của xạ hương.
Mải chiêm ngưỡng phần thưởng của mình, tên sát thủ quên hẳn vết đau ở tay. Vết bầm dập do bị cỗ quan tài bằng đá chèn lên, dù rất đau, nhưng chẳng có gì đáng kể… phần thưởng này đã bù lại tất cả. Hắn tự an ủi bản thân rằng tay người Mỹ kia chắc giờ đã chết hẳn rồi.
Trân trân nhìn tù nhân của mình, tên sát thủ mường tượng những gì sẽ diễn ra. Hắn lùa tay vào dưới vạt áo sơ mi của cô gái. Bầu ngực quả là hoàn hảo. Hay lắm, hắn cười mỉm. Cô em đáng đồng tiền bát gạo lắm đây. Cố kiềm chế ý muốn chiếm đoạt cô gái ngay lập tức, hắn đóng thùng xe lại, nổ máy phóng vụt đi trong đêm tối.
Không cần phải báo cho cánh báo chí về vụ hành quyết này… ngọn lửa sẽ thay hắn làm việc đó.
o O o
Tại CERN, Sylvie sững sờ nghe những lời phát biểu của Giáo chủ Thị thần. Là một tín đồ Cơ đốc, chưa bao giờ chị thấy tự hào đến thế. Là nhân viên của CERN, cũng chưa bao giờ chị cảm thấy xấu hổ đến mức này. Rời khỏi khu giải trí, chị thấy tất cả các phòng đều chung một bầu không khí nặng nề và buồn bã. Sylvie quay lại văn phòng của Kohler, tất cả bảy máy điện thoại đều đang đổ chuông. Điện thoại của báo chí không bao giờ được nối máy tới văn phòng của Kohler, nên chắc chắn những cuộc gọi này là vì cùng một lý do.
Vì tiền.
Kỹ thuật phản vật chất đã có người mua.
o O o
Trong thành Vatican, Gunther Glick như đang đi trên mây. Anh đang theo Giáo chủ Thị thần ra khỏi nhà nguyện Sistine. Glick và Macri vừa làm một buổi truyền hình trực tiếp để đời. Quả là một chương trình tuyệt vời. Giáo chủ Thị thần quả là một nhà hùng biện tài ba.
Ra ngoài hành lang, Giáo chủ Thị thần quay sang bảo Glick và Macri:
- Ta đã yêu cầu lính gác Thuỵ Sĩ chuẩn bị sẵn ảnh cho anh - ảnh các vị Hồng y bị đóng dấu sắt nung, cả ảnh của Đức Thánh Cha đã tạ thế nữa. Ta phải báo trước cho anh biết là những bức ảnh này không được dễ chịu lắm đâu. Những dấu sắt nung trông rất khủng khiếp. Những cái lưỡi đen sì. Nhưng ta muốn nhờ anh phát những bức ảnh đó đi cho cả thế giới được thấy.
Glick cảm tưởng như ngày lễ Giáng sinh đang kéo dài vĩnh viễn trong thành Vatican. Giáo chủ Thị thần yêu cầu mình phát đi những bức ảnh độc quyền chụp cố Giáo hoàng thật sao?
- Cha thực sự muốn làm điều đó ạ? - Glick hỏi, cố không để lộ sự phấn khích trong lòng.
Giáo chủ Thị thần gật đầu:
- Lính gác Thuỵ Sĩ cũng sẽ cung cấp cho anh hình ảnh camera của hộp phản vật chất đang đếm ngược thời gian.
Glick trợn tròn mắt. Giáng sinh! Giáng sinh! Giáng sinh!
- Illuminati sẽ nhanh chóng phát hiện ra rằng chúng đã cường điệu hoá khả năng của bản thân. - Giáo chủ Thị thần tuyên bố.
--96--
Giống như điệp khúc của một bản giao hưởng hãi hùng, bóng tối ngột ngạt lại một lần nữa quay trở lại.
