Tác giả: Dan Brown
--39--
Marta Alvarez mỏi mệt ngước nhìn cầu thang dốc đứng dẫn từ Sảnh Năm trăm lên bảo tàng trên tầng hai.
Mình có thể làm được mà, cô ấy tự nhủ.
Là nhân viên quản lý văn hóa và nghệ thuật tại Cung điện Vecchio, Marta đã leo lên cầu thang này không biết bao nhiêu lần, nhưng gần đây, khi đã mang thai hơn tám tháng, việc leo lên cầu thang này trở nên nhọc nhằn hơn rất nhiều.
“Marta, chị có chắc chúng ta không cần đi cầu thang máy không?” Robert Langdon nhìn đầy vẻ quan tâm và ra hiệu về phía buồng thang máy nhỏ gần đó, được bảo tàng lắp đặt dành cho những vị khách tàn tật.
Marta mỉm cười biết ơn nhưng lắc đầu. “Tôi đã nói với anh tối qua, bác sĩ của tôi nói việc tập luyện rất tốt cho đứa bé. Thêm nữa, thưa giáo sư, tôi biết anh sợ bị nhốt trong không gian chật hẹp.”
Langdon giật mình trước câu nói của cô ấy. “Ồ, vâng. Tôi quên mất mình đã nói đến chuyện đó.”
Quên mất đã nói đến chuyện đó ư? Marta bối rối. Mới chưa đầy mười hai giờ trước, và chúng ta đã thảo luận rất lâu về sự cố thời niên thiếu để lại tâm lý sợ hãi đó cơ mà.
Đêm qua, trong khi người bạn đồng hành phục phịch mắc lắm bệnh của Langdon, ngài Tiểu Mái vòm, lên gác bằng thang máy thì Langdon hộ tống Marta đi bộ. Trên đường đi, Langdon đã kể lại cho cô ấy câu chuyện khó quên về sự cố bị ngã xuống cái giếng hoang khi còn nhỏ và việc này khiến anh mắc chứng sợ những không gian chật chội.
Lúc này, cô em gái của Langdon vượt lên phía trước, túm tóc đuôi ngựa vàng óng của cô lúc lắc sau lưng, trong khi đó, Langdon và Marta từ từ đi lên, dừng lại vài lần để cô ấy có thể lấy lại nhịp thở. “Tôi ngạc nhiên là anh muốn nhìn lại cái mặt nạ”, cô ấy nói. “Trong tất cả các tác phẩm ở Florence, thứ này có vẻ ít thú vị nhất.”
Langdon nhún vai vẻ lấp lửng. “Tôi quay lại chủ yếu để Sienna được ngắm nó. Nhân tiện, cảm ơn chị vì đã cho chúng tôi vào đây lần nữa.”
“Dĩ nhiên là thế rồi.”
Xét ra thì danh tiếng của Langdon chắc chắn cũng đủ để tối qua thuyết phục Marta mở phòng trưng bày, nhưng thực tế anh có ngài Tiểu Mái vòm đi cùng có nghĩa là cô ấy thật sự không có lựa chọn nào khác.
Ignazio Busoni – người mang biệt danh ngài Tiểu Mái vòm – là một nhân vật tiếng tăm trong giới văn hóa ở Florence. Là giám đốc lâu năm của Museo dell’s Opera del Duomo, Ignazio giám sát tất cả lĩnh vực của di tích nổi bật nhất Florence này – Il Duomo – Vương cung Thánh đường có mái vòm màu đỏ đồ sộ nổi bật cả trong lịch sử cũng như cảnh quan của Florence. Niềm đam mê của ông ấy dành cho các danh thắng, kết hợp với trọng lượng cơ thể ngót trăm cân và khuôn mặt đỏ như gà chọi khiến ông được gắn cái biệt danh rất đôn hậu là ngài Tiểu Mái vòm – II Duomino.
Marta không biết Langdon quen thân với ngài Tiểu Mái vòm như thế nào, nhưng ông ấy gọi cho cô chiều hôm qua và nói muốn đưa một vị khách kín đáo tới xem chiếc mặt nạ người chết của Dante. Khi biết vị khách bí mật hóa ra chính là người biểu tượng học kiêm sử gia nghệ thuật người Mỹ nổi tiếng Robert Langdon, Marta cảm thấy hơi kích động vì có cơ hội dẫn hai nhân vật nổi tiếng này vào khu trưng bày của cung điện.
Khi họ lên đến đỉnh cầu thang, Marta đặt tay lên hông, thở thật sâu. Sienna đã đứng bên lan can ban công, nhìn xuống Sảnh Năm trăm.
