Hỏa Ngục: SỐ 9

http://truyenhiepsi.blogspot.com

Tác giả: Dan Brown


--34--

Cung điện Vecchio giống hệt một quân cờ khổng lồ. Với phần mặt tiền hình tứ giác vững chãi và những bức tường có lỗ châu mai vuông vức, tòa cung điện hình quân xe đồ sộ này tọa lạc ở vị trí rất phù hợp, trấn giữ góc đông nam của Quảng trường Signoria.

Tòa tháp duy nhất rất lạ thường của cung điện, vươn lên ở trung tâm pháo đài vuông vức này, như một mặt cắt rất đặc trưng in trên đường chân trời và trở thành một biểu tượng độc nhất vô nhị của Florence.

Là trung tâm quyền lực của chính quyền Ý, tòa cung điện khiến cho những vị khách tới đây có ấn tượng đặc biệt về vô số tượng nam giới. Tượng thần biển Neptune vạm vỡ của Ammannati đứng khỏa thân trên lưng bốn con hải mã – biểu tượng cho địa vị thống trị của Florence trên biển. Một bản sao tượng David của Michelangelo – nhân vật nam giới khỏa thân được chiêm ngưỡng nhiều nhất trên thế giới – đứng kiêu hãnh ngay lối vào cung điện. Cùng nhập hội với David là Hercules và Cacus – hai nhân vật nam khỏa thân khổng lồ khác – phối hợp cùng những dâm thần của Neptune, chào đón các vị khách tới cung điện bằng cách phô ra hơn một tá dương vật.

Thông thường, những lần tới tham quan Cung điện Vecchio của Langdon đều bắt đầu từ Quảng trường Signoria - một trong những quảng trường anh ưa thích nhất ở châu Âu, mặc dù nó có quá nhiều tượng nam giới khỏa thân. Sẽ không thể coi là đã tới thăm quảng trường nếu chưa nhâm nhi một tách cà phê espresso tại quán Caffè Rivoire, rồi chiêm ngưỡng những chú sư tử nhà Medici tại Loggia dei Lanzi – khu trưng bày tượng điêu khắc ngoài trời của quảng trường.

Nhưng hôm nay, Langdon và người bạn đồng hành dự định tiến vào cung điện Vecchio qua Hành lang Vasari, giống như các công tước nhà Medici vẫn thường làm lúc sinh thời – đi qua Bảo tàng Uffizi nổi tiếng và bám theo hành lang uốn lượn phía trên những cây cầu, đường sá và qua những tòa nhà, tiến thẳng vào trung tâm của cung điện cũ. Cho đến lúc này, họ chưa hề nghe thấy tiếng bước chân bám theo phía sau, nhưng Langdon vẫn rất sốt ruột mong thoát ra khỏi hành lang.

Giờ thì chúng mình đến nơi rồi, Langdon nhận ra như vậy, mắt hướng về cánh cửa gỗ nặng nề trước mặt. Lối vào cung điện cũ.

Cánh cửa đó, mặc dù có kết cấu khóa chắc chắn, vẫn được gia cố thêm một then ngang, hình thành một lối thoát khẩn cấp đồng thời ngăn bất kỳ kẻ nào ở phía bên kia xâm nhập vào Hành lang Vasari mà không có thẻ từ.

Tiếng ổ khóa nảy lên.

Ô cửa gỗ hé ra vài phân, Langdon ghé mắt nhìn ra bên ngoài. Một hốc phòng nhỏ. Vắng vẻ. Im ắng.

Khẽ thở phào, Langdon bước qua cửa và ra hiệu cho Sienna theo sau.

Chúng ta đã vào trong.

Đứng bên trong một hốc phòng đâu đó trong Cung điện Vecchio, Langdon đợi một lát và cố gắng trấn tĩnh lại. Trước mặt họ là một hành lang dài chạy vuông góc với hốc phòng. Bên trái họ, cách một quãng, có những tiếng nói vọng lên hành lang, bình tĩnh và vui vẻ. Cung điện Vecchio, giống như Điện Capitol ở Hoa Kỳ, vừa là điểm du lịch vừa là trụ sở làm việc của chính phủ. Vào giờ này, những giọng nói họ đang nghe thấy chắc chắn là của các viên chức đang hối hả ra vào văn phòng, sẵn sàng cho một ngày làm việc mới.

Langdon và Sienna nhích dần trong hành lang và ngó qua góc tường. Đúng như dự đoán, phía cuối hành lang là một tiền sảnh có hơn chục viên chức chính quyền đứng nhâm nhi cà phê espresso buổi sáng và chuyện phiếm với đồng nghiệp trước giờ làm việc

“Bích họa Vasari”, Sienna thì thào, “anh nói nó ở trong Sảnh Năm trăm phải không?”

Langdon gật đầu và chỉ qua tiền sảnh đông đúc về phía một khuôn cửa trổ thẳng vào một hành lang đá. “Rất tiếc, lại phải đi qua tiền sảnh đó.”

“Anh chắc chứ?”

Langdon gật đầu. “Chúng ta sẽ không có cách nào vượt qua đó mà không bị phát hiện.”

“Họ đều là nhân viên chính phủ. Họ sẽ không quan tấm đến chúng ta đâu. Cứ việc đi tới như thể anh là người ở đây.”

Sienna tiến lại, nhẹ nhàng vuốt phẳng chiếc áo vét hiệu Brioni của Langdon và chỉnh lại cổ áo. “Trông anh bảnh rồi đấy, Robert.” Cô e thẹn mỉm cười nhìn anh, chỉnh lại áo len của mình, và bước ra.

Langdon vội vã bám theo cô, cả hai đường hoàng sải bước về phía tiền sảnh. Khi họ bước vào, Sienna bắt đầu nói với anh rất nhanh bằng tiếng Ý – chuyện gì đó liên quan đến bảo hộ nông trại – say sưa khoa chân múa tay trong lúc nói. Họ tiến thẳng tới bức tường ngoài cùng, giữ một khoảng cách với những người khác. Langdon vô cùng ngạc nhiên vì đúng là không hề có một nhân viên nào để ý đến họ.