Không có ánh sáng. Không có dưỡng khí. Không có lối ra.
Nằm trong cỗ quan tài đá lộn ngược, Langdon thấy tâm trí mình đang ở sát mép vực thẳm. Để kéo những suy nghĩ trong đầu khỏi bầu không gian chật hẹp và ngột ngạt xung quanh, Langdon ép mình phải nghĩ về toán học, âm nhạc hay bất kỳ thứ gì. Nhưng những ý nghĩ an lành không thể nảy nở nổi. Mình không thở được! Mình không cử động được!
May mắn là bên tay áo bị kẹt đã tuột được ra khi cỗ quan tài đổ sập hẳn xuống, lúc này Langdon có thể sử dụng cả hai cánh tay. Tuy thế, khi Langdon lấy cả hai tay đẩy mạnh, cỗ quan tài vẫn không hề suy chuyển. Quả là kỳ quặc, lúc này anh ước gì cánh tay trái lại bị kẹt như lúc trước. Ít ra thì còn có không khí để mà thở.
Giơ hai tay định đẩy thêm một lần nữa, Langdon chợt trông thấy anh bạn chuột Mickey đang phát sáng. Khuôn mặt màu xanh của chú chuột trong phim hoạt hình như đang chế giễu anh.
Langdon nhìn kỹ khắp cỗ quan tài để xem có luồng sáng nào không nhưng mép đá phẳng lỳ ăn sát xuống sàn nhà. Chủ nghĩa toàn mỹ kiểu Ý chết tiệt, anh thầm nguyền rủa. Giờ đây, Langdon đang bị đẩy vào tình thế hiểm nghèo, chính bởi sự hoàn mỹ trong nghê thuật mà anh vẫn dạy sinh viên của mình phải kính nể… những bờ mép hoàn hảo, những đường thẳng song song tuyệt đối và dĩ nhiên, trên một chất liệu duy nhất: đá hoa cương Carnara liền khối loại cứng nhất.
Sự chuẩn xác đến chết người.
Nhấc cái thứ quỷ quái này lên! - Langdon nói thành tiếng, tay cố đẩy mạnh hơn nữa. Cỗ quan tài hơi di chuyển chút xíu.
Nghiến răng, anh lại dẩy một lần nữa. Nặng kinh khủng, nhưng lần này nó nhích lên được khoảng nửa phân. Một luồng sáng le lói xuất hiện quanh Langdon, rồi cái hộp đá lại nhanh chóng rơi phịch xuống. Trong bóng tối, Langdon nằm thở hổn hển. Anh thử dùng hai chân để đẩy lên, nhưng lúc này cỗ quan tài đã nằm ngang hẳn xuống, chẳng còn chỗ để co chân lên.
Rồi cảm giác sợ bị giam hãm bủa vây lấy anh, Langdon nghĩ đến cảnh cỗ quan tài đá thu nhỏ lại và vây kín lấy bản chân mình. Kinh hãi, Langdon ráng sức huy động toàn bộ lý trí để xua đi hình ảnh kinh hoàng đó.
"Cỗ quan tài đá". Langdon nói lên thành tiếng bằng tất cả sự dõng dạc và minh mẫn anh có thể huy động được. Nhưng hôm nay, cả đến học vấn cũng trở thành kẻ thù. Từ này bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp, nghĩa gốc của nó trong tiếng Hi Lạp là "cái hộp ăn thịt". Mình đang bị kẹt trong một "cái hộp ăn thịt".
Những mường tượng về cái hộp sẽ ăn hết thịt và để lại bộ khung xương khiến anh càng nhớ đến bộ khung xương đang nằm ngổn ngang quanh anh. lúc này. Nghĩ đến sự thật đó, Langdon thấy buồn nôn và kinh hãi. Nhưng nó cũng khiến anh nảy ra một ý tưởng.