“Vị trí tôi rất thích để quan sát căn phòng”, Marta thở hổn hển. “Cô có góc nhìn hoàn toàn khác đối với các bức bích họa. Tôi nghĩ anh trai cô đã kể cho cô nghe về thông điệp bí ẩn giấu trong bức tranh kia phải không?” Cô ấy chỉ tay.
Sienna sốt sắng gật đầu. “Cerca trova.”
Trong khi Langdon nhìn về phía gian phòng, Marta quan sát anh. Nhờ ánh sáng của những ô cửa sổ gác lửng, cô ấy không thể không nhận ra Langdon trông không ấn tượng như tối qua. Cô thích bộ cánh mới của anh, nhưng anh cần cạo râu. Gương mặt anh có vẻ xanh xao và mệt mỏi. Thêm nữa, đầu tóc anh, tối qua vốn dày và tươm tất, sáng nay trông rất tệ, như thể anh vẫn chưa tắm gội.
Marta quay lại phía bức bích họa trước khi anh nhận ra ánh mắt cô. “Chúng ta đang đứng gần như cùng độ cao với cerca trova “, Marta nói. “Các vị có thể nhìn thấy mấy chữ đó bằng mắt thường.”
Cô em gái của Langdon tỏ ra dửng dưng với bức bích họa. “Kể cho tôi nghe về cái mặt nạ người chết của Dante đi. Tại sao nó lại ở Cung điện Vecchio này?”
Anh nào, em nấy, Marta nghĩ và lầm bầm trong bụng, vẫn không hiểu tại sao cái mặt nạ lại khiến họ say sưa đến vậy. Cái mặt nạ người chết của Dante có một lịch sử rất lạ lùng, đặc biệt là gần đây, và Langdon không phải là người đầu tiên hứng thú gần như phát rồ với nó. “Chà, nói tôi xem cô biết gì về Dante?”
Cô gái trẻ tóc vàng xinh đẹp nhún vai. “Thì cũng chỉ những điều mọi người học ở trong trường thôi. Dante là thi sĩ người Ý nổi tiếng nhất với tác phẩm Thần khúc, mô tả chuyến đi tưởng tượng của ông qua địa ngục.”
“Mới đúng một phần”, Marta đáp. “Trong trường ca, rốt cuộc Dante cũng thoát khỏi địa ngục, đi qua luyện ngục và cuối cùng đến được thiên đường. Nếu cô đã từng đọc Thần khúc, cô sẽ thấy hành trình của ông được chia thành ba phần – Hỏa Ngục, Luyện ngục và Thiên đường.” Marta ra hiệu cho họ theo cô đi dọc ban công về phía lối vào bảo tàng. “Thế nhưng, lý do chiếc mặt nạ nằm tại Cung điện Vecchio chẳng liên quan gì đến Thần khúc cả. Nó gắn với thực tiễn lịch sử. Dante sống ở Florence, và ông rất yêu thành phố này. Ông là một công dân Florence xuất chúng và quyền thế, nhưng khi diễn ra thay đổi về quyền lực chính trị, Dante đã ủng hộ nhầm phe, cho nên ông bị trục xuất ra khỏi tường thành và cấm không bao giờ được trở về.”
Marta dừng lại để thở khi họ đến gần lối vào bảo tàng. Cô lại đặt tay lên hông, ngả ra sau và tiếp tục nói. “Một số người cho rằng việc bị trục xuất là lý do vì sao mặt nạ người chết của Dante lại buồn như vậy, nhưng tôi có một giả thuyết khác. Tôi hơi lãng mạn, và tôi nghĩ rằng gương mặt buồn rầu liên quan đến một phụ nữ có tên Beatrice nhiều hơn. Các vị thấy đấy, Dante dành cả đời mình yêu điên cuồng một thiếu phụ tên là Beatrice Portinari. Nhưng buồn thay, Beatrice lại cưới một người đàn ông khác, nghĩa là Dante không những phải sống trong cảnh xa thành Florence yêu dấu của mình, mà còn phải rời xa cả người phụ nữ ông yêu say đắm. Tình yêu của ông dành cho Beatrice trở thành chủ đề chính trong Thần khúc.”
“Hay quá”, Sienna nói với giọng điệu cho thấy cô chẳng nhập tâm lấy một từ. “Nhưng tôi vẫn chưa rõ tại sao cái mặt nạ người chết lại được cất ở cung điện này?”