Khi đã đi qua tiền sảnh, họ nhanh chóng tiếp cận hành lang. Langdon nhớ lại chương trình biểu diễn kịch Shakespeare. Yêu nữ láu cá. “Cô đúng là một diễn viên”, anh thì thào.

“Tôi buộc phải làm thế”, cô đáp lời, giọng có phần xa cách kỳ lạ.

Lại một lần nữa, Langdon cảm thấy có điều gì đó trong quá khứ của người phụ nữ trẻ này còn đau đớn hơn cả những gì anh biết, và càng lúc càng hối hận vì đã lôi cô vào tình huống rắc rối nguy hiểm cùng mình. Anh tự nhủ rằng lúc này chưa có gì xong xuôi cả, ngoại trừ nhìn nhận cho thấu đáo.

Cứ tiếp tục bơi qua đường hầm… và cầu mong nhìn thấy ánh sáng.

Khi tới gần khuôn cửa, Langdon thở phào nhận thấy trí nhớ của mình vẫn rất tốt. Một tấm biển nhỏ có mũi tên chỉ qua góc tường vào hành lang cùng lời ghi: IL SALONE DEI CINQUECENTO. Sảnh Năm trăm, Langdon nghĩ, tự hỏi không biết những câu trả lời nào đang đợi họ bên trong. Chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết chóc. Điều này có nghĩa là gì nhỉ?

“Có thể phòng vẫn khóa”, Langdon lưu ý khi họ đến gần góc tường. Mặc dù Sảnh Năm trăm là một điểm du lịch quen thuộc nhưng sáng nay lại chưa mở cửa.

“Anh có nghe thấy tiếng đó không?”, Sienna hỏi, và dừng phắt lại.

Langdon đã nghe thấy. Có tiếng ầm ì rất to tiến lại gần ngay chỗ góc tường. Xin hãy nói với tôi rằng đó không phải là một chiếc máy bay không người lái trong nhà. Rất thận trọng, Langdon ngó qua góc ô cửa. Cách đó ba mươi thước là một cánh cửa gỗ đơn giản kỳ lạ mở vào Sảnh Năm trăm. Rất tiếc, chính giữa cửa lại là một nhân viên bảo vệ to béo đang đẩy cỗ máy đánh bóng sàn chạy điện theo vòng tròn.

Nhân viên gác cửa.

Langdon chú ý đến ba biểu tượng trên một tấm biển nhựa bên ngoài cửa. Ngay cả những nhà biểu tượng học ít kinh nghiệm nhất cũng nhận ra các biểu tượng quen thuộc này: Một máy quay có dấu X, một cốc uống nước có dấu X, và hai hình người, một nam và một nữ.

Langdon hành động ngay, sải bước nhanh về phía nhân viên bảo vệ, hơi chậm bước khi lại gần người đó hơn. Sienna rảo bước sát theo sau anh.

Nhân viên bảo vệ ngước lên, có vẻ hơi giật mình. “Xin lỗi!” Ông ta giơ tay chặn Langdon và Sienna lại.

Langdon mỉm cười khổ sở, đúng hơn là nhăn nhó với ông ta và ra hiệu về phía mấy biểu tượng gần cửa. “Nhà vệ sinh”, anh nói, giọng anh cuống quýt. Đó không phải là một câu hỏi.

Ông bảo vệ lưỡng lự một chút, vẻ sẵn sàng từ chối yêu cầu của họ, nhưng cuối cùng nhìn thấy dáng đi không lấy gì làm thoải mái của Langdon, ông ta gật đầu vẻ thông cảm và vẫy tay cho họ qua.

Khi tới cửa, Langdon nháy mắt nhanh với Sienna. “Lòng trắc ẩn là một ngôn ngữ phổ thông.”


--35--

Đã có thời, Sảnh Năm trăm là gian phòng rộng nhất thế giới. Nó được xây dựng năm 1494 để làm nơi hội họp cho toàn thể Consiglio Maggiore – Đại hội đồng gồm đúng năm trăm ủy viên của nền Cộng hòa – vì thế thành tên của sảnh. Vài năm sau, theo lệnh của Cosimo I, phòng được cải tạo và mở rộng đáng kể. Cosimo I, nhân vật quyền thế nhất nước Ý, đã chọn Giorgio Vasari làm giám công kiêm kiến trúc sư của dự án.

Để hoàn thành công trình đặc biệt này, Vasari đã cho nâng phần mái cũ và cho ánh sáng tự nhiên tràn vào qua các cửa sổ con rất cao ở cả bốn mặt gian phòng, tạo thành một không gian trang nhã trưng bày những bức tranh, tác phẩm điêu khắc và kiến trúc đẹp nhất của Florence.

Sàn của gian phòng này luôn thu hút ánh mắt của Langdon trước tiên, vì nó như tuyên bố rằng đây không phải là một không gian bình thường. Phần sàn bằng đá son cùng hệ thống đường kẻ ô màu đen tạo cho không gian rộng một nghìn một trăm mười lăm mét vuông này vẻ vững chải, sâu và cân bằng.

Langdon từ từ nhướng mắt nhìn về đầu kia của gian phòng, nơi sáu bức điêu khắc - Những kỳ công của Hercules – xếp hàng dọc theo tường như một toán binh sĩ. Langdon cố ý bỏ qua tác phẩm Hercules và Diomedes vẫn thường xuyên bị chê bai, mô tả những thân hình trần truồng mắc cứng trong một trận đấu vật trông rất quyết liệt, với động tác “bóp dương vật” đầy tính sáng tạo vẫn luôn khiến Langdon phát hãi.