Quờ quạng, mò mẫm trong cỗ quan tài, Langdon tìm được một mầu xương. Có phải xương sườn không nhỉ? Chẳng cần quan tâm. Anh đang cần một cái nêm. Nếu có nhấc được cái hộp đá này lên chút xíu, rồi chêm khúc xương này vào, thì sẽ có đủ không khí để…
Vòng tay qua người, xếp đầu nhọn của khúc xương vào đúng chỗ cái khe giữa quan tài và nền đá, Langdon dùng tay kia ra sức chống mạnh lên. Cỗ quan tài không suy chuyển chút nào. Anh cố thêm một lần nữa. Trong tích tắc, hình như cái hộp đá nhúc nhích chút xíu. nhưng tất cả chỉ có thế.
Thiếu khí ôxi, lại phải chịu đựng mùi hôi thối nồng nặc, Langdon biết anh chỉ còn đủ thời gian để cố thêm một lần nữa.
Và cần phải dùng cả hai tay.
Lần này, Langdon gài sẵn đầu nhọn của khúc xương vào chỗ cái khe, dịch người sát vào, dùng vai để đẩy khúc xương. Thận trọng để khúc xương khỏi văng đi mất, anh giơ cả hai tay lên. Bắt đầu thấy ngạt thở, Langdon chợt thấy sợ hãi. Lần thứ hai trong cùng một ngày, anh không có đủ dưỡng khí để thở. Hô to một tiếng, Langdon ráng hết sức đẩy hai tay thật mạnh. Cỗ quan tài bị đẩy cao lên trong một tích tắc. Nhưng thế là đã đủ. Anh đã dùng vai đẩy được khúc xương vào dưới mép đá. Khi cỗ quan tài rơi phịch xuống, mẩu xương vỡ vụn ra. Nhưng dù sao mép quan tài cũng đã bị chống lên chút xíu. Một luồng sáng yếu ớt chiếu xiên vào cạnh Langdon:
Kiệt sức, anh nằm vật ra. Hy vọng cảm giác nghèn nghẹt ở cổ họng sẽ hết dần, anh kiên nhẫn đợi. Nhưng mỗi lúc cảm giác khó chịu đó càng mạnh thêm. Dù không khí có thể lọt qua cái khe, nhưng vẫn là quá ít. Không hiểu lượng dưỡng khí ít ỏi này có thể giúp anh tồn tại được không? Nếu được thì sẽ là bao lâu? Nếu anh không sống được, liệu có ai biết anh nằm ở đây hay không?
Hai cánh tay nặng như chì, Langdon cố xem đồng hồ: 10 giờ 12 phút. Cố giữ cho ngón tay khỏi run, Langdon nỗ lực thêm một lần nữa. Anh xoay một núm, rồi nhấn một nút. Đầu óc bắt đầu mụ đi, những bức tường đá xung quanh như thu hẹp lại, Langdon lại trải qua cảm giác kinh hãi thuở còn bé.
Như bao lần trước, anh cố tưởng tượng rằng mình đang ở ngoài bãi trống. Hình ảnh ấy hiện ra trong óc, nhưng chẳng có tác dụng gì. Cơn ác mộng ám ảnh anh từ thuở bé bỗng chốc quay trở lại…
Hoa đẹp như tranh vẽ, cậu bé nghĩ thầm, vừa cười vừa chạy băng qua thảm cỏ. Cậu nghĩ giá có bố mẹ đi cùng thì thật là tuyệt nhưng bố mẹ còn đang bận cắm trại.
Con đừng đi xa quá đấy nhé! - Mẹ chú dặn.
Chú bé tảng lờ như không nghe thấy lời mẹ dặn..
Chạy qua thảm cỏ thần tiên, cậu bé đến bên một đống đá xếp chồng lên nhau. Chắc là của một trang trại cũ. Không nên đến gần chỗ đó. Chú biết thế. Vả lại ánh mắt chú bé đã bị hút vào một bông hoa đồng nội tuyệt đẹp - giống hoa đẹp nhất và hiếm nhất ở New Hampshire mà chú chỉ mới được thấy trong sách mà thôi.
