J. K. Rowling
THỨ TƯ
I
Sau trận cãi vã ầm ĩ với bà mẹ, suốt đêm thứ Hai và thứ Ba, Krystal qua đêm trên sàn phòng ngủ con bạn Nikki. Hôm đó khi đi với bạn về, Krystal thấy mẹ đang nói chuyện với Obbo trên ngưỡng cửa. Dân khu Fields chẳng ai lạ gì cái gã Obbo mặt phị ra vẻ hiền lành với nụ cười phô hàm răng thưa, cặp đít chai và cái áo khoác da bẩn thỉu cũ rích.
- Cho để nhờ đống đó vài ngày nhá, Ter? Rồi cánh đây sẽ có tí chút cảm ơn, nhá?
- Mẹ tui giữ giùm cái gì? - Krystal gặng hỏi. Robbie luồn qua chân mẹ bò lại bám chặt lấy đầu gối chị. Robbie không hề thích có đàn ông đến nhà. Nó dè chừng như thế là có lý do.
- Gì đâu. Máy tính ấy mà.
- Đừng cho đó. - Krystal cảnh báo mẹ.
Nó không muốn mẹ cầm tiền mặt. Mà chắc hẳn gã Obbo sẽ trả thẳng cho mẹ nó bằng tép thuốc cho đỡ mất công mẹ nó cầm tiền rồi cũng đem đổi khói.
- Đừng có nhận.
Nhưng Terri đã đồng ý. Suốt đời Krystal đã thấy mẹ mình gật đầu với bất kỳ ai, trước bất kỳ việc gì: lúc nào cũng đồng tình, chấp nhận, ưng chịu: Ờ, được, cứ thế đi, vậy đi, chuyện vặt ấy mà.
Lúc tối, Krystal đi tụ tập với đám bạn ở chỗ xích đu. Nó đang bồn chồn cáu kỉnh. Con bé vẫn không hoàn toàn ý thức về cái chết của Fairbrother nhưng cứ thấy ruột gan quặn cả lên, chỉ muốn tìm đứa nào mà trút cho hả. Nó cũng bứt rứt hối hận vì đã chôm cái đồng hồ của cô Tessa Wall. Nhưng mà sao cô ta lại đặt đồng hồ ngay trước mặt Krystal mà nhắm mắt lại? Cô ta còn mong nó làm gì khác cơ chứ?
Đi chơi với bạn cũng không đỡ hơn. Jemma cứ chọc ghẹo nó với Fats Wall, cuối cùng Krystal phát khùng xông vào tính cho con nhỏ một trận, Nikki với Leanne phải giữ nó lại. Đã thế khi bổ về nhà, Krystal gặp ngay đống máy vi tính của Obbo chất chồng trong đó. Robbie đang bò lên đống hộp đặt ở phòng trước, trong khi Terri lơ mơ ngồi đó, “đồ nghề” vừa dùng lăn lóc trên sàn. Đúng như Krystal lo sợ, gã Obbo trả công cho mẹ nó bằng một túi heroin.
- Sao mà ngu thế không biết, bọn nó tống ra khỏi trung tâm cai nghiện lần nữa bây giờ.
Nhưng heroin đã đưa mẹ nó tới cõi nào xa lắc rồi, dù chị ta cũng lèm bèm chửi lại cô con gái là con điếm con thối tha. Krystal xông đến tát vào mặt mẹ nó. Terri lập tức rủa xả mong nó chết đi cho rảnh nợ.
- Đồ bò cái nghiện ngập kia, phải trông coi cho tốt cái thằng này mới có cơ thay đổi được chứ, mẹ nó! - Krystal gào lên. Robbie cũng ré lên chạy ra hành lang theo chị, nhưng con bé đã đóng sập cửa trước sau lưng.
Krystal thích nhà Nikki nhất. Chỗ đó không gọn gàng bằng nhà bà cố nội Nana Cath nhưng thân thiện, lại thoải mái và ồn ào tấp nập hơn. Nikki có hai anh em trai và một chị, nên Krystal ngủ trên tấm nệm gấp đặt giữa giường hai chị em. Tường phòng dán đầy tranh ảnh trai xinh gái đẹp cắt ra từ tạp chí. Krystal chưa bao giờ nghĩ tới chuyện trang trí tường phòng ngủ của mình.
Con bé bắt đầu thấy cắn rứt, nó hãy còn nhớ vẻ mặt sợ hãi của thằng Robbie khi nó sập cửa, thế là nó mò về nhà sáng thứ Tư. Dù sao thì nhà Nikki cũng chẳng vui vẻ gì nếu nó ngủ quá hai đêm liền. Nikki từng nói thẳng rằng mẹ nó bảo thỉnh thoảng đến ngủ thì được, chứ Krystal không được lấy nhà bà làm chỗ trọ dài hạn và nhất là không được đến sau nửa đêm.
Terri thấy con gái về vui vẻ như không có gì. Nghe bà mẹ kể lể về vụ nhân viên xã hội mới đến thăm, Krystal lo lắng không biết người ta nghĩ gì về căn nhà bây giờ còn bẩn thỉu tàn tệ hơn thường lệ nữa. Nó sợ nhất là Kay phát hiện ra Robbie ở nhà trong khi đáng ra phải ở trường, vì khi trước Terri từng cam kết tiếp tục cho Robbie đi nhà trẻ. Thằng bé từ hồi ở với mẹ nuôi đã bắt đầu đi học rồi, đây cũng là điều kiện then chốt phải đáp ứng để đưa được thằng bé về nhà hồi năm ngoái. Con bé cũng tức điên vì để nhân viên xã hội thấy Robbie đeo tã, dù Krystal đã mất bao nhiêu công sức dạy nó dùng nhà vệ sinh.
- Thế mụ ấy nói gì? - Krystal hỏi gặng mẹ.
- Nói còn quay lại. - Terri đáp.
Krystal có linh cảm xấu. Người nhân viên xã hội cũ có vẻ chấp nhận để mặc cho nhà Weedon tự xoay xở mà không can thiệp gì mấy. Cô ta làm việc mù mờ chẳng có kế hoạch gì, nhớ sai tên người trong nhà, còn nhầm nhà nó với đối tượng hỗ trợ khác. Cứ hai tuần cô ta lại xuất hiện chẳng có mục đích gì rõ ràng, chỉ cốt xem thử thằng Robbie còn sống không.
Chuyện phiền toái này làm Krystal cáu kỉnh. Khi tỉnh táo, Terri có phần hơi sợ lúc con gái nổi điên và để mặc cho con bé dắt mũi. Krystal tận dụng tối đa uy quyền tạm thời này bắt mẹ phải mặc quần áo cho tử tế, cho thằng Robbie tháo tã thay quần sạch, dặn nó không được tè ra quần và điệu nó đi nhà trẻ. Thằng bé gào thét khi chị bỏ về, lúc đầu con chị quát tháo nhặng xị, nhưng cuối cùng cũng cúi xuống hứa sẽ quay lại đón em sớm, và nó chịu để chị về.
Thế là hôm nay Krystal lại trốn học, dù thứ Tư vốn là ngày nó thích nhất vì có tiết thể dục và giờ tư vấn định hướng. Con bé lau dọn sơ sơ nhà cửa, vẩy bừa nước tẩy uế mùi gỗ thông khắp bếp, vứt hết đồ ăn cũ và đầu thuốc vào thùng rác. Nó giấu biến hộp đựng bánh biscuit Terri dùng đựng “đồ nghề” chơi thuốc và cố đẩy mấy thùng máy tính còn lại vào tủ hành lang (có ba máy đã được chở đi).