Dễ bắt mắt hơn là tác phẩm Thần Chiến thắng đẹp mê hồn của Michelangelo đứng ở bên trái, choán hết hốc chính giữa của bức tường phía nam. Cao gần ba mét, tác phẩm điêu khắc này dự định dành cho phần mộ của vị giáo hoàng gây nhiều tranh cãi Julius II – được mệnh danh là Đức Thánh Cha Đáng sợ - một nhiệm vụ Langdon luôn thấy rất châm biếm, nếu xét đến quan điểm về tình dục đồng giới của Vatican. Bức tượng mô tả Tommaso dei Cavalieri, chàng thanh niên mà Michelangelo yêu say đắm và cũng là người ông viết tặng hơn ba trăm bài thơ.

“Tôi không thể tin là mình lại chưa bao giờ đến đây!”, Sienna thì thào bên cạnh anh, giọng cô đột nhiên nhẹ nhàng và đầy thành kính. “Nơi này… đẹp quá!”

Langdon gật đầu, nhớ lại lần đầu anh tới thăm khu vực này, nhân một buổi hòa nhạc cổ điển đặc biệt của nghệ sĩ piano lừng danh thế giới Mariele Keymel. Mặc dù đại sảnh này là nơi hội hợp chính trị và thiết triều của ngài Đại Công tước, nhưng giờ đây nó được dành cho các nhạc sĩ, nhà diễn thuyết và những buổi dạ tiệc – từ sử gia nghệ thuật Maurizio Seracini đến dạ tiệc khai trương chỉ có hai màu đen-trắng của Bảo tàng Gucci. Nhiều lúc Langdon tự hỏi Cosimo I sẽ cảm thấy thế nào về chuyện phải chia sẻ đại sảnh riêng vốn rất chân phương của mình với các vị CEO và người mẫu thời trang.

Langdon hướng ánh mắt sang những bức bích họa đồ sộ tô điểm cho các bức tường. Lịch sử kỳ lạ của chúng còn bao gồm kỹ thuật vẽ thử nghiệm bất thành của Leonardo da Vinci, với kết quả là một “kiệt tác tan chảy”. Cũng đã từng có một “cuộc thi tài” nghệ thuật do Piero Soderini và Machiavelli dẫn dắt, sử dụng hai người khổng lồ của thời Phục Hưng – Michelangelo và Leonardo – đấu với nhau, bằng cách ra lệnh cho họ sáng tạo ra những bích họa ở các bức tường đối diện nhau trong cùng một căn phòng.

Tuy nhiên, hôm nay, Langdon quan tâm đến một trong những điểm kỳ quặc mang tính lịch sử khác của căn phòng này.

Cerca trova.

“Cái nào là của Vasari?”, Sienna hỏi, đưa mắt nhìn các bích họa.

“Gần như tất cả”, Langdon đáp, biết rõ việc để cải tạo căn phòng, Vasari cùng các phụ tá đã phải vẽ lại gần như mọi thứ bên trong, từ những bức bích họa nguyên gốc tới ba mươi chín ô trang trí phần trần “treo” nổi tiếng của gian phòng.

“Nhưng bích họa kia”, Langdon nói, chỉ bức bích họa ở bên phải họ, “mới là bức chúng ta muốn xem – Trận Marciano của Vasari”.

Bức tranh mô tả cảnh đối đầu quân sự quả là đồ sộ - dài một trăm sáu mươi lăm mét và cao hơn ba tầng nhà. Nó được khắc họa bằng các gam màu nâu đỏ và xanh lục – một đại cảnh dữ dội với lính, ngựa, giáo mác cùng những lá cờ va đụng nhau trên một sườn đồi ở vùng quê.

“Vasari, Vasari”, Sienna thì thào. “Và thông điệp bí mật của ông ấy được giấu đâu đó trong bức tranh ấy ư?”

Langdon gật đầu trong lúc nheo mắt nhìn lên đỉnh bức bích họa khổng lồ, cố gắng định vị lá cờ trận màu lục đặc biệt, Vasari đã vẽ lên đó thông điệp bí ẩn của ông - CERCA TROVA. “Gần như không thể nhìn thấy từ dưới này mà không dùng ống nhòm”, Langdon nói, chỉ tay lên bức tranh, “nhưng ở khoang giữa trên cùng, ngay phía dưới hai ngôi nhà nông trại trên sườn đồi, có một lá cờ màu xanh lục hơi nghiêng nhỏ xíu và…”

“Tôi nhìn thấy rồi”, Sienna nói, tay chỉ lên góc trên bên phải, rất đúng vị trí.

Langdon ao ước có được cặp mắt tinh tường hơn.

Hai người bước lại gần bức bích họa cao ngất, Langdon ngước nhìn vẻ tráng lệ của nó. Cuối cùng, họ đã ở đây. Vấn đề duy nhất lúc này là Langdon không biết chắc tại sao họ lại đến đây. Anh đứng im lặng rất lâu, đăm đăm nhìn những chi tiết trong kiệt tác của Vasari.

Nếu ta thất bại… khi đó tất cả sẽ chết.

Một cánh cửa hé mở phía sau họ, và ông bảo vệ cùng cái máy lau sàn ngó vào, vẻ ngập ngừng. Sienna vẫy tay chào đầy thân thiện. Ông bảo vệ nhìn họ một lát rồi khép cửa lại.

“Chúng ta không có nhiều thời gian đâu, Robert”, Sienna giục. “Anh cần nghĩ xem. Bức tranh có gợi cho anh điều gì không? Bất kỳ ký ức gì không?”

Langdon chăm chú nhìn cảnh chiến trận hỗn loạn phía trên họ.

Chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết chóc.

Langdon từng nghĩ có lẽ trong bức bích họa có một xác chết với ánh mắt vô hồn nhìn về phía một manh mối nào đó trong bức tranh… hoặc thậm chí là một vị trí nào đó trong gian phòng. Tiếc thay, lúc này Langdon thấy rằng có đến hàng chục xác chết trong bức bích họa, và không cái xác nào đáng chú ý cũng như không có cặp mắt người chết nào hướng tới bất kỳ nơi nào đặc biệt.

Chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết chóc ư?

Anh cố gắng mường tượng các đường kết nối từ xác chết này tới xác chết khác, băn khoăn không biết có thể tạo ra hình thù gì không nhưng chẳng thấy gì cả.

Đầu Langdon lại căng rần rật trong lúc cố lục tung những tầng sâu trí nhớ của mình. Đâu đó, giọng của người phụ nữ tóc bạc vẫn thì thầm: Hãy tìm kiếm và sẽ thấy.

“Tìm cái gì chứ?”, Langdon muốn hét to lên.

Anh cố nhắm mắt lại và từ từ thở ra. Anh xoay vai vài lần và cố gắng giải phóng mình khỏi tất cả những suy nghĩ có ý thức, hy vọng chạm đến bản năng sâu thẳm.

Rất xin lỗi.

Vasari.

Cerca trova.

Chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết chóc.

Bản năng mách bảo, chắc chắn anh đã tìm đúng chỗ. Và dù lúc này không hiểu nổi tại sao, anh vẫn có cảm nhận rõ rệt rằng chẳng mấy chốc mình sẽ thông suốt mọi chuyện.

Đặc vụ Brüder hững hờ nhìn đống quần áo chẽn nhung màu đỏ trong tủ trưng bày trước mắt mình và rủa thầm. Đội SRS của anh ta đã lục soát khắp khu trưng bày phục trang, nhưng không tìm thấy Langdon và Sienna Brooks ở đâu cả.

Giám sát và hỗ trợ phản ứng, anh ta giận dữ nghĩ. Kể từ lúc nào một thằng cha giáo sư đại học lại thoát khỏi tay SRS chứ? Bọn họ biến đi chỗ quái nào rồi!

“Mọi lối ra đều đã phong tỏa”, một người của anh ta khẳng định. “Khả năng duy nhất là bọn họ vẫn còn trong khu vườn.”

Điều này dường như khá hợp lý nhưng Brüder lại có cảm giác rằng Langdon và Sienna Brooks đã tìm được một lối thoát nào đó.

“Cho máy bay bay lại đi”, Brüder quát. “Và lệnh cho giới chức địa phương mở rộng phạm vi tìm kiếm bên ngoài các bức tường.” Mẹ kiếp!

Trong khi người của mình tỏa đi, Brüder vớ lấy điện thoại và gọi cho người có trách nhiệm. “Brüder đây”, anh ta nói. “Tôi e là chúng ta đang gặp phải vấn đề rất nghiêm trọng. Thực tế là rất nhiều vấn đề.”


--36--

Chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết chóc.

Sienna lặp lại những từ này trong lúc tiếp tục xem xét từng phân một trong quang cảnh chiến trận dữ dội của Vasari, hy vọng có thể thấy chi tiết gì đó nổi bật.

Cô nhìn thấy những đôi mắt chết chóc ở khắp mọi nơi.

Bọn mình đang tìm kiếm cặp mắt nào đây?

Cô tự hỏi liệu cặp mắt chết chóc có ám chỉ tới những xác chết thối rữa rải rác khắp châu Âu do dịch hạch không.

Ít nhất điều đó cũng giải thích cho cái mặt nạ dịch hạch…

Bất ngờ, một bài đồng dao trẻ con nảy ra trong tâm trí Sienna: Cổ đeo chuỗi hồng hoa. Túi đầy cỏ với hoa. Hóa thành đám tro tàn. Tất cả đều ra ma.

Cô thường hát bài đồng dao này khi còn là một nữ sinh ở Anh cho tới khi nghe nói bài đồng dao xuất xứ từ trận dịch hạch ở London năm 1665. Người ta cho rằng, chuỗi hồng hoa là nói đến những cục hạch sưng tấy có quầng đỏ trên da phát triển thành chuỗi và là dấu hiệu cho thấy một người đã bị nhiễm bệnh. Người bệnh thường mang theo trong túi áo đầy các loại thảo dược hoặc hoa với hy vọng được bảo vệ trước mùi cơ thể đang bị hủy hoại của chính họ cũng như mùi hôi thối của cả thành phố, nơi hàng trăm nạn nhân dịch hạch bỏ mạng mỗi ngày, và xác họ được hỏa thiêu sau đó. Hóa thành đám tro tàn [19]. Tất cả đều ra ma.

“Ơn chúa”, Langdon đột ngột buột miệng, xoay người về phía bức tường đối diện.

Sienna tò mò. “Có gì không ổn à?”

“Đó là tên một tác phẩm nghệ thuật từng được trưng bày ở đây. Ơn chúa.”

Bối rối, Sienna nhìn Langdon vội vã băng ngang phòng về phía một cánh cửa kính nhỏ và cố gắng mở ra. Cửa đã bị khóa. Anh áp mặt vào kính, khum hai bàn tay quanh mắt và nhìn vào bên trong.

Dù Langdon đang cố tìm kiếm cái gì, Sienna cũng hy vọng anh tìm thấy thật nhanh. Ông bảo vệ vừa xuất hiện lần nữa, lần này mang vẻ mặt nghi ngờ rất rõ ràng khi nhìn thấy Langdon đi tới săm soi một cánh cửa khóa kỹ.

Sienna rối rít vẫy tay với ông bảo vệ, nhưng ông ta lạnh lùng nhìn cô một lúc lâu và đi mất.

Lo Studiolo.

Nằm phía sau cánh cửa kính, ngay đối diện mấy từ cerca trova được giấu kỹ trong Sảnh Năm trăm, là một gian nhỏ xíu không có cửa sổ. Được Vasari thiết kế như một phòng làm việc bí mật cho Công tước Francesco I, gian Studiolo vuông vức có trần uốn thành vòm tròn như hầm rượu, khiến cho người ở bên trong có cảm giác như đang ở trong một hòm châu báu cỡ lớn.