Trong tâm trạng đầy phấn khích cậu bé đến gần cây hoa và quỳ xuống. Mặt đất xốp và mềm. Hoá ra cây hoa này đã chọn được một chỗ đẩt rất màu mỡ. Nó mọc lên giữa một đám cây mục.
Háo hức với ý tưởng được mang bông hoa đẹp này về nhà, chú bé chìa tay ra… những ngón tay bé nhỏ vươn ra để chạm vào thân cây.
Nhưng chú không thể nào lưới tới được.
Nghe có tiếng nứt gẫy răng rắc, đất thụt xuống.
Trong ba giây đồng hồ khủng khiếp, lúc bị ngã nhào xuống, chú biết mình sẽ phải chết. Bị ngã lộn nhào, cậu bé tưởng sẽ bị va đập mạnh đến gãy xương, nhưng hoá ra chẳng hề đau đớn chút nào. Chỉ có cảm giác mềm mại.
Và lạnh.
Chú ngã vục mặt xuống vũng chất lỏng lạnh giá và tối tăm đó. Cuộn mình, quẫy đạp lung tung, chú sờ thấy xung quanh chỗ nào cũng là tường dựng đứng. Theo bản năng, chú bé ngóc đầu lên.
Ánh sáng.
Rất yếu ớt. Từ trên toả xuống. Dường như từ cách xa hàng dặm.
Hai tay chú bé khua khua trong làn nước lạnh, cố tìm một cái gờ hay mấu nào đó để bám vào, nhưng chỉ thấy toàn đá trơn tuột. Hoá ra chú bé đã ngã xuống một cái giếng nước bỏ hoang. Chú gào to kêu cứu nhưng chỉ nghe thấy tiếng vọng dội từ trong lòng giếng sâu hun hút. Chú bé gọi mãi, gọi mãi. Trên cao, cái miệng giếng nham nhở tối dần.
Đêm xuống.
Trong bóng tối, thời gian như kéo dài vô tận. Lạnh quá, chú bé vẫn đạp chân để giữ cho người nổi lên, chú gào khóc và kêu cứu. Mường tượng cảnh những bức tường xung quanh đổ ụp xuống đầu, chôn sống mình, chú cảm thấy thật kinh hãi. Hai cánh tay mỏi nhừ. Mấy lần cảm tưởng như nghe thấy tiếng người, cậu bé gọi thật to, nhưng chỉ phát ra được những tiếng kêu tắc nghẹn… như trong một cơn ác mộng.
Đêm về khuya, cái giếng như càng sâu thêm. Những bức tường như tiến sát vào nhau. Cậu bé cố đẩy người ra xa bức tường. Kiệt sức! Suýt nữa cậu bé đã đầu hàng. Nhưng mặt nước như đang đỡ lấy chú, làm dịu đi cơn hoảng loạn điên cuồng, cho đến khi toàn thân chú bé lạnh cóng.
Khi đội cứu hộ đến, chú bé gần như đã bất tỉnh. Chú bé đã quẫy đạp trong nước liên tục 5 giờ đồng hồ. Hai ngày sau, tờ Boston Globe chạy trên trang nhất một hàng tít lớn: "Thần đồng bơi lội bé nhỏ và dũng cảm".
--97--
Tên sát thủ mỉm cười đánh xe vào một toà nhà xây bằng đá trông ra dòng sông Tiber. Hắn mang cô gái lên cao… đi dọc theo một đường hầm xây bằng đá. May mà cô gái có vóc người mảnh khảnh.
Hắn đã đến bên cánh cửa.
Đền thờ ánh sáng, hắn lầm bầm. Phòng họp cổ xưa của hội Illuminati. Làm sao có thể ngờ được rằng nó ở ngay chỗ này cơ chứ.