Marta nhận thấy việc nhấn đi nhấn lại này của cô gái trẻ vừa lạ thường vừa gần như bất lịch sự. “Chà”, cô tiếp tục trong khi bước đi, “khi Dante mất, ông vẫn bị cấm không được về Florence, và xác ông được an táng tại Ravenna. Nhưng vì người yêu đích thực của ông, Beatrice, được chôn cất ở Florence và vì Dante yêu Florence đến vậy nên việc mang mặt nạ người chết của ông đến đây giống như là một lễ vật từ tâm dành cho ông”.
“Tôi hiểu rồi”, Sienna nói. “Thế còn việc chọn tòa cung điện này?”
“Cung điện Vecchio là biểu tượng lâu đời nhất của Florence, và ở thời Dante, đây là trung tâm của thành phố. Thực tế, có một bức vẽ nổi tiếng trong thánh đường mô tả Dante đứng bên ngoài tường thành phố, bị trục xuất, trong khi nhìn rõ ở hậu cảnh là tòa tháp cung điện yêu dấu của ông. Xét theo nhiều khía cạnh, bằng cách cất mặt nạ người chết của ông ấy ở đây, chúng ta cảm thấy như cuối cùng Dante cũng được trở về nhà.”
“Hay quá”, Sienna nói, cuối cùng cũng có vẻ thỏa lòng. “Cảm ơn chị!”
Marta đến cửa bảo tàng và gõ ba lần. “Tôi, Marta đây! Chúc một buổi sáng tốt lành!”
Có tiếng chìa khóa lạch cạch phía trong và cánh cửa mở ra. Một nhân viên bảo vệ già mỉm cười mỏi mệt với cô ấy và kiểm tra đồng hồ đeo tay của mình. “Hơi sớm đấy”, ông ấy mỉm cười nói.
Marta vừa giải thích vừa ra hiệu về phía Langdon, và ông bảo vệ lập tức tươi cười nét mặt. “Chào ngài! Chào mừng trở lại đây!”
“Chào bác!”, Langdon đáp lại rất thân thiện trong khi ông bảo vệ ra hiệu cho tất cả vào trong.
Họ băng qua một gian phòng nhỏ, nơi ông bảo vệ ngắt hệ thống an ninh rồi mở cánh cửa thứ hai nặng nề hơn. Khi cửa mở ra, ông ấy bước sang bên, dang tay ra mời chào. “Xin mời vào bảo tàng!”
Marta mỉm cười cảm ơn và dẫn các vị khách vào trong.
Không gian dùng làm bảo tàng này ban đầu được thiết kế làm nơi làm việc của chính quyền, tức là thay vì là một không gian trưng bày ngổn ngang, nó là một mê cung gồm các gian phòng có diện tích vừa phải cùng rất nhiều hành lang, tất cả choán lấy nửa tòa nhà.
“Mặt nạ người chết của Dante ở góc kia thôi”, Marta nói với Sienna. “Nó được trưng bày trong một không gian hẹp gọi là hành lang, đúng ra chỉ là một lối đi giữa hai gian phòng lớn hơn. Cái mặt nạ được cất trong một tủ đồ cổ đặt chìm trong bức tường bên nên không dễ nhận ra cho tới khi các vị tới gần nó. Vì lý do này, có nhiều khách tham quan đi qua cái mặt nạ mà không hề chú ý đến nó!”
Langdon sải bước nhanh hơn, mắt nhìn thẳng về phía trước, cứ như thể cái mặt nạ có một sức mạnh lạ lùng gì đó tác động đến anh. Marta huých Sienna và thì thào, “Rõ ràng anh trai cô không hề quan tâm đến bất kỳ vật nào khác của chúng tôi, nhưng chừng nào cô đã đến đây thì đừng bỏ qua bức tượng bán thân Machiavelli hay quả cầu Mappa Mundi trong Phòng Bản đồ”.
Sienna gật đầu lịch thiệp và vẫn bước đi, mắt cô cũng nhìn thẳng về phía trước, Marta khó khăn lắm mới theo kịp. Khi họ đến gian phòng thứ ba, cô ấy đã tụt lại sau một chút và cuối cùng đành dừng lại.
“Giáo sư?”, cô ấy gọi to, thở hổn hển. “Anh… có muốn cho em gái anh xem… thứ gì đó của phòng trưng bày… trước khi chúng ta xem cái mặt nạ này không?”
Langdon quay lại, có vẻ bối rối, như thể vừa trở lại hiện tại từ một ý nghĩ xa xăm nào đó. “Xin lỗi chị nói gì cơ?”