Rất phù hợp là nội thất gian phòng cũng lấp lánh những món đồ đầy thẩm mỹ. Hơn ba mươi bức tranh hiếm có trang hoàng cho những bức tường và trần nhà, được treo sát nhau đến mức không còn không gian trống nào trên tường. Cú ngã của Icarus… Phúng dụ đời người… Mẹ Thiên nhiên tặng Prometheus bảo ngọc…

Lúc nhìn qua lớp kính vào không gian rực rỡ phía sau, Langdon thì thào với chính mình “Cặp mắt chết chóc”.

Lần đầu tiên Langdon ở bên trong Lo Studiolo là cách đây vài năm, trong một chuyến tham quan riêng theo các lối đi bí mật của cung điện. Anh đã sững sờ khi biết có vô số cánh cửa, cầu thang và lối đi bí mật trong cung điện, chẳng khác gì tổ ong, kể cả một vài hạng mục được giấu kín phía sau những bức vẽ bên trong Lo Studiolo.

Tuy nhiên, các lối đi bí mật không phải là thứ khiến Langdon quan tâm. Thay vào đó, anh chú ý đến một tác phẩm nghệ thuật hiện đại rất táo bạo được trưng bày ở đây – Ơn Chúa – một tác phẩm gây tranh cãi của Damien Hirst, từng gây sóng gió khi xuất hiện bên trong Studiolo lừng danh của Vasari.

Một cái khuôn đầu lâu kích thước thật bằng platinum đặc, bề mặt phủ kín hơn tám nghìn viên kim cương nạm sáng lấp lánh hiện ra. Hiệu ứng vô cùng ấn tượng. Hai hốc mắt trống rỗng của cái sọ lấp loáng ánh sáng và đầy sức sống, tạo ra một cặp biểu tượng đối lập nhau – sự sống và cái chết, vẻ đẹp và sự hãi hùng. Mặc dù cái sọ kim cương của Hirst đã bị chuyển khỏi Lo Studiolo từ lâu nhưng ký ức về nó đã làm Langdon nảy ra một ý tưởng.

Cặp mắt chết chóc, anh nghĩ bụng. Một cái đầu lâu là chuẩn xác, phải không nhỉ?

Đầu lâu là một chủ đề thường xuyên xuất hiện trong Hỏa Ngục của Dante, nổi tiếng nhất là hình phạt tàn khốc đối với Bá tước Ugolino ở tầng địa ngục thấp nhất – ông ta bị kết án phải mãi mãi gặm đầu lâu của một vị tổng giám mục xấu xa.

Phải chăng bọn mình đang tìm một cái đầu lâu?

Langdon biết rõ, gian Studiolo bí ẩn được xây dựng theo kiểu “tủ bách khoa toàn thư” truyền thống. Gần như tất cả bức vẽ của gian phòng đều lắp bản lề bí mật, có thể xoay thành những hộc tủ, nơi công tước cất giữ những món đồ lạ lùng mà ông quan tâm – các mẫu khoáng vật hiếm hoi, những sợi lông vũ đẹp mắt, một hóa thạch vỏ ốc anh vũ hoàn hảo, và thậm chí người ta còn cho rằng có cả xương ống chân của một nhà sư được trang trí bằng bạc.

Rất tiếc, Langdon ngờ rằng tất cả món đồ trong các hộc tủ đều đã được dọn đi từ lâu, và anh chưa từng nghe nói có bất kỳ hộp sọ nào được trưng bày ở đây, trừ tác phẩm của Hirst.

Suy nghĩ của anh bị đứt quãng bởi tiếng cửa đóng mạnh ở đầu sảnh bên kia. Những tiếng bước chân vội vã băng qua sảnh tiến lại rất nhanh.

“Thưa ông!”, một giọng nói giận dữ quát lên. “Sảnh này không mở cửa!”

Langdon quay lại nhìn thấy một nữ nhân viên đang tiến về phía mình. Cô ấy nhỏ, với mái tóc nâu cắt ngắn. Cô ấy đang mang bầu rất lớn. Người phụ nữ hối hả tiến lại phía họ, tay chỉ vào đồng hồ và lớn tiếng gì đó về việc khu vực này chưa mở cửa. Lúc tiến lại gần hơn, cô bắt gặp ánh mắt Langdon và lập tức dừng sững lại, sửng sốt đưa tay che miệng.

“Giáo sư Langdon!”, cô ấy kêu lên, vẻ bối rối. “Tôi xin lỗi! Tôi không biết anh ở đây. Chào mừng anh trở lại!”

Langdon cứng đờ người.

Anh tin chắc mình chưa bao giờ gặp người phụ nữ này trước đó.


--37--

“Tôi suýt nữa không nhận ra anh, thưa giáo sư!”, người phụ nữ nói bằng thứ tiếng Anh nằng nặng trong lúc tiến lại gần Langdon. “May nhờ trang phục của anh.” Cô mỉm cười trìu mến và gật đầu tán thưởng bộ cánh Brioni của Langdon. “Rất thời trang. Trông anh chẳng khác gì người Ý.”

Miệng Langdon khô khốc, nhưng anh cố nở một nụ cười nhã nhặn lúc người phụ nữ đến bên anh. “Xin… chào chị!”, anh ấp úng. “Chị khỏe không?”

Cô ấy bật cười, tay ôm lấy bụng. “Kiệt sức mất rồi. Con bé Catalina đêm nào cũng quẫy đạp.” Người phụ nữ nhìn quanh phòng, vẻ ngơ ngác. “Ngài Tiểu Mái vòm không hề nói anh sẽ quay lại đây hôm nay. Tôi cứ ngỡ ông ấy đi cùng anh?”

Ngài Tiểu Mái vòm ư? Langdon hoàn toàn không hiểu cô đang nói đến ai.

Người phụ nữ rõ ràng nhận ra vẻ bối rối của anh và phì cười trấn an. “Không sao, tất cả mọi người ở Florence đều gọi ông ấy bằng biệt danh đó. Ông ấy không bận tâm đâu.” Cô nhìn xung quanh. “Ông ấy dẫn anh vào à?”