Vừa hì hụi cọ thức ăn thừa bám trên chồng đĩa bẩn, Krystal vừa miên man nghĩ tới đội chèo thuyền. Đúng ra đêm mai nó sẽ đi tập, nếu ông Fairbrother còn sống. Ông thường cho nó đi nhờ cả lượt đi lẫn về bằng xe nhà, vì nó không có cách gì tự đi tới con kênh đào tại Yarvil. Hai đứa con gái song sinh của ông ấy, Niamh và Siohan cùng Sukhvinder Jawanda cũng đi chung xe. Krystal không hay nói chuyện với ba đứa này trong trường, nhưng từ khi thành một đội, chúng luôn chào hỏi khi gặp nhau trên hành lang. Krystal chả mong mấy đứa ấy hạ cố chơi với nó, nhưng hóa ra khi biết nhau nhiều hơn thì bọn nó cũng O.K. Nó đùa thì cả bọn đều phá ra cười. Và bọn nó cũng xài vài từ lóng Krystal khoái. Nói theo cách nào đó, Krystal được xem như trưởng nhóm.
Nhà Krystal chẳng ai có xe hơi. Bây giờ nếu tập trung hồi tưởng, nó thậm chí ngửi thấy phảng phất cả mùi nội thất trong xe Barry bất kể mùi hôi trong căn bếp nhà mình. Nó thích cái mùi nhựa ấm áp ấy. Chắc chẳng bao giờ được trèo vào cái xe hơi nào nữa rồi. Có mấy lần cả bọn ngồi xe buýt thuê cỡ nhỏ do chính ông Fairbrother lái, thỉnh thoảng còn ngủ đêm lại khi đi thi đấu với trường xa. Cả bọn ngồi sau xe buýt, cùng gào bài “Umbrella” của Rihanna: bài này đã trở thành “bài ca may mắn” của cả đội, Krystal solo phần đọc rap của Jay-Z lúc đầu. Ông Fairbrother suýt tè ra quần khi nghe con bé hát lần đầu:
Uh huh uh huh, Rihanna...
Good girl gone bad, -
Take three –
Action.
No clouds in my storms
Let it rain, I hydroplane into fame
Comin’ down with the Dow Jones...
Cô gái ngoan một lần phóng túng
Đếm tới ba nhé.
Dzô nào.
Mây mù không vương cơn bão tôi
Sợ gì mưa rơi, tôi lướt đến huy hoàng danh tiếng
Lao dốc cùng Dow Jones...
Krystal chẳng hiểu thực sự bài hát muốn nói gì.
Thầy Wall “Tủ” gửi thư cho cả đội, thông báo hoãn họp và tập huấn cho đến khi tìm được huấn luyện viên mới. Nhưng mấy người đó có bao giờ bỏ công ra tìm đâu, nói dối hết; cả bọn đều biết thế.
Thế mà đội đã từng là “gà cưng” của Fairbrother. Hồi mới vào đội, Krystal bị Nikki và mấy đứa khác “chơi” đủ kiểu. Mấy trò nhạo báng ban đầu đầy vẻ coi thường, sau chuyển thành khâm phục vì đội thực sự đoạt được huy chương (Krystal bỏ huy chương vào cái hộp xoáy từ nhà Nikki. Con bé luôn thích “tạm thời bỏ túi” đồ đạc của những người nó thích. Một cái hộp nhựa có trang trí hoa hồng, hộp kho báu thực sự với một đứa trẻ. Chiếc đồng hồ của cô Tessa giờ cũng đang nằm trong đó.)
Cái hồi đánh bại mấy con ranh khinh khỉnh trường Thánh Anne mới khoái chứ! Hôm đó là ngày đỉnh nhất đời Krystal. Hôm sinh hoạt toàn trường sau đó, cô hiệu trưởng mời cả đội lên trước trường (Krystal hơi lúng túng, vì Nikki với Leanne cứ cười trêu nó) nhưng cả trường đều vỗ tay khen ngợi... Winterdown mà hạ được trường Thánh Anne thì đáng kể lắm chứ.
Nhưng giờ thì hết rồi, hết hẳn; những chuyến đi trên xe hơi, môn chèo thuyền lẫn cuộc phỏng vấn với tờ báo. Nó thích được lên báo lần nữa. Ông Fairbrother hứa nếu phỏng vấn thì ông sẽ đi kèm. Chỉ ông với nó.
- Thế họ sẽ hỏi cháu cái gì, ví dụ thôi?
- Cuộc đời cháu. Phóng viên muốn nghe về cuộc đời cháu.
Nghe cứ như mình là ngôi sao. Krystal không có tiền mua tạp chí nhưng cũng được xem báo ở nhà Nikki hay phòng đợi bác sĩ khi đưa thằng Robbie đi khám bệnh. Vụ này còn khủng hơn hồi lên báo với cả đội. Cứ tưởng tượng thôi là con bé đã sướng mê người, nhưng không hiểu sao nó giữ được miệng không khoe với Nikke hay Leanne. Nó muốn làm tụi bạn ngạc nhiên. Cũng may là chưa nói gì. Giờ thì khỏi mong lên báo lần nữa.
Trong lòng Krystal như hoác ra cái hố sâu. Nó gắng không nghĩ tới ông Fairbrother nữa khi đi quanh nhà lau dọn một cách miễn cưỡng nhưng đầy kiên trì, trong khi bà mẹ ngồi trong bếp hút thuốc và nhìn chằm chằm ra cửa sổ sau nhà.
Trước giờ trưa một lúc, một phụ nữ đỗ xịch chiếc Vauxhall xanh cũ kĩ trước nhà. Krystal nhìn thấy cô ta qua cửa sổ phòng ngủ Robbie. Bà khách có mái tóc đen cực ngắn, quần đen, vòng hột đeo cổ kiểu dân tộc, vai khoác chiếc túi to căng phồng giấy tờ.
Krystal lao xuống lầu.
- Hình như bà đó đấy. - Nó gọi bà mẹ đang ngồi trong bếp. - Nhân viên xã hội tới rồi.
Người phụ nữ gõ cửa, Krystal ra mở.
- Chào cháu, cô là Kay; cô thay cho cô Mattie. Cháu là Krystal phải không?
- Phải. - Krystal đáp cộc lốc, không buồn phí công cười đáp lại. Con bé dẫn cô vào phòng khách tồi tàn đã được dọn dẹp gọn ghẽ hơn. Gạt tàn trống trơn, hầu hết đồ đạc quẳng khắp sàn nay được chất lên mấy cái giá xiêu vẹo. Thảm vẫn bẩn như cũ vì máy hút bụi hỏng, cái khăn tắm và ống thuốc mỡ lăn lóc trên sàn, một chiếc xe hơi đồ chơi của Robbie cheo leo trên thành chậu nhựa. Vừa rồi Krystal phải cố lấy xe hơi dụ thằng Robbie để lau sạch đít cho nó.
- Robbie đi nhà trẻ rồi. - Krystal bảo Kay. - Tui đưa nó đi. Tui cho nó mặc quần rồi. Mẹ cứ cho nó mang tã suốt. Tui đã bảo là đừng làm vậy. Bôi kem vào đít nó rồi. Không sao đâu, hăm tã tí thôi.
Kay lại mỉm cười với con bé. Krystal ngó ra cửa gào lên: “Mẹ đâu rồi!”
Terri từ bếp đi ra. Chị ta mặc cái áo khoác bẩn thỉu cũ mèm và quần jean, mặc quần áo đầy đủ vào nom chị ta có vẻ khá hơn hôm trước.