Marta thở không ra hơi, chỉ vào một tủ trưng bày gần đó. “Một trong những… bản in lâu đời nhất cuốn Thần khúc?”
Khi nhìn thấy Marta thấm mồ hôi trên trán và cố gắng lấy lại nhịp thở, Langdon có vẻ xấu hổ. “Chị Marta, thứ lỗi cho tôi! Dĩ nhiên rồi, vâng, xem nhanh văn bản đó cũng rất thú vị.”
Langdon vội vã quay lại, để Marta hướng dẫn họ tới chỗ chiếc tủ cổ. Bên trong là một cuốn sách bọc da đã sờn, mở đến trang nhan đề rất hoa mỹ: La Divina Commedia: Dante Alighieri.
“Tuyệt vời”, Langdon thốt lên, đầy kinh ngạc. “Tôi nhận ra trang đầu sách. Tôi không biết các vị lại có một ấn bản Numeister gốc.”
Dĩ nhiên anh biết rõ mà, Marta nghĩ bụng, vẻ khó hiểu. Tôi đã cho anh xem hiện vật này tối hôm qua!
“Giữa thế kỷ XV”, Langdon nói vội với Sienna, “Johann Numeister đã tạo ra bản sách in đầu tiên của tác phẩm này. Vài trăm bản được in ra, nhưng chỉ còn khoảng chục bản. Chúng rất hiếm”.
Giờ thì Marta hiểu rằng Langdon đang cố tình giả ngây giả ngốc để có thể ra vẻ ta đây với cô em gái của mình. Việc đó dường như không hay ho cho lắm với một vị giáo sư có tiếng là khiêm tốn trong giới học thuật.
“Bản sách này mượn từ Thư viện Laurentia”, Marta kể. “Nếu cô và Robert chưa từng ghé thăm nơi đó thì rất nên đến ngay đi. Họ có hẳn một cầu thang đặc biệt do chính Michelangelo thiết kế, là lối lên phòng đọc công cộng đầu tiên trên thế giới. Sách ở đó còn được xích luôn vào ghế ngồi để không ai có thể lấy mang đi được. Dĩ nhiên, nhiều cuốn sách chỉ là các bản sao thôi.”
“Tuyệt vời”, Sienna nói, mắt ngó sâu hơn vào thư viện. “Lối này tới chỗ cái mặt nạ phải không?”
Sao phải nôn nóng thế nhỉ? Marta cần thêm một phút nữa để lấy lại nhịp thở. “Vâng, nhưng có thể hai vị muốn nghe chi tiết này.” Cô ấy chỉ tay qua hốc tường về phía một cầu thang nhỏ mất hút lên trần nhà. “Lối đó dẫn lên một sàn quan sát trên mái, nơi các vị có thể nhìn xuống trần treo nổi tiếng của Vasari. Tôi rất sẵn sàng đợi ở đây nếu các vị muốn…”
“Nào, chị Marta”, Sienna vọt miệng. “Tôi rất muốn xem cái mặt nạ. Chúng tôi không có nhiều thời gian.”
Marta đăm đăm nhìn người phụ nữ trẻ xinh xắn, vẻ khó hiểu. Cô rất không thích việc người chưa quen biết nhiều gọi nhau bằng tên riêng. Tôi là Bà Alvarez, cô thầm mắng. Và tôi đang đặc cách với các vị đấy.
“Được rồi, Sienna”, Marta sẵng giọng. “Cái mặt nạ ngay lối này thôi.”
Marta chẳng phí thời gian kể lể thêm cho Langdon và cô em gái của anh trong lúc họ đi qua dãy các phòng trưng bày để tới chỗ cái mặt nạ. Đêm qua, Langdon và Tiểu Mái vòm đã dành gần nửa tiếng trong khu vực hành lang chật hẹp để quan sát chiếc mặt nạ rồi, Marta, vốn rất tò mò trước vẻ sốt sắng của hai người đàn ông với món đồ đó, nên đã hỏi xem thái độ quan tâm ấy của họ có liên quan gì đến một loạt sự kiện bất thường xung quanh cái mặt nạ trong năm qua không. Langdon và Tiểu Mái vòm tỏ ra bối rối và không trả lời rõ ràng.
Giờ đây, trong lúc họ tiến tới hành lang, Langdon bắt đầu giải thích cho cô em gái quy trình đơn giản thường áp dụng để tạo ra một cái mặt nạ người chết. Marta thích thú nghe những mô tả cực kỳ chính xác của anh, không như lời thừa nhận không thật của anh rằng anh chưa từng nhìn thấy bản sao hiếm có cuốn Thần khúc của bảo tàng.