“Đúng vậy”, Sienna lên tiếng và bước lại từ bên kia sảnh, “nhưng ông ấy có cuộc hẹn ăn sáng. Ông ấy nói các chị sẽ không phiền nếu chúng tôi ngắm nghía quanh quẩn ở đây”. Sienna nhiệt tình chìa tay ra. “Tôi là Sienna. Em gái của anh Robert.”

Người phụ nữ bắt tay Sienna có phần hơi quá trịnh trọng. “Tôi là Marta Alvarez. Cô thật là may mắn vì có hẳn giáo sư Langdon làm hướng dẫn viên riêng.”

“Vâng”, Sienna tán dương, cố giấu động tác đảo mắt. “Anh ấy rất thông minh.”

Không khí chợt im ắng và có phần gượng gạo khi người phụ nữ ngắm nhìn Sienna. “Buồn cười nhỉ”, cô ấy nói, “tôi chẳng thấy có nét nào giống nhau. Có lẽ trừ chiều cao của cô.”

Langdon cảm thấy như sắp có vụ va chạm tàu hỏa đến nơi. Ngay lúc này hoặc hết cơ hội.

“Marta”, Langdon ngắt lời, hy vọng mình đã nghe chính xác tên của người phụ nữ. “Tôi xin lỗi làm phiền chị nhưng… tôi đoán có lẽ chị biết lý do vì sao tôi lại ở đây.”

“Nói thật là không hề”, cô ấy trả lời, mắt hơi nheo lại. “Tôi không tài nào tưởng tượng được là anh đang làm gì ở đây.”

Tim Langdon đập rộn lên, và trong khoảnh khắc im lặng gượng gạo sau đó, anh nhận ra canh bạc của mình sắp thua đến nơi. Đột nhiên Marta nhoẻn miệng rồi bật cười to.

“Thưa giáo sư, tôi đùa thôi! Dĩ nhiên, tôi có thể đoán tại sao anh quay lại. Thành thật mà nói, tôi không biết tại sao anh lại thấy việc đó thú vị, nhưng vì anh và ngài Tiểu Mái vòm đã bỏ gần một tiếng trên đó đêm qua nên tôi đoán anh quay lại để cho em gái anh xem phải không?”

“Phải …”, anh vội đáp. “Chính xác đấy. Tôi rất muốn chỉ cho Sienna xem, nếu việc đó không… phiền?”

Marta ngước nhìn lên ban công tầng hai và nhún vai: “Không sao. Tôi cũng lên đó bây giờ.”

Tim Langdon đập rộn lên khi anh nhìn lên ban công tầng hai ở phía sau sảnh. Mình đã ở trên đó tối qua ư? Anh chẳng nhớ gì cả. Cái ban công ấy, anh biết rõ, ngoài việc ở đúng độ cao với mấy từ cerca trova, còn là lối vào bảo tàng của cung điện, nơi Langdon luôn tới thăm mỗi khi anh ở đây.

Marta định dẫn họ đi qua sảnh thì chợt dừng lại, như thể vừa nghĩ ra gì đó. “Này, giáo sư, chẳng lẽ chúng ta không thể tìm được thứ gì đó đỡ kinh dị hơn cho cô em gái đáng yêu của anh xem à?”

Langdon chẳng biết nói sao.

“Chúng ta sẽ xem thứ kinh dị à?”, Sienna hỏi. “Cái gì thế? Anh ấy không hề nói với tôi.”

Marta mỉm cười duyên dáng và liếc nhìn Langdon. “Giáo sư, anh có muốn tôi cho em gái anh biết về nó không, hay anh muốn tự mình làm việc đó hơn?”

Langdon gần như vồ lấy cơ hội đó. “Tất nhiên rồi, Marta, tại sao chị không kể cho cô ấy nghe chứ?”

Marta quay lại phía Sienna, nói rất chậm rãi. “Tôi không biết anh trai cô đã kể với cô những gì, nhưng chúng ta sẽ lên bảo tàng để xem một cái mặt nạ rất khác thường.”

Mắt Sienna hơi mở to. “Mặt nạ gì cơ? Có phải cái mặt nạ dịch hạch xấu òm người ta vẫn đeo dịp Carnevale không?”

“Đoán giỏi lắm”, Marta nói, “nhưng không, không phải mặt nạ dịch hạch đâu. Là một loại mặt nạ khác hẳn. Người ta gọi là mặt nạ người chết.”

Marta nghe rõ tiếng Langdon há miệng sửng sốt. Cô lừ mắt nhìn anh, rõ ràng nghĩ rằng anh đang cố tình tỏ ra kịch tính một cách thái quá để dọa cô em gái.

“Đừng có nghe anh trai cô”, cô ấy nói. “Mặt nạ người chết là một phong tục rất phổ biến vào thế kỷ XVI. Về cơ bản nó chỉ là cái khuôn thạch cao theo đúng gương mặt của ai đó, được đúc một thời gian sau khi người đó qua đời.”

Mặt nạ người chết. Langdon cảm thấy tia sáng đầu tiên kể từ lúc anh tỉnh lại ở Florence. Hỏa Ngục của Dante… Nhìn qua cặp mắt chết chóc. Mặt nạ!

Sienna lên tiếng hỏi, “Người ta dùng khuôn mặt ai để đúc chiếc mặt nạ?!”

Langdon đặt tay lên vai Sienna và cố gắng trả lời một cách bình thản nhất. “Một thi sĩ nổi tiếng của Ý. Tên ông ấy là Dante Alighieri.”


--38--

Mặt trời Địa Trung Hải chiếu rực rỡ trên boong tàu The Mendacium trong lúc nó lắc lư theo những đợt sóng trên biển Adriatic. Cảm thấy mệt mỏi, Thị Trưởng uống cạn ly Scotch thứ hai và thẫn thờ nhìn ra ngoài cửa sổ phòng làm việc.

Tin tức từ Florence không được tốt.