- Chào Terri. - Kay lên tiếng.
- Ờ, tới đó hử? - Terri rít một hơi thuốc dài.
- Ngồi xuống đi. - Krystal ra lệnh, bà mẹ nghe theo, cuộn người trong đúng cái ghế hôm trước. - Cô muốn uống trà hay gì không? - Krystal hỏi.
- Có thì hay quá. - Kay cũng ngồi xuống, mở hồ sơ ra. - Cảm ơn cháu.
Krystal vội đi ra. Nó lóng tai nghe xem Kay nói gì với mẹ.
- Chắc chị không nghĩ tôi quay lại sớm thế Terri nhỉ. - Con bé nghe tiếng Kay (giọng cô này kỳ cục thật, như kiểu người London, giống giọng con nhỏ nhà giàu mới chuyển về mà phân nửa đám con trai trong trường đang say như điếu đổ). - Nhưng hôm qua, tôi thấy lo cho cháu Robbie quá. Nghe Krystal nói hôm nay cháu đi nhà trẻ lại rồi phải không?
- Ờ. - Terri đáp. - Nó đưa đi. Sáng nay nó mới về.
- Về à? Thế em nó đi đâu?
- Tui mới đi... mới qua nhà bạn ngủ nhờ chút thôi. - Krystal vội vàng chạy ra đáp tranh.
- Ờ, nhưng sáng nay nó về rồi. - Terri nói thêm.
Krystal quay lại trông ấm nước. Nước sắp sôi réo ầm ầm làm con bé chẳng nghe được mẹ với cô nhân viên xã hội nói gì nữa. Nó vội vội vàng vàng rót sữa ra cốc, bỏ thêm gói trà rồi mang ba cốc trà nóng hổi lên phòng khách đúng lúc nghe Kay nói -... hôm qua có nói chuyện với bà Harper bên nhà trẻ...
- Con mẹ quỷ cái. - Terri buông thõng.
- Của cô đây. - Krystal nói với Kay, đặt tách trà lên bàn, xoay quai cốc về phía cô.
- Cảm ơn cháu lắm. - Kay nói tiếp. - Terri này, bà Harper nói ba tháng rồi Robbie vắng nhiều lắm. Có thời gian không bao giờ đi học đủ cả tuần, phải không?
- Cái giề? - Terri lúng búng - àm gì có. Nó đi học chớ. Nghỉ bữa qua chớ mấy. Ví lại hồi bị đau họng.
- Cháu nó bệnh khi nào?
- Cái giề? Khoảng tháng.... Tháng rưỡi... độ đó.
Krystal ngồi xuống trên tay vịn chiếc ghế bà mẹ đang ngồi. Nó nhìn xuống Kay, mồm nhai kẹo cao su tòm tọp, tay khoanh trước ngực hệt như bà mẹ. Kay để tập hồ sơ dày trong lòng Krystal ghét mấy tập hồ sơ. Người ta ghi chép cả đống thứ về mình, tích trữ lại rồi dùng nó chống lại chính mình sau này.
- Tui sẽ đưa thằng Robbie đi nhà trẻ. - Con bé hứa. - trên đường đi học.
- Thế này nhé, bà Harper nói Robbie vắng mặt nhiều lắm. - Kay nhìn phần ghi chép khi nói chuyện với bà giám đốc nhà trẻ. - Terri này, vấn đề là năm ngoái, khi đón Robbie về, chị đã hứa sẽ cho con đi nhà trẻ.
- Mẹ nó... Tôi không... - Terri bắt đầu.
- Thôi mẹ im mồm đi. - Krystal quát. Con bé quay sang Kay. - Thằng nhỏ bị bệnh, thế, amiđan sưng vù lên, tui phải đưa nó đi bác sĩ chích kháng sinh.
- Khi nào?
- Thì mấy tuần nghỉ - khoảng đó, thế...
- Hôm qua khi tôi tới đây. - Kay tiếp tục quay sang bà mẹ (Krystal hùng hổ nhai kẹo, tay khoanh chặt như hàng rào bảo vệ), tôi thấy chị khó lòng đáp ứng được những nhu cầu của Robbie, Terri ạ.
Krystal liếc bà mẹ. Cặp đùi đang xoạc ra của con bé to gấp đôi đùi mẹ.
- Đâu có, tui không khi nào... - Terri đổi ý. - Nó có sao đâu.
Một mối nghi ngờ trùm lên tâm trí Krystal như bầy kền kền lượn tròn khi thấy xác chết.
- Terri, hôm qua khi tôi tới, chị vừa chơi thuốc phải không?
- Không, mẹ nó, không!... Mẹ bà cô..., tôi không chơi, nghe chưa?
Krystal thắt cả ngực, tai ù đi. Chắc hẳn gã Obbo không chỉ cho mẹ nó một tép mà cả đống. Mụ nhân viên xã hội này đã thấy mẹ chích. Lần tới khi đi thử máu ở trung tâm Bellchapel, chắc chắn mẹ sẽ dương tính, vậy thì họ sẽ đá bà ra khỏi chương trình lần nữa...
(... và nếu không được trị liệu bằng methadone, cả nhà sẽ lại rơi vào cơn ác mộng khi mà Terri đâm ra hung bạo cục súc và lại há cái mồm rụng răng liếm đít mấy gã qua đường để có thứ mà chích vào ven. Rồi Robbie sẽ lại bị đưa đi, lần này không trở lại nữa. Trái tim nhựa đỏ gắn vào móc chìa khóa của Krystal có lồng hình thằng bé hồi một tuổi. Con tim Krystal từng rung lên thực sự khi nó ra sức chèo, lướt tới, lướt tới trên mặt nước, cơ bắp cả người nó reo ca khi thấy đối thủ tụt về sau...)
- Đồ ngu! - Con bé gào lên, nhưng không ai nghe vì Terri còn đang gào thét vào mặt Kay. Cô này vẫn ngồi yên, tay cầm cốc trà.
- Mẹ bà nó, tui không chơi, cô đâu có bằng chứng...
- Con mẹ ngu ngốc. - Krystal gào to hơn.
- Tui không xài thuốc, bà nó, nói láo hết. - Terri rít lên như con thú vướng lưới vùng vẫy, chỉ càng khiến chính mình bị trói chặt hơn. - Tui không khi nào chơi, nghe chưa, tui không bao giờ...
- Người ta lại đá bà khỏi cái trung tâm đó thôi, nghe không con mẹ đần thối.
- Sao mày dám nói với con mẹ mày thế hả!
- Thôi đủ rồi. - Kay át giọng, đặt cốc lên sàn rồi đứng dậy, hơi hoảng vì đã gây ra trận cãi cọ ầm ĩ thế. Cô nghiêm khắc quát “Terri” khi cô này cũng đã nhảy lên ngồi trên tay vịn kia, đối mặt với con gái; hai người họ gần như dí mặt vào nhau mà gào.
- Krystal. - Cô quát tiếp khi thấy con bé đã giơ nắm đấm lên.
Krystal điên giận nhảy xuống ghế, lùi xa bà mẹ. Con bé ngạc nhiên thấy dòng chất lỏng âm ấm chảy xuống má, nó cứ tưởng máu, hóa ra chỉ là nước mắt; trong suốt, lấp lánh trên ngón tay khi nó chùi đi.
- Được rồi. - Kay nhẹ nhõm nói. - Bình tĩnh đi nào.