Vào bên trong, hắn đặt cô gái lên một cái tràng kỷ bọc da sang trọng. Rất thành thục, hắn trói chặt hai tay cô gái ra sau lưng, rồi trói hai cổ chân lại. Những gì hắn thèm khát sẽ phải hoãn lại đến khi mọi việc được hoàn tất. Nước.
Nhưng hắn vẫn có thể tự dành cho mình chút xíu thời gian, tên sát thủ thầm nghĩ. Quỳ xuống bên cô gái, hắn vuốt ve cặp đùi thon dài và mềm mại. Bàn tay hắn lần lên cao hơn. Những ngón tay đen đúa lần lên trên gấu quần soóc. Cao hơn nữa.
Rồi hắn dừng phắt lại. Phải kiên nhẫn, chợt tỉnh ra, hắn tự nhắc nhở bản thân. Phải làm xong việc trước đã.
Hắn bước ra ngoài ban công mát rượi. Làn gió đêm nhanh chóng làm dịu đi cơn thèm khát man dại trong hắn. Tít dưới kia, sông Tiber vẫn đang chảy xiết. Hắn ngước nhìn mái vòm của Đại thánh đường St. Peter, cách hắn khoảng ba phần tư dặm, hiện ra rõ mồn một trong ánh sáng phát ra từ hàng trăm máy quay.
- Giờ khắc cuối cùng đã tới. - Hắn nói to thành tiếng, trong lòng nghĩ tới hàng ngàn chiến binh Hồi giáo đã bị sát hại trong cuộc Thập tự chinh. - Đêm nay, các vị sẽ được đoàn tụ với Chúa của mình.
Sau lưng hắn, cô gái bắt đầu cựa quậy. Tên sát thủ quay lại. Hắn cân nhắc xem có nên để cô gái thức dậy hay không. Nỗi khiếp đảm trong ánh mắt của phụ nữ luôn là liều thuốc kích dục tuyệt vời nhất đối với hắn.
Nhưng hắn chọn giải pháp chắc chắn hơn. Tốt nhất là cứ để cho cô gái nằm bất tỉnh trong khi hắn đi vắng. Dù cô gái đã bị trói chặt và không thể nào trốn thoát được, nhưng hắn không muốn để cho con mồi của mình mệt lả đi vì giãy giụa quá nhiều. Ta muốn cô em khỏe mạnh… để ta còn thưởng thức.
Nhẹ nhàng nâng đầu cô gái lên, hắn lần ngón tay tìm chỗ hõm ngay dưới xương sọ. Hắn đã từng điểm vào huyệt đạo kiểu này nhiều lần rồi. Với sức mạnh của loài mãnh thú, hắn nhấn ngón tay vào lớp xương sụn mềm, rồi ấn mạnh xuống. Cô gái nằm vật ra ngay lập tức. 20 phút thôi mà, hắn thầm nghĩ. Con mồi này sẽ là một kết thúc hoàn hảo cho một ngày tuyệt vời. Sau khi thưởng thức cô gái, chứng kiến cô ta chết ngay trên tay mình, hắn sẽ bước ra ban công để thưởng ngoạn pháo hoa trên bầu trời Vatican.
Để con mồi nằm nguyên trên đi-văng, hắn xuống cầu thang, bước vào một căn phòng tối tăm, chỉ có một cây đuốc duy nhất toả sáng. Nhiệm vụ sau cùng. Hắn bước tới bên bàn, kính cần nhìn con dấu thiêng bằng sắt đã được để sẵn ở đó.
Nước. Con dấu sau cùng.
Như ba lần trước, hắn rút cây đuốc trên tường; nung cho con dấu nóng đỏ lên. Khi toàn bộ con dấu đã nóng đỏ, hắn bước vào trong ngục.
Một người đang đứng yên lặng: Già nua và cô độc.
- Này Hồng y Baggia. - Hắn rít lên - Ông đã cầu nguyện chưa đấy?
Đôi mắt của vị Hồng y già người Ý không chút sợ hãi:
- Ta đã cầu nguyện cho linh hồn của ngươi đấy!