Có lẽ một phần do lần đầu tiên uống rượu sau một thời gian rất dài, nên ông ta cảm thấy mất phương hướng và bất lực một cách lạ lùng, như thể con tàu này đã mất động cơ và đang trôi nổi vô định theo thủy triều.

Cảm giác là một điều rất xa lạ với Thị Trưởng. Trong thế giới của ông ta, luôn tồn tại một thứ la bàn đáng tin cậy – quy trình – và nó chưa bao giờ chỉ đường sai cả. Quy trình là thứ giúp ông ta đưa ra những quyết định khó khăn mà không cần phải xem xét lại.

Cũng chính quy trình yêu cầu phải từ chối Vayentha, và Thị Trưởng thực hiện việc đó không chút do dự. Ta sẽ xử lý cô ả ngay khi vụ khủng hoảng hiện tại chấm dứt.

Cũng chính quy trình đòi hỏi Thị Trưởng biết về các khách hàng của mình càng ít càng tốt. Cách đây rất lâu ông ta đã quyết định rằng Consortium không có trách nhiệm đạo đức để phán xét họ.

Cung cấp dịch vụ.

Tin tưởng khách hàng.

Không đặt câu hỏi.

Giống như lãnh đạo của hầu hết các công ty khác, Thị Trưởng chỉ cung cấp dịch vụ với giả định rằng các dịch vụ ấy sẽ được thực hiện trong khuôn khổ luật pháp. Nói cho cùng, hãng Volvo không có trách nhiệm bảo đảm rằng những bà mẹ nôn nóng [20] sẽ không phóng nhanh qua khu vực trường học, cũng chẳng khác gì việc hãng Dell sẽ phải chịu trách nhiệm nếu có ai đó sử dụng một máy tính của họ để tấn công tài khoản ngân hàng.

Còn lúc này, trước tất cả mọi chuyện đang diễn ra, Thị Trưởng thầm rủa cái đầu mối liên hệ đáng tin cậy đã giới thiệu vị khách hàng này cho Consortium.

“Ông ấy sẽ không đòi hỏi nhiều về hậu mãi và chi tiền rất hào phóng”, đầu mối liên hệ quả quyết với ông ta. “Ông ấy rất giỏi, là một siêu sao trong lĩnh vực của mình, và vô cùng giàu có. Ông ấy chỉ cần biến mất trong một hoặc hai năm thôi. Ông ấy muốn mua khoảng thời gian yên tĩnh để thực hiện một dự án quan trọng.”

Thị Trưởng đã đồng ý mà không cần suy nghĩ nhiều. Bố trí chỗ lưu trú dài hạn luôn là dịch vụ dễ kiếm tiền, và Thị Trưởng tin tưởng vào khả năng của đầu mối liên hệ.

Đúng như mong đợi, công việc đem lại bộn tiền.

Cho tới tuần trước.

Giờ đây, trước tình trạng hỗn loạn mà người đàn ông này gây ra, Thị Trưởng thấy mình đi vòng quanh chai Scotch và đếm từng ngày mong cho trách nhiệm của mình với vị khách này nhanh kết thúc.

Điện thoại trên bàn réo vang, Thị Trưởng nhận ra đó là Knowlton, một trong những điều phối viên hàng đầu của mình, đang gọi từ tầng dưới.

“Ừ”, ông ta đáp.

“Thưa ngài”, Knowlton bắt đầu nói, giọng đầy lo lắng. “Tôi không muốn làm phiền ngài chuyện này, nhưng có lẽ ngài đã biết, chúng ta có nhiệm vụ đăng tải một đoạn video lên cho truyền thông vào ngày mai.”

“Phải”, Thị Trưởng trả lời. “Đã chuẩn bị xong chưa?”

“Đã xong, nhưng tôi nghĩ có lẽ ngài cầm xem trước khi đưa lên.”

Thị Trưởng sững lại, không hiểu lời đề nghị. “Đoạn video có nhắc đến tên chúng ta hay làm ảnh hưởng thế nào đó đến chúng ta không?”

“Không, thưa ngài, nhưng nội dung khá phiền phức. Ông khách xuất hiện trên màn hình và nói…”

“Thôi đi”, Thị Trưởng ra lệnh, sửng sốt vì một điều phối viên cao cấp lại dám đề xuất việc phá vỡ quy trình ngang nhiên như vậy. “Nội dung là thứ vô hình. Cho dù vấn đề gì thì đoạn video của ông ta cũng phải được công bố, dù qua hay không qua chúng ta. Ông khách đó có thể dễ dàng công bố đoạn video này bằng hình thức điện tử, nhưng ông ấy thuê chúng ta. Ông ấy trả tiền chúng ta. Ông ấy tin tưởng chúng ta.”

“Vâng, thưa ngài!”

“Anh không được trả tiền để làm một nhà phê bình phim”, Thị Trưởng cảnh cáo. “Anh được trả tiền để giữ lời hứa. Hãy thực hiện công việc của mình.”

Trên cầu Ponte Vecchio, Vayentha vẫn đợi, đôi mắt sắc lẻm của ả quét qua hàng trăm gương mặt trên cầu. Ả rất cảnh giác và cảm thấy chắc chắn rằng Langdon chưa đi qua mặt mình, nhưng chiếc máy bay không người lái đã im tiếng, rõ ràng nhiệm vụ truy tìm của nó không còn cần thiết nữa.

Chắc Brüder đã tóm được anh ta.

Đầy miễn cưỡng, ả bắt đầu nghĩ tới viễn cảnh u ám về một phiên điều trần ở Consortium. Hay còn tệ hơn nữa.

Vayentha lại nghĩ tới hai đặc vụ đã từng bị từ chối… chẳng bao giờ còn nghe nói đến họ nữa. Chắc họ chỉ chuyển sang công việc khác, ả tự trấn an mình. Thế nhưng lúc này, ả đang tự hỏi liệu ả có nên phóng xe vào vùng đồi núi Tuscany, biến mất và sử dụng những kỹ năng của mình để bắt đầu một cuộc sống mới hay không.