- Bình tĩnh cái con mẹ cô thì có. - Krystal đáp. Nó hùng hổ lấy cả cánh tay quệt mặt rồi quay lại chỗ ghế bà mẹ. Terri dè chừng, nhưng Krystal chỉ chộp lấy bao thuốc, rút ra điếu cuối cùng rồi châm lửa. Vừa phì phèo thuốc lá nó vừa bỏ ra cửa sổ đứng xoay lưng lại, gắng kìm nước mắt.
- O.K. - Kay vẫn đứng giữa phòng. - Giờ ta phải bình tĩnh mà bàn...
- Dào, được chó gì.
- Về Robbie. - Kay nói. Cô vẫn còn căng thẳng chưa dám ngồi. - Vì thằng bé mà tôi tới đây hôm nay. Tôi chỉ muốn chắc nó không sao.
- Thì nó bỏ đi nhà trẻ thôi chứ có chuyện quái gì. - Krystal đứng chỗ cửa sổ nói với lại. - Có phải tội chó gì to tát đâu.
- Ờ, có phải tội chó gì to tát đâu. - Terri líu nhíu đồng tình.
- Không phải vụ đi nhà trẻ. - Kay kiên nhẫn nói. - Hôm qua Robbie bị loét, nó rất khó chịu. Nó lớn thế mà còn phải mang tã là không được.
- Thì tui bỏ cái tã chết tiệt đó ra rồi thôi, giờ nó đóng quần. Nói rồi còn gì. - Krysal nổi điên.
-Tôi rất tiếc, Terri. - Kay đáp. - Nhưng chị không đủ tiêu chuẩn để tự chịu trách nhiệm chăm sóc con nhỏ.
- Tui không có...
- Chị cứ việc nói là không chơi thuốc nữa đi. - Kay tiếp. Lần đầu tiên Krystal cảm thấy được vẻ bực bội cáu kỉnh rất con người trong giọng Kay, làm nó nghe có vẻ thực hơn. - Rồi cô phải đi xét nghiệm ở trung tâm. Ta đều biết thế nào kết quả cũng dương tính. Bên đó nói lần này là lần chót, họ sẽ đuổi cô khỏi chương trình nữa thôi.
Terri lấy mu bàn tay quệt ngang mồm.
- Nào, tôi thấy chị với cháu đều không muốn mất Robbie...
- Chết tiệt, đừng đưa nó đi! - Krystal gào lên.
- Không đơn giản thế đâu. - Kay nói. Cô lại ngồi xuống, nhấc lên đùi bộ hồ sơ nặng trịch khi nãy rơi xuống sàn. - Terri, năm ngoái, khi Robbie được đưa về cho chị, chị đã cai heroin. Chị hứa hẹn sẽ sống lành mạnh và nghiêm túc tham gia chương trình hỗ trợ cai nghiện, chị cũng cam kết nhiều chuyện khác nữa, ví dụ như cho Robbie đi nhà trẻ...
- Ờ thì đó, tui đưa nó…
- Chỉ một chút. - Kay tiếp. - Chị làm được một chút, Terri, nhưng tí nỗ lực đó chưa đủ. Sau những gì tôi thấy hôm qua, và sau cuộc nói chuyện với nhân viên hỗ trợ cai thuốc cũng như bà Harper, tôi e rằng phải xem xét đánh giá lại toàn bộ mọi mặt.
- Vậy là sao? - Krystal hỏi. - Lại làm trò đánh giá ca điều trị nữa, hả? Sao cô phải làm thế? Sao phải làm thế, hả? Thằng nhỏ có làm sao đâu. Tui chăm nuôi nó - Thôi câm mẹ nó đi! - Con bé lại quát vào mặt Terri khi bà này cố gào thét gì đó. - Bà ấy không... tự tui sẽ chăm sóc thằng nhỏ, được chưa? - Con bé chỉ tay vào ngực năn nỉ Kay, mặt nó đỏ bừng, cặp mắt tô vẽ đậm đầy nước mắt giận dữ.
Suốt hồi Robbie còn ở nhà bố mẹ nuôi, Krystal đến thăm nó suốt. Thằng nhỏ bám lấy chị, đòi con bé ở lại uống trà và hễ chị đi là khóc. Đứt cả ruột. Khi trước Krystal muốn đưa Robbie đến nhà bà cố Nana Cath, như chính nó hồi xưa hay lánh về đó mỗi khi mẹ Terri be bét. Nhưng giờ bà quá già yếu rồi, cũng không rảnh mà lo cho thằng Robbie.
- Cô hiểu cháu thương em trai, và đang ráng hết sức chăm em, Krystal ạ. - Cô nói. - Nhưng mà cháu không phải là người đỡ đầu hợp pháp...
- Sao không? Tui là chị ruột nó mà?
- Được rồi. - Kay dứt khoát nói. - Terri, chị phải đối mặt với sự thật. Chắc chắn chị mà đi xét nghiệm là trung tâm Bellchapel sẽ đuổi chị khỏi chương trình ngay, vì chị cứ bảo không chơi mà xét nghiệm lại ra dương tính. Hôm qua nhân viên tư vấn cai nghiện đã nói thẳng với tôi qua điện thoại như thế.
Terri co rút mình trong ghế bành, nom nửa như bà lão, nửa như đứa bé con với hàm răng sún lỗ chỗ, cái nhìn của chị ta trống rỗng buồn thảm.
- Tôi nghĩ cách duy nhất để chị không bị đuổi khỏi chương trình là - Kay nói tiếp - phải thừa nhận, phải đối mặt với việc chị có chơi thuốc, phải tỏ ra chịu trách nhiệm có phạm sai lầm đó và cam kết thay đổi hoàn toàn.
Terri vẫn nhìn trừng trừng. Cứ bị buộc tội là chị ta chỉ biết ì ra đó. - Ờ, được rồi, sao nữa, vậy, cứ để đó - rồi đến - không, tôi không có, không hề, mẹ nó, tôi đâu có...
- Tuần này, có lý do gì cụ thể khiến chị xài heroin không? Chị đã được cấp liều methadone khá cao rồi mà? - Kay hỏi.
- Ờ. - Krystal nói. - Thằng cha Obbo tới đây, bà mẹ tui có bao giờ từ chối được chả đâu.
- Câm đi. - Terri yếu ớt phản đối. Xem ra chị đang đang cố tiêu hóa lời khuyên kỳ quặc đầy mạo hiểm của Kay về chuyện khai thật mọi chuyện.
- Obbo à? - Kay hỏi lại. - Obbo là ai?
- Một thằng cha đầu đất.
- Người bán thuốc cho cô à?
- Im cái mồm đi. - Terri bảo Krystal lần nữa.
- Mẹ chỉ cần nói “Không” mẹ nó là xong, sao không nói hả? - Krystal hét lên với mẹ.
- Đủ rồi. - Kay lại phải át giọng. - Terri, tôi sẽ gọi lại cho nhân viên tư vấn viên cai nghiện của chị. Tôi sẽ gắng thuyết phục chị ấy rằng cứ giữ chị trong chương trình cai nghiện là có lợi nhất cho gia đình chị.
- Thiệt hả? - Krystal ngạc nhiên hỏi. Con bé cứ ngỡ Kay là mụ quỷ cái còn tởm hơn cả mụ mẹ nuôi hồi trước, cái mụ lúc nào cũng giữ bếp sáng bóng và ráng nói năng nhẹ nhàng với Krystal làm con bé thấy lợm cả giọng.
- Phải. - Kay đáp. - Nhưng Terri, về chuyện ta đang bàn, tôi nói nghiêm chỉnh về vụ nhờ đội Bảo vệ trẻ em can thiệp đấy. Chúng tôi phải giám sát chặt tình trạng cháu Robbie khi ở nhà này. Phải có thay đổi đấy nhé Terri.