“Ngay sau khi có người qua đời”, Langdon mô tả, “người chết được tẩm liệm, mặt được phủ một lớp dầu ô liu. Sau đó, da được đắp một lớp thạch cao ướt, phủ kín mọi thứ - miệng, mũi, mi mắt – từ chân tóc xuống đến cổ. Khi lớp thạch cao đã cứng lại, có thể dễ dàng nhấc nó ra và sử dụng như một cái khuôn để đổ thạch cao mới vào. Chỗ thạch cao này khô lại thành một bản sao chi tiết hoàn hảo đúng với khuôn mặt người quá cố. Tục này đặc biệt phổ biến khi muốn tưởng nhớ những nhân vật lỗi lạc và thiên tài – Dante, Shakespeare, Voltaire, Tasso, Keats – tất cả họ đều có mặt nạ người chết”.
“Cuối cùng chúng ta cũng đến đây”. Marta nói khi cả ba người đến bên ngoài hành lang. Cô ấy bước sang bên và ra hiệu cho em gái của Langdon vào trước nhất. “Cái mặt nạ nằm trong tủ trưng bày dựa vào bức tường bên trái cô. Chúng ta đề nghị các vị vui lòng ở ngoài khu vực rào chắn.”
“Cảm ơn chị!” Sienna bước vào hành lang hẹp đi về phía tủ trưng bày, và ngó vào bên trong. Mắt cô lập tức mở to, và cô ngó lại nhìn anh trai với vẻ khiếp đảm.
Marta đã nhìn thấy phản ứng này cả nghìn lần. Các vị khách tới đây thường đều nhảy dựng lên và lùi ngược lại khi lần đầu tiên nhìn thấy cái mặt nạ - bộ mặt nhăn nhúm một cách kỳ dị, cái mũi khoằm và đôi mắt nhắm nghiền của Dante.
Langdon sải bước tiến vào ngay sau Sienna, đến bên cạnh cô và nhìn vào trong tủ trưng bày. Anh lập tức lùi lại, gương mặt anh cũng toát lên vẻ kinh ngạc.
Marta càu nhàu. Lại làm màu làm mè rồi. Cô vào theo họ. Nhưng khi ngó vào tủ, cô cũng há hốc miệng kêu thành tiếng rất to. Ôi lạy Chúa!
Marta Alvarez cứ ngỡ sẽ nhìn thấy cái mặt nạ người chết quen thuộc của Dante nhìn lại mình, nhưng không phải, tất cả những gì cô nhìn thấy là lớp vải sa tanh màu đỏ của cái tủ và cái giá nơi vẫn thường đặt mặt nạ.
Marta bưng miệng và kinh hãi nhìn tủ trưng bày trống rỗng. Nhịp thở của cô tăng nhanh và cô phải bám lấy một trụ rào để đứng vững. Cuối cùng, ánh mắt cô rời khỏi cái tủ trống trơn và xoay về phía những người bảo vệ gác đêm ở lối vào chính.
“Cái mặt nạ của Dante!”, cô hét lên như một ả điên. “Cái mặt nạ của Dante đã biến mất!”
--40--
Marta Alvarez run rẩy trước cái tủ trưng bày trống trơn. Cô hy vọng cảm giác căng thẳng đang lan khắp bụng chỉ là tâm lý hoảng sợ chứ không phải là cơn đau đẻ.
Cái mặt nạ người chết của Dante đã biến mất!
Hai nhân viên bảo vệ lúc này đã biết sự việc và vừa vào hành lang, nhìn cái tủ trống trơn, và lập tức hành động. Một người chạy tới phòng kiểm soát video gần đó để truy cập vào đoạn phim từ máy quay an ninh đêm qua, trong khi người kia vừa kết thúc cuộc gọi cho cảnh sát báo mất trộm.
“Cảnh sát sẽ đến sau hai mươi phút nữa!”, anh ta nói với Marta và ngắt cuộc gọi với cảnh sát.
“Hai mươi phút nữa cơ à?”, cô ấy hỏi lại. “Chúng ta có một vụ trộm nghệ thuật nghiêm trọng đấy.”
Người bảo vệ giải thích rằng anh ta được biết hầu hết cảnh sát trong thành phố hiện đang giải quyết một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng hơn nhiều, và họ đang cố gắng tìm một nhân viên còn rảnh đến để lấy lời khai.
“Vẫn còn gì nghiêm trọng hơn cơ à?”, cô ấy thắc mắc.