Nhưng ta có thể trốn tránh họ được bao lâu?

Rất nhiều mục tiêu đã tận mắt chứng kiến khi Consortium đã để bạn vào tầm ngắm thì chuyện giữ bí mật trở thành điều ảo tưởng. Vấn đề chỉ là thời gian mà thôi.

Lẽ nào sự nghiệp của ta lại kết thúc như thế này? Ả tự hỏi, vẫn không tài nào chấp nhận được rằng công việc suốt mười hai năm ròng rã của ả ở Consortium lại chấm hết vì một loạt những sự cố không may. Suốt cả năm trời ả đã thận trọng giám sát những nhu cầu của vị khách hàng mắt xanh. Ông ấy nhảy lầu tự sát đâu phải lỗi của ta… và dường như ta đang rơi theo ông ấy.

Cơ hội chuộc tội duy nhất của ả là qua mặt được Brüder… nhưng ngay từ đầu ả đã biết đây là một việc ít có khả năng thành công.

Đêm qua ta đã có cơ hội, nhưng ta lại thất bại.

Lúc miễn cưỡng quay lại chiếc xe máy của mình, Vayentha đột nhiên nhận ra một âm thanh phía xa… tiếng rít chói lói quen thuộc.

Ngỡ ngàng, ả ngước nhìn lên. Trước vẻ ngạc nhiên của ả, chiếc trực thăng giám sát không người lái vừa cất cánh trở lại, lần này gần phía đầu kia của Cung điện Pitti. Vayentha nhìn theo trong lúc chiếc máy bay nhỏ xíu bắt đầu bay thành vòng tròn phía trên cung điện.

Chiếc máy bay trở lại hoạt động chỉ có thể đồng nghĩa với một việc.

Họ vẫn chưa tóm được Langdon!

Anh ta ở chỗ quái nào nhỉ?

Tiếng rít chói tai trên đầu lại kéo Tiến sĩ Elizabeth Sinskey ra khỏi cơn mê. Chiếc máy bay lại bay lên à? Nhưng mình nghĩ…

Bà đổi tư thế trên băng ghế sau của chiếc xe thùng, nơi anh chàng đặc vụ trẻ vẫn ngồi bên cạnh. Bà lại nhắm mắt, cố chống lại cơn đau và buồn nôn. Nhưng chủ yếu là cố chống lại nỗi sợ hãi.

Thời gian đang cạn dần.

Mặc dù kẻ thù của bà đã nhảy lầu tự sát, bà vẫn thấy bóng của hắn trong những giấc mơ, thuyết giảng cho bà trong bóng tối của Hội đồng Quan hệ Đối ngoại.

Rất cần người có hành động táo bạo, hắn ta tuyên bố, đôi mắt xanh lè lóe lên. Nếu không phải chúng ta, thì ai? Nếu không phải lúc này, thì bao giờ?

Elizabeth sẽ ngăn chặn hắn ngay khi có cơ hội. Bà sẽ không bao giờ quên lúc thoát vội khỏi cuộc gặp gỡ đó và lao vào ghế sau chiếc limousine, rồi băng qua Manhattan về phía Sân bay quốc tế JFK. Sốt ruột muốn biết ngay gã điên này là kẻ nào, bà rút điện thoại di động và nhìn kỹ tấm hình vừa chụp được.

Khi nhìn tấm hình, bà thốt lên kinh ngạc. Tiến sĩ Elizabeth Sinskey biết chính xác người đàn ông này lài ai. Tin mừng là rất dễ lần theo dấu vết hắn. Nhưng rủi thay hắn lại là một thiên tài trong lĩnh vực của mình – hắn lựa chọn trở thành một con người rất nguy hiểm.

Chẳng có gì sáng tạo… có sức phá hủy… hơn một bộ óc xuất chúng với một mục tiêu.

Lúc đến sân bay ba mươi phút sau đó, bà gọi cho đội của mình và đưa người đàn ông này vào danh sách theo dõi khủng bố sinh học của tất cả cơ quan chức năng trên thế giới – CIA, CDC, ECDC, và tất cả tổ chức tương tự trên toàn cầu.

Đó là những gì mình có thể làm cho tới khi trở lại Geneva, bà nghĩ.

Kiệt sức, bà mang hành lý tới quầy làm thủ tục và trao cho cô nhân viên hộ chiếu cùng vé của mình.

“Ồ, Tiến sĩ Sinskey”, cô nhân viên mỉm cười nói. “Một quý ông rất lịch thiệp vừa gửi một tin nhắn cho bà.”

“Sao cơ?”, Elizabeth không hề biết ai đó lại nắm được thông tin chuyến bay của bà.

“Ông ấy rất cao?”, cô nhân viên nói. “Với đôi mắt màu xanh lục?”

Elizabeth buông rơi hành lý. Ông ta ở đây ư? Bằng cách nào?! Bà nhìn quanh, săm soi những gương mặt phía sau mình.

“Ông ấy đã đi rồi”, cô nhân viên nói, “nhưng ông ấy muốn chúng tôi trao cho bà thứ này”. Cô ấy đưa cho Elizabeth một tờ giấy gấp lại.

Elizabeth run run mở tờ giấy và đọc lời nhắn viết bằng tay.

Đó là một câu trích nổi tiếng rút ra từ tác phẩm của Dante Alighieri.

“Những nơi tăm tối nhất của địa ngục

dành riêng cho những kẻ

giữ thái độ trung dung

trong những thời kỳ khủng hoảng đạo đức.”
XEM TIEP CHUONG http://truyenhiepsi.blogspot.com

Blog Truyện Hiệp Sĩ

truyenhiepsi

Truyện được sưu tầm chia sẻ trên các web miễn phí...

Tìm Kiếm Truyện

Theo dõi blog!

Nhận bài viết mới qua email. Chỉ cần nhập địa chỉ email của bạn dưới đây nếu bạn muốn đăng ký!