- Ờ, được. - Terri vẫn như mọi khi; đồng ý với bất kỳ ai về bất kỳ chuyện gì.
Krystal vội vã nói thêm: - Có, mẹ sẽ làm. Mẹ tui sẽ thay đổi. Tui sẽ giúp mẹ. Mẹ sẽ làm mà.
II
Suốt ngày thứ Tư, Shirley Mollison ở bệnh viện Trung tâm Tây Nam tại Yarvil cùng mười hai tình nguyện viên để hỗ trợ các công tác ngoài y khoa, như đẩy xe chuyển sách tới các giường bệnh, chăm sóc bình hoa của các bệnh nhân và đi lên đi xuống cửa hàng nhỏ ở sảnh để mua đồ giúp cho những người phải nằm liệt giường mà không ai đến thăm nuôi. Shirley thích nhất là đi từ giường này tới giường khác để lấy phiếu ghi đặt món ăn của bệnh nhân. Có lần một bác sĩ đi ngang thấy bà cầm bìa hồ sơ và đeo thẻ còn nhầm bà là quản lý.
Shirley nảy ra ý tưởng làm tình nguyện viên tại bệnh viện trong cuộc nói chuyện dài nhất từ trước đến nay với Julia Fawley, tại buổi tiệc mừng Giáng Sinh tuyệt vời ở Dinh thự Sweetlove. Hôm đó bà được biết Julia đang tham gia gây quỹ cho khoa Nhi của bệnh viện địa phương.
- Chúng tôi cần nhất bây giờ là có người trong hoàng gia tới thăm. - Julia nói, mắt liếc qua vai Shirley ra cửa. - Tôi sẽ nhờ Aubrey nói riêng với Norman Bailey. Thôi xin phép chị nhé, tôi phải ra chào Lawrence đã...
Thế là Shirley bị bỏ lại một mình bên cây đàn dương cầm mở cánh, đáp: “Vâng, hẳn rồi, hẳn rồi” với không khí. Bà hoàn toàn không biết Norman Bailey là ai nhưng tự nhiên thấy phấn khích hẳn lên. Thế là ngay hôm sau, thậm chí còn chưa kể với Howard, bà gọi đến bệnh viện Trung tâm Tây Nam hỏi thăm việc tuyển tình nguyện viên. Bệnh viện đáp người tình nguyện chỉ cần không kêu ca, tâm thần bình thường và giỏi đi bộ là đủ, thế là bà hỏi xin mẫu đơn tham gia luôn.
Công việc tình nguyện mở ra cả một thế giới mới mẻ huy hoàng trước mắt Shirley. Bên cây đàn dương cầm hôm ấy, Julia Fawley đã tình cờ gieo cho bà một giấc mơ: Bà đứng khép tay khiêm nhường, cổ đeo tấm thẻ tình nguyện, nữ hoàng từ từ đi qua hàng nhân viên phục vụ trong bệnh viện đang tươi cười; lúc đó bà sẽ nhún chào thật hoàn hảo làm nữ hoàng phải chú ý rồi người dừng lại trò chuyện, khen ngợi Shirley vì đã cống hiến thời gian rỗi cho việc này... Ánh đèn flash lóe lên, thế rồi hôm sau lên báo,... “Nữ hoàng trò chuyện với bà Shirley Mollison, tình nguyện viên làm việc tại bệnh viện”... Có lúc Shirley chìm sâu trong giấc mơ xa xôi ấy tới nỗi bà rùng cả mình vì vinh dự.
Vụ làm tình nguyện ở bệnh viện cũng là thứ vũ khí mới toanh để Shirley hạ bớt cái thói làm bộ làm tịch của Maureen. Khi bà vợ góa của ông Ken lột xác như Lọ Lem, từ cô bán hàng một bước lên vai đối tác kinh doanh, bà ta làm cho Shirley tức điên người (dù bề ngoài vẫn cười trơn tuột). Nhưng giờ thì Shirley đã lại chiếm thế thượng phong: bà cũng đi làm, nhưng không phải vì tiền, mà vì lòng tốt. Làm tình nguyện mới là “sang” chứ, kiểu phụ nữ đi làm nhưng không phải vì cần thêm tiền, như bà với Julia Fawley. Hơn nữa, bệnh viện là chốn có thể hóng các tin đồn cực kỳ phong phú, đủ nhấn chìm mấy câu chuyện nhạt nhẽo của Maureen về quán café mới.
Sáng nay, Shirley dứt khoát nói rõ với người giám sát tình nguyện viên là là mình muốn phục vụ khu hai mươi tám, thế là bà được phân về khu ung thư đúng theo ý nguyện. Người duy nhất trong số y tá bà kết bạn được ở đây làm ở khu hai mươi tám. Một số y tá trẻ thường nói năng cộc lốc và ra vẻ bề trên với những người tình nguyện, nhưng Ruth Price thì ngay từ đầu đã rất dễ thương với bà; hai người gắn bó vì Shirley nói họ đều là dân Pagford. Cô Ruth Price này mới quay lại nghề y tá gần đây sau mười sáu năm gián đoạn.
(Nhưng thật ra Shirley không sinh ra tại Pagford. Bà và em gái lớn lên bên mẹ trong căn hộ bừa bộn chật hẹp tại Yarvil. Mẹ bà hay nốc đẫy rượu và không bao giờ chịu li dị ông bố mà hai chị em đều chẳng bao giờ thấy đâu. Mấy gã đàn ông quanh đó xem ra đều biết tiếng mẹ Shirley, cứ nói đến bà là bọn họ cười đầy ngụ ý... Nhưng chuyện đó đã xa lắm rồi Shirley quan niệm rằng chỉ cần không bao giờ nhắc tới nữa thì sẽ đoạn tuyệt được với quá khứ. Bà không muốn nhớ lại chuyện trước chút nào.)
Shirley và Ruth vui vẻ chào hỏi, nhưng sáng đó quá nhiều việc nên họ chẳng còn thời gian nào mà tán gẫu, trừ vài câu lớt phớt về cái chết của Barry Fairbrother. Họ thỏa thuận cùng ăn trưa lúc 12 giờ 30 phút rồi Shirley đi lấy xe đẩy sách.
Tâm trạng của bà đang cực kỳ tốt. Bà thấy viễn cảnh tương lai rõ như ngay trước mắt. Howard, Miles và Aubrey Fawley sẽ cùng nhau cắt bỏ khu Fields khỏi Pagford mãi mãi, rồi nhân dịp đó sẽ mở tiệc tối ăn mừng tại Dinh thự Sweetlove...
Trong mắt Shirley, dinh thự ấy thật tráng lệ: Khu vườn rộng bát ngát, có cả đồng hồ mặt trời, hàng rào cây được cắt tỉa khéo léo và những hồ nước đó đây; hành lang lát gỗ rộng rãi, khung ảnh bạc đặt trên cây đàn dương cầm cánh mở, trong lồng hình gia chủ đang vui cười cùng công chúa cả. Bà chưa bao giờ cảm thấy nhà Fawley ra vẻ bề trên đối với mình, nhưng có quá nhiều thứ khiến bà phân tâm khi bước vào thế giới của họ. Bà chỉ có thể tưởng tượng ra cảnh năm người họ cùng ngồi ăn tối bên nhau trong một trong những căn phòng nhỏ dễ chịu đó. Howard ngồi cạnh Julia, bà ngồi bên phải Aubrey, còn Miles ngồi giữa họ (trong giấc mơ của Shirley, Samantha chắc chắn bị đẩy đi chỗ khác.)