Langdon và Sienna liếc nhìn nhau lo lắng, và Marta cảm thấy hai vị khách của mình đang bị quá tải về cảm xúc. Chẳng có gì lạ cả! Đơn giản là họ muốn ghé qua để chiêm ngưỡng chiếc mặt nạ nhưng lúc này, họ phải chứng kiến hậu quả của một vụ trộm cắp nghệ thuật ghê gớm. Đêm qua, bằng cách nào đó, có kẻ đã tiếp cận được phòng trưng bày và đánh cắp cái mặt nạ người chết của Dante.
Marta biết trong bảo tàng có nhiều đồ vật còn giá trị hơn thế, cho nên cô cố gắng tự trấn an rằng như vậy vẫn còn may mắn. Thế nhưng, đây là vụ trộm cắp đầu tiên trong lịch sử bảo tàng này. Mình thậm chí không biết quy trình xử lý!
Marta đột nhiên cảm thấy yếu đuối hẳn, và cô phải tiến lại bám vào một cột rào chống.
Cả hai nhân viên bảo vệ phòng trưng bày đều có vẻ hoang mang khi họ kể lại cho Marta nghe chính xác những hành động của họ cùng các sự việc đêm qua: Lúc 10 giờ, Marta vào đây cùng với Tiểu Mái vòm và Langdon. Một lúc không lâu sau đó, cả ba người cùng nhau đi ra. Nhân viên bảo vệ đã khóa mọi cánh cửa lại, cài đặt chế độ báo động, và theo như họ biết, không hề có ai ở trong hay bên ngoài phòng trưng bày kể từ lúc đó.
“Không thể nào!”, Marta gắt lên bằng tiếng Ý. “Cái mặt nạ nằm ở trong tủ khi cả ba chúng tôi rời khỏi đó tối qua, cho nên rõ ràng có ai đã ở bên trong phòng trưng bày kể từ lúc ấy!”
Mấy nhân viên bảo vệ đều ngơ ngác. “Chúng tôi không hề nhìn thấy gì cả!”
Giờ này, cảnh sát đang trên đường tới hiện trường, Marta cố gắng vác cái bụng bầu của mình di chuyển thật nhanh tới phòng điều khiển an ninh. Langdon và Sienna lo lắng bám sát sau cô ấy.
Đoạn video an ninh, Marta nghĩ bụng. Nó sẽ cho chúng ta biết đích xác kẻ nào ở đây tối qua!
Cách đó ba dãy nhà, trên cầu Ponte Vecchio, Vayentha lần vào chỗ khuất khi hai sĩ quan cảnh sát lách qua đám đông, rà soát toàn bộ khu vực cùng ảnh của Langdon.
Khi họ tới gần Vayentha, bộ đàm của một người lạo xạo lên tiếng – một thông báo định kỳ cho tất cả các chốt. Nội dung thông báo ngắn gọn bằng tiếng Ý, nhưng Vayentha vẫn nắm được ý chính: Bất kỳ sĩ quan nào rảnh trong khu vực Cung điện Vecchio đều phải thông báo để tới lấy lời khai tại cung điện bảo tàng này.
Mấy viên cảnh sát tỏ ra do dự, còn tai Vayentha thì vềnh lên.
Bảo tàng cung điện Vecchio ư?
Vụ thất bại tối qua – sự cố đã hủy hoại sự nghiệp của ả - diễn ra trong những ngõ phố ngay bên ngoài Cung điện Vecchio.
Thông báo của phía cảnh sát vẫn tiếp tục bằng tiếng Ý đầy âm thanh nhiễu đến mức không hiểu nổi, ngoại trừ hai từ nghe rất rõ ràng. Cái tên Dante Alighieri.
Cơ thể ả lập tức căng cứng. Dante Alighieri ư?! Chắc chắn đây không phải là sự trùng hợp. Ả xoay người về phía Cung điện Vecchio và định vị tòa tháp có lỗ châu mai vượt lên trên mái của các tòa nhà gần đó.
Chính xác thì đã có chuyện gì xảy ra ở bảo tàng? Ả thắc mắc. Và từ khi nào?!
Gạt các tình tiết sang bên, Vayentha từng làm chuyên gia phân tích hiện trường đủ lâu để biết rằng khả năng trùng hợp hiếm xảy ra hơn rất nhiều so với hầu hết mọi người hình dung. Bảo tàng Cung điện Vecchio… Và Dante? Chắc chắn chuyện này phải có liên quan tới Langdon.