Shirley và Ruth gặp nhau ở quầy sữa chua lúc 12 giờ 30 phút. Căn-tin bệnh viện ồn ào nhưng đến 1 giờ thì còn đông hơn nhiều. Hai người không khó khăn lắm đã tìm được một chiếc bàn hai chỗ ngồi nhớp nháp vụn thức ăn ở sát tường.
- Anh Simon nhà cô với các cháu thế nào? - Shirley hỏi sau khi Ruth đã lau sạch bàn, cả hai ngồi đối diện, vừa ăn vừa thoải mái nói chuyện.
- Vẫn khỏe, cảm ơn chị, ổn cả. Hôm nay anh ấy mang về nhà cái máy vi tính mới. Bọn trẻ sốt ruột sốt gan cả lên, chị biết đấy.
Không phải thế. Andrew và Paul mỗi đứa đều có một cái laptop rẻ tiền, còn chiếc máy tính bàn đặt ở góc căn phòng khách bé tí thì không đứa nào thích dùng vì phải chịu con mắt giám sát của ông bố. Khi nói chuyện với Shirley, Ruth hay tả hai cậu con bé hơn tuổi thật, rằng chúng dễ khiến dễ bảo và hay cười. Có lẽ cô cũng muốn làm chính mình trẻ hơn để làm rõ thêm cách biệt tuổi tác gần hai thập kỉ giữa cô với Shirley và làm cho quan hệ giữa họ càng như mẹ và con gái. Mẹ Ruth mất mười năm trước; cô luôn ao ước có người phụ nữ lớn tuổi bầu bạn với cô trong đời, mà quan hệ của Shirley với con gái ruột thì cũng không được cơm lành canh ngọt lắm, như bà có lần nhắc nhở bóng gió.
“Tôi với thằng Miles gần gũi nhau lắm. Còn cháu Patricia thì hơi khó. Giờ con bé ở London rồi.”
Ruth muốn hỏi thêm nhưng cô và Shirley giống nhau một điểm (cũng vì điểm này mà hai người ưa được nhau), đó vẻ trầm tĩnh trưởng giả: lúc nào cũng kiêu hãnh trưng ra bề mặt êm xuôi phẳng lặng. Ruth đành gạt sang một bên thói tò mò khó chịu nhưng vẫn mong đến lúc nào đó biết được vì sao Patricia lại “khó” như vậy.
Shirley và Ruth lập tức quý mến nhau vì trong sâu thẳm, mỗi người đều thấy người kia là kiểu phụ nữ giống hệt mình, coi chuyện giữ được ảnh hưởng tới chồng là điều đáng tự hào nhất. Họ có chung thứ “mật mã cơ bản”, như giữa những thành viên hội Tam Điểm với nhau, nhờ thế gắn bó với nhau theo kiểu khác hẳn tình bạn với những phụ nữ khác. Họ còn hợp nhau ở điểm là đều thấy mình “cao” hơn người kia, và đều ngầm thương hại người kia chọn phải ông chồng thế ấy. Trong mắt Ruth, Howard là lão vai u thịt bắp thô mịch, cô không hiểu sao bà bạn mình tuy hơi tròn trĩnh nhưng trông vẫn tao nhã ưa nhìn lại chịu cưới ông. Còn Shirley thậm chí không nhớ mình có khi nào để mắt tới Simon hay không, bà chưa từng nghe nhắc nhỏm gì đến anh ta trong những việc cấp cao ở Pagford; bà biết đời sống xã hội của Ruth hầu như chẳng có gì, và với bà, chồng của Ruth là kiểu nhân vật lánh đời kém cỏi.
- Lúc đó em thấy Miles và Samantha đưa ông Barry vào. - Ruth vào đề ngay chẳng buồn vòng vo. Cô nói chuyện không khéo bằng Shirley và thấy khó mà che giấu sự háo hức với mấy chuyện ngồi lê đôi mách tại Pagford, vì cô sống tít trên đồi, cách xa Pagford vì tính ít hòa đồng của Simon. - Họ chứng kiến vụ đó tận mắt thật à?
- À phải. - Shirley nói. - Hai đứa đang đi ăn tối ở câu lạc bộ golf, hôm tối Chủ nhật ấy; mấy cháu gái quay lại trường, Sam thích ăn ngoài, con bé ấy nấu nướng chẳng khéo léo gì mấy…
Từng tí một, qua cuộc trò chuyện những lúc giải lao, Ruth biết thêm về cuộc sống hôn nhân giữa Miles và Samantha. Theo Shirley thì trước đây con trai bà cưới Samantha là để làm ơn vì Samantha đã trót mang thai bé Lexie.
- Hai đứa đã ráng làm tốt hết mức rồi. - Shirley thở dài đầy bi tráng. - Thằng con tôi làm đúng, phải tôi thì cũng không làm khác được. Hai đứa nhỏ dễ thương lắm. Tiếc là Miles không có con trai, giá mà có thì hẳn nó sẽ là người bố tuyệt vời. Nhưng mà Sam không muốn có đứa thứ ba.
Ruth thưởng thức từng lời chê trách bóng gió của Shirley đối với cô con dâu. Nhiều năm trước, khi mới gặp Samantha cô đã lập tức không ưa cô này rồi. Hôm đó cô dẫn cậu con trai Andrew bốn tuổi đến nhà trẻ trường Thánh Thomas, Samantha hôm ấy cũng đưa con gái Lexie đi học. Bộ ngực đồ sộ và những câu chuyện tiếu lâm đậm mùi phòng the với mấy bà mẹ trong trường của Samantha đã khiến Ruth giữ ấn tượng cô ta là kiểu người nguy hiểm. Rồi từ bấy đến nay, Ruth luôn khinh bỉ nhìn Samantha cố phô bộ ngực vĩ đại ra khi nói chuyện với Vikram Jawanda trong những buổi tối họp mặt phụ huynh, mấy lúc như thế cô đều tìm cách kéo Simon ra góc lớp để tránh phải nói chuyện với cô ta.
Shirley vẫn đang mê mải kể lể chi tiết câu chuyện cũ rích về chuyến hành trình cuối cùng của Barry. Bà dốc hết công lao lên cậu con trai, nào là Miles đã nhanh trí gọi xe cứu thương thế nào, cậu nâng đỡ bà Mary Fairbrother ra sao, và còn nhất quyết ở lại cạnh bà ấy cho đến khi nhà Walls kịp đến. Ruth vẫn chăm chú lắng nghe, nhưng đã hơi sốt ruột. Shirley mà chê con dâu thì còn nói say sưa hơn cả khi ca ngợi cậu con thần thánh của mình. Nhưng Ruth đang nóng lòng sốt ruột muốn kể với Shirley một chuyện cực kỳ khác.
- Thế là trong hội đồng khu có chỗ trống đấy nhỉ? - Ruth nói lúc Shirley đã kể tới đoạn Miles và Samantha nhường sân khấu cho Colin và Tessa Wall.
- Ta gọi nó là ghế khuyết vì lý do ngoài dự kiến. - Shirley tử tế sửa lại.
Ruth hít sâu vào một hơi.
- Simon - Cô háo hức kể. - đang tính chuyện ra ứng cử đấy.
Miệng Shirley tự động nhành ra cười, lông mày nhướng lên tỏ ý ngạc nhiên một cách lịch sự và nhấp ngụm trà để giấu bớt biểu cảm trên mặt. Ruth hoàn toàn không biết mình đã nói điều gì làm bà bạn mình phiền lòng. Cô cứ nghĩ Shirley sẽ rất vui khi biết chồng hai người cùng làm trong hội đồng khu, cô cũng mơ hồ cảm thấy có khi Shirley sẽ giúp chồng mình được trong vụ đó.
- Anh ấy kể với em tối qua. - Ruth nói tiếp, ra vẻ quan trọng. - Anh ấy cân nhắc chuyện này khá lâu mới quyết định đấy.
Dĩ nhiên Simon còn nói nhiều chuyện khác nữa, như khả năng thay vai Barry nhận tiền hối lộ từ công ty Grays để tiếp tục giữ họ làm nhà thầu cho hội đồng, nhưng Ruth gạt khỏi đầu chuyện đó, như cô vẫn từng gạt đi không nghĩ tới mọi trò lươn lẹo mánh khóe khác của Simon.
- Tôi không hề biết là Simon lại muốn tham gia vào Ban quản trị địa phương đấy nhé. - Shirley mềm mỏng nhận xét.
- À vâng. - Ruth đáp, chính cô cũng bất ngờ. - Anh ấy rất hăng hái.
- Thế anh nhà cô đã nói chuyện với bác sĩ Jawanda chưa? - Shirley nhấp thêm hớp trà nữa. - Bà ấy có nói sẽ đề cử anh nhà cô không?
Bị hỏi bất ngờ, Ruth lộ vẻ lúng túng thực sự.
- Không, em… Simon lâu lắm rồi có đi bác sĩ đâu. Ý em là anh ấy khỏe lắm.
Shirley mỉm cười. Nếu tự mình ra ứng cử mà không có Jawanda nhúng tay vào thì rõ ràng đối thủ Simon chẳng đáng mà lo. Bà thậm chí còn thấy thương hại cho Ruth vì dính vào vụ này. Chính bà, Shirley, biết rõ ở Pagford này ai là kẻ có thớ, thế mà còn khó nhận ra chồng Ruth nếu anh ta bước vào hiệu thực phẩm, con bé Ruth khốn khổ này nghĩ ai sẽ bỏ phiếu cho chồng nó chứ? Nhưng Shirley biết Howard và Aubrey hẳn sẽ muốn bà hỏi thêm một câu nữa, thủ tục ấy mà.
- Simon hồi giờ vẫn sống ở Pagford phải không nhỉ?
- Không, anh ấy sinh ra ở khu Fields. - Ruth vô tư đáp.
Shirley “à” lên một tiếng.
Bà lột nắp hũ sữa chua, cầm muỗng lên trầm ngâm xúc một thìa đầy. Chuyện Simon có thể thiên vị khu Fields, bất kể khả năng được bầu cho anh ta là bao nhiêu, cũng đáng phải biết đây.
- Thủ tục ứng tuyển đăng trên website phải không chị. - Ruth hỏi, hòng vớt vát thêm tí giúp đỡ và nhiệt tình.
- Ờ, - Shirley lơ đãng đáp. - tôi cũng nghĩ vậy.
III
Andrew, Fats và hai mươi bảy học sinh khác đang học tiết cuối của chiều thứ tư, mà Fats gọi là “xóm quậy”. Đây là lớp toán trình độ thứ-hai-từ-bét-lên, giáo viên là một cô giáo trẻ măng yếu chuyên môn nhất khoa, cô mới tốt nghiệp khóa đào tạo giáo viên, mặt nám lấm tấm, không làm sao giữ trật tự lớp được và trông lúc nào cũng như chực òa khóc tới nơi. Từ năm trước Fats đã quyết tâm kéo cho sức học ngày càng tụt xuống nên bị chuyển từ lớp trình độ cao nhất sang lớp áp chót này. Còn Andrew cả đời vật lộn với mớ chữ số thì lúc nào cũng nơm nớp bị đẩy xuống lớp toán bét học chung với Krystal Weedon và thằng anh họ Dane Tully của con bé.
Andrew và Fats cùng ngồi cuối phòng. Thảng hoặc, khi đã chán chọc cười hay gây rối trong lớp, Fats chỉ cho Andrew làm mấy bài số học. Lớp ồn ào điếc cả tai, cô Harvey gào lên năn nỉ chúng im lặng. Giấy làm bài nguệch ngoạc đầy hình vẽ lăng nhăng, tụi học trò cứ thản nhiên dời qua bàn đứa khác ngồi, kéo ghế miết kin kít trên sàn, cứ hễ cô Harvey quay đi là “phi đạn” lại bay vèo vèo khắp nơi. Thỉnh thoảng Fats xin phép đi lên đi xuống trong lớp, bắt chước dáng đi đánh tay cứng đờ của thầy Tủ. Cứ đến giờ này là trò giễu hề của thằng Fats nở rộ nhất; còn trong giờ Anh Văn mà nó với Andrew cùng trong lớp cao nhất, nó chả buồn lấy thầy Tủ ra mà giễu.
Sukhvinder Jawanda ngồi ngay trước mặt Andrew. Lâu lắm rồi, hồi còn học tiểu học, Andrew, Fats và mấy thằng con trai khác từng kéo đuôi tóc dài đen óng của Sukhvinder, khi chơi đuổi bắt thì túm cái đuôi sam ấy là tiện nhất, mà của đáng tội cứ nhìn bím tóc đong đưa sau lưng con bé, khuất mắt cô giáo là ngứa cả mắt, cứ muốn giật một phát. Nhưng giờ thì Andrew không còn khoái trò đó nữa, cũng chả hứng động chạm tới bất cứ chỗ nào trên người Sukhvinder; cô nàng thuộc đám vài đứa con gái Andrew không buồn để mắt tới kể từ lúc Fats chỉ cho nó thấy trên môi em này có hàng “ria” đen mờ mờ. Cô chị Jaswant của Sukhvinder có thân hình khá mềm mại, eo nhỏ xíu và trước khi Gaia chuyển tới, Andrew thấy mặt cô nàng cũng khá đẹp: gò má cao, làn da vàng ngà mượt mà, cặp mắt nâu trong suốt hình hạnh nhân. Tất nhiên đối với cậu Jaswant lúc nào cũng là ngoài tầm với: Cô nàng hơn cậu những hai tuổi, lại là nữ sinh xuất sắc nhất khối Sáu, lúc nào cũng toát ra vẻ tự tin về sức hấp dẫn và gợi tình của mình.
Sukhvinder là đứa duy nhất trong lớp hoàn toàn không gây ra tiếng động gì. Lưng khòm, đầu cúi xuống tờ bài tập, trông con bé như bị đóng kén trong sự tập trung. Sukhvinder kéo tay áo khoác trái xuống phủ kín cả cổ tay thành nắm đấm bọc len mềm mại. Cái vẻ yên lặng của con bé có vẻ phô trương sao đó.
- Cái con lưỡng tính vĩ đại ngồi im như thóc kìa. - Fats lầm bầm, mắt dán chặt vào lưng Sukhvinder - Rậm lông mà lại vú to, giới khoa học vẫn đang lúng túng trước cái thể loại nửa đực nửa cái rậm lông này.
Andrew phì cười, nhưng trong lòng thấy không thoải mái lắm. Nếu nó chắc Sukhvinder không nghe được Fats nói gì thì sẽ thấy vui hơn. Lần gần đây nhất khi qua nhà Fats, thằng này cho nó xem mấy tin nhắn nó thường quẳng sang trang Facebook của Sukhvinder. Nó sục sạo khắp internet tìm đủ thứ tranh ảnh về chứng rậm lông và mỗi ngày đều gửi một tin nhắn hay một hình kiểu thế cho cô bé.