Vayentha từ lâu đã nghi ngờ rằng Langdon sẽ quay lại thành cổ. Chỉ có việc đó mới hợp lý – thành cổ là nơi Langdon có mặt tối hôm qua khi mọi thứ thất bại.
Lúc này, dưới ánh sáng ban ngày, Vayentha tự hỏi Langdon làm cách nào quay lại được khu vực xung quanh Cung điện Vecchio để cố tìm kiếm thứ gì đó. Có rất nhiều cây cầu, nhưng có vẻ chúng đều cách xa vườn Boboli.
Bên dưới, ả chú ý tới một nhóm chèo thuyền bốn người đang lướt trên mặt nước và đi qua phía dưới cầu. Trên thân thuyền có dòng chữ CÂU LẠC BỘ CHÈO THUYỀN FLORENCE / SOCIETÀ CANOT-TIERI FIRENZE. Những mái chèo trắng-đỏ nổi bật của con thuyền vung lên rồi hạ xuống đều tăm tắp.
Lẽ nào Langdon đã đi thuyền qua sông? Có vẻ điều đó không đúng, nhưng có gì đó mách bảo ả rằng nội dung thông báo của cảnh sát về Cung điện Vecchio là một manh mối ả cần chú ý.
“Xin vui lòng để lại tất cả máy ảnh!” một phụ nữ nói bằng thứ tiếng Anh giọng Ý.
Vayentha quay lại, thấy một quả cầu tua rua bằng len màu cam có xếp nếp đang vẫy trên cây gậy trong khi một nữ hướng dẫn viên du lịch cố gắng dẫn nhóm du khách của mình vượt qua cầu Ponte Vecchio.
“Trên đầu quý vị là kiệt tác lớn nhất của Vasari!”, cô hướng dẫn viên nói bằng vẻ nhiệt thành được rèn luyện kỹ, giơ quả cầu len lên không và hướng ánh mắt của tất cả mọi người lên trên.
Vayentha không hề chú ý về hướng này trước đó, nhưng có vẻ đó là một cấu trúc nhà ở tầng hai chạy phía trên các cửa hàng giống như một tòa chung cư hẹp vậy.
“Hành lang Vasari”, cô hướng dẫn viên nói. “Nó dài gần một cây số và là lối đi an toàn cho gia tộc Medici di chuyển giữa Cung điện Pitti và Cung điện Vecchio.”
Mắt Vayentha mở to lúc ả nhìn công trình kiến trúc như đường hầm phía trên đầu. Ả đã nghe nói về hành lang này, nhưng không biết nhiều về nó.
Nó dẫn thẳng tới cung điện Vecchio ư?
“Với một số rất ít ỏi những nhân vật quan trọng”, cô hướng dẫn viên tiếp tục, “thậm chí ngày nay họ vẫn có thể tiếp cận hành lang này. Đó là một bảo tàng nghệ thuật kỳ vĩ chạy dài suốt lộ trình từ Cung điện Vecchio tới góc đông bắc vườn Boboli”.
Những gì cô hướng dẫn viên nói tiếp sau đó, Vayentha không còn nghe nữa.
Ả đã lao bổ về phía chiếc mô tô của mình.
--41--
Những vết khâu trên da đầu Langdon lại giật nhoi nhói khi anh và Sienna chen nhau vào phòng điều khiển video cùng với Marta và hai nhân viên bảo vệ. Không gian chật chội này tương đương một cái buồng thay lễ phục được cải tạo lại cùng với cả dãy ổ cứng đang chạy ro ro và các màn hình máy tính. Không khí bên trong nóng đến ngột ngạt và sặc mùi khói thuốc lá hôi rình.
Langdon lập tức cảm thấy những bức tường đang đóng sập lại xung quanh mình.
Marta ngồi xuống trước màn hình video đang ở chế độ chạy lại và hiển thị một hình ảnh đen trắng rất nhiễu của khu vực hành lang, góc quay từ phía trên cửa. Thời gian hiển thị trên màn hình cho biết đoạn phim được truyền tín hiệu từ giữa buổi sáng hôm qua – chính xác là hai mươi tư giờ trước – rõ ràng là trước khi bảo tàng mở cửa và rất lâu trước khi Langdon cùng vị Tiểu Mái vòm bí ẩn xuất hiện vào tối hôm đó.
Anh chàng bảo vệ tua nhanh đoạn video, và Langdon nhìn thấy cả đoàn du khách ào ào kéo vào hành lang, di chuyển giật cục rất nhanh. Từ góc nhìn này, không thể thấy được chiếc mặt nạ, nhưng rõ ràng nó vẫn nằm trong tủ trưng bày vì du khách liên tục dừng lại để nhìn vào trong hoặc chụp ảnh trước khi di chuyển tiếp.
Làm ơn nhanh lên nào, Langdon nghĩ thầm, vì biết rõ cảnh sát đang trên đường tới. Anh băn khoăn không rõ anh và Sienna có nên cáo lỗi và rút lui không, nhưng họ cần xem đoạn video này bởi bất kỳ điều gì trên đoạn ghi hình này cũng sẽ trả lời cho rất nhiều câu hỏi liên quan đến chuyện quái quỷ đang diễn ra lúc này.
Đoạn video vẫn tiếp tục chạy, giờ nhanh hơn, và bóng chiều tà bắt đầu di chuyển ngang qua gian phòng. Khách du lịch ra vào cho tới khi đám đông bắt đầu thưa dần, và rồi đột ngột biến mất hoàn toàn. Khi thời gian ghi trên hình vượt qua 17 giờ, đèn đóm của bảo tàng đều tắt, và tất cả chìm vào im lặng.
5 giờ chiều. Giờ đóng cửa.
“Cho chạy nhanh lên đi”, Marta yêu cầu, nhổm người về phía trước và chăm chú nhìn lên màn hình.
Anh chàng bảo vệ cho đoạn video chạy tiếp, mốc thời gian trôi rất nhanh, đột ngột cho tới lúc 10 giờ tối, đèn trong bảo tàng nhấp nháy sáng lên.
Anh chàng bảo vệ vội cho đoạn băng chậm lại tốc độ bình thường.
Một lúc sau, cái dáng bụng bầu quen thuộc của Marta Alvarez xuất hiện trong hình. Theo sát cô ấy là Langdon, bước vào trong chiếc áo khoác hiệu Harris Tweed Camberley, quần khaki, và đôi giày da lười quen thuộc. Anh thậm chí còn nhìn rõ chiếc đồng hồ Chuột Mickey của mình lấp ló bên dưới ống tay áo trong lúc di chuyển.
Mình ở đó… trước khi bị bắn.
Langdon cảm thấy cực kỳ lo ngại khi nhìn chính mình đang làm mọi việc mà anh hoàn toàn không nhớ tí gì. Mình đã ở đây tối qua… quan sát cái mặt nạ người chết ư? Bằng cách nào đó, trong khoảng thời gian từ lúc đó đến giờ, anh lại để mất quần áo, chiếc đồng hồ Chuột Mickey và hai ngày trong đời mình.
Khi đoạn video tiếp tục chạy, anh và Sienna chen nhau lại gần sát phía sau Marta và những nhân viên bảo vệ để nhìn cho rõ hơn. Đoạn phim không tiếng tiếp tục, cho thấy Langdon và Marta đến bên tủ trưng bày và ngắm chiếc mặt nạ. Trong lúc đó, một cái bóng to lớn hiện ra tối sầm cả ô cửa đằng sau anh, và một người đàn ông to béo xuất hiện trong khuôn hình. Ông ta mặc bộ đồ màu nâu nhạt, tay xách cặp, và chật vật lắm mới lách được qua cửa. Cái bụng to phưỡn của ông ta thậm chí làm cho bà bầu Marta cũng trở nên thon thả.
Langdon nhận ra người đàn ông này ngay lập tức. Ignazio thì phải?!
“Đó là ông Ignazio Busoni”, Langdon thì thào vào tai Sienna. “Giám đốc của Museo dell’Opera del Duomo. Một người quen của tôi đã vài năm rồi. Chỉ có điều tôi chưa từng nghe nói ông ấy được gọi là Tiểu Mái vòm.”
“Cái tên quá hợp”, Sienna khẽ đáp.
Vài năm qua, Langdon đã tư vấn cho Ignazio về các hiện vật và lịch sử liên quan đến Il Duomo – Vương cung Thánh đường do ông ấy chịu trách nhiệm – nhưng tham quan Cung điện Vecchio có vẻ nằm ngoài lĩnh vực của Ignazio. Dẫu sao, Ignazio Busoni, ngoài việc là một nhân vật có ảnh hưởng trong giới nghệ thuật Florence, còn là một học giả rất mê Dante.
Một nguồn thông tin đáng tin cậy về cái mặt nạ người chết của Dante.
Khi tập trung trở lại với đoạn video, Langdon nhìn thấy Marta đang kiên trì đợi ở bức tường hậu của hành lang trong khi anh và Ignazio nghiêng người phía