Kể ra thì cũng buồn cười, nhưng Andrew thấy không được phải lắm. Xét cho cùng thì Sukhvinder đâu có muốn thế, trông nó có vẻ dễ bắt nạt. Andrew thích nhất là khi Fats chĩa mũi dùi sang mấy ông bà trong chính quyền hay mấy kẻ khoe khoang tự mãn.
- Bị tách khỏi bầy đàn rậm râu mang áo ngực của nó. - Fats tiếp tục lầm rầm. - Nó ngồi đó, chìm trong suy nghĩ, tự hỏi mình có hợp với bộ râu dê hay không.
Andrew phá ra cười, rồi thấy áy náy ngay, nhưng Fats đã chán trò đó và quay sang tô vẽ mấy chữ số không trong tờ bài tập thành những hình tục tằn. Andrew lại loay hoay tính xem nên để dấu phẩy thập phân ở chỗ nào, và mơ đến cảnh ngồi xe buýt về nhà cùng Gaia. Trên chuyến xe về nó thường khó tìm được chỗ nào ngắm rõ cô nàng, vì chỗ ngồi cạnh Gaia thường kín mít trước khi nó lên xe, hoặc cô nàng ngồi quá xa. Hôm thứ hai hai đứa cười với nhau được một cái rồi chẳng đi tới đâu cả. Sau hôm đó, cô nàng không hề liếc nhìn nó hay có bất kỳ biểu hiện gì tỏ ra là biết có Andrew trên đời. Mê mẩn cô nàng bốn tuần nay rồi mà Andrew chưa khi nào thực sự nói chuyện được với Gaia. Nó cố tính bài tập toán đầu tiên giữa tiếng ầm ĩ trong lớp. “Vui thật, hôm thứ hai, lúc sinh hoạt toàn trường...”
- Sukhvinder, em có sao không?
Cô Harvey nhìn chằm chằm vào mặt Sukhvinder khi cúi xuống chấm điểm bài làm của nó. Andrew thấy Sukhvinder gật đầu, rút tay lại che lấy mặt, vẫn cúi người trên tờ bài tập.
- Wallah! - Giọng thằng Kevin Copper ngồi trên hai hàng véo von. - Wallah! Củ Lạc!
Nó đang cố gây chú ý về chuyện đứa nào cũng đã rõ mười mươi: cứ nhìn đôi vai rung rung của Sukhvinder cũng đủ biết nó đang khóc, còn cô Harvey thì cứ cuống lên hỏi xem có chuyện gì. Bọn trong lớp nhân lúc cô lơi lỏng càng náo loạn hơn bao giờ hết.
- Củ Lạc! Wallah!
Andrew không biết liệu Kevin Copper trêu nó là vô tình hay cố ý, nhưng rõ ràng nó có biệt tài làm người ta phát điên lên. Cái biệt danh “Củ Lạc” xưa rích đáng ghét đó dính với Andrew từ hồi cấp một. Fats không bao giờ xài tới nó để làm nó đâm lỗi mốt đi, với những trò kiểu này thì Fats luôn là thằng quyết định cuối cùng. Cooper còn gọi chệch tên Fats là “Wallah” nhưng biệt danh này cũng chỉ thịnh được ít lâu, hồi năm ngoái.
- Củ Lạc! Wallah!
- Biến đi thằng đần! - Fats thì thầm rít lên. Cooper đang quay hẳn xuống tựa vào lưng ghế mà nhìn Sukhvinder, con bé gập người lại, mặt gần chạm xuống bàn. Cô Harvey cũng cúi xuống theo, hai tay cô vung vẩy một cách khôi hài, cô ngần ngại không dám chạm vào Sukhvinder, cũng không biết tỏ thái độ thế nào để dỗ cô học trò nguôi bớt. Vài đứa bắt đầu để ý và quay lại nhìn, nhưng phía bàn trên những đứa khác vẫn nghịch rầm rầm, chẳng thèm để ý gì ngoài trò vui của mình. Một thằng chộp được miếng lau bảng có tay cầm gỗ trên bàn giáo viên bỏ trống. Nó ném đi luôn.
Miếng lau bảng bay ngang phòng, đập vào chiếc đồng hồ trên bức tường cuối lớp làm nó rơi xuống vỡ tan, những mảnh nhựa và kim loại bắn tung tóe khắp nơi. Mấy đứa con gái, cả cô Harvey, đều giật mình hét ầm lên.
Cửa lớp chợt bật mở, dập vào tường đánh sầm. Cả lớp im bặt. Thầy “Tủ” đỏ mặt tía tai đứng đó.
- Lớp này bị sao vậy hả? Sao mà ồn ào thế?
Cô Harvey đang cúi người cạnh Sukhvinder vội bật dậy như lò xo, trông cô vừa thẹn vừa sợ.
- Kìa cô Harvey! Lớp cô ồn như chợ vỡ. Có chuyện gì thế?
Cô giáo lặng cả người. Kevin Copper quay xuống cười nhăn nhở, hết nhìn cô Harvey lại nhìn thầy Tủ và Fats.
Fats mở miệng.
- Nói thật nhé, thưa cha, tụi con đang chạy vòng tròn quây lấy bà cô đáng thương này.
Tràng cười bùng lên. Cổ cô Harvey chuyển màu đỏ tía. Fats ngả người giữ thăng bằng trên hai chân ghế sau, nó tỉnh rụi nhìn thầy Tủ với vẻ thách thức.
- Đủ rồi! - Thầy Tủ quát. - Nếu còn nghe tiếng ồn ào nữa, tôi sẽ phạt cấm túc tất cả các em. Có nghe chưa? Tất cả các em.
Rồi ông sập cửa bỏ đi giữa tiếng cười ầm ĩ.
- Các em nghe thầy hiệu phó nói gì rồi đấy. - cô Harvey hét to, vội đi lên đầu lớp. - Im lặng! Im lặng ngay! Em, Andrew, và Stuart nữa, hai em dọn cái đống đó đi! Nhặt hết các mảnh đồng hồ lên.
Hai thằng kêu ca vài tiếng cho có lệ ra ý bị phạt oan, vài đứa con gái cũng the thé phụ họa. Còn thủ phạm chính gây ra trò này vẫn ngồi nguyên tại chỗ cười tự đắc, lớp ai cũng biết cô Harvey sợ thằng này. Chỉ còn năm phút nữa là hết giờ nên Andrew với Fats gắng kéo dài thời gian dọn dẹp sao cho hết giờ vẫn chưa xong, vậy thì khỏi làm tiếp. Trong khi Fats lại nhại dáng đi cứng đờ của thầy Tủ khi đi quanh đây đó nhặt rác, Sukhvinder lén đưa tay áo len lên chùi mắt rồi lại vùi đầu vào thế giới riêng của mình như cũ.
Chuông reo, cô Harvey không buồn ngăn bọn học sinh ầm ĩ chen nhau ra cửa. Andrew với Fats lấy chân lùa đống mảnh vụn vào gậm tủ cuối lớp rồi cũng khoác cặp lên vai.
- Wallah! Wallah! - Kevin Cooper vừa réo vừa chạy đuổi theo Andrew và Fats đang xuống cầu thang. - Ở nhà mày cũng gọi lão Tủ là “cha” hả? Thật hả? Có không?
Nó cứ tưởng bắt thóp được thằng Fats, cứ tưởng thế là đủ làm thằng này phải xoắn.
- Đầu mày đúng là toàn cứt, Cooper ạ. - Fats uể oải phán. Andrew phá ra cười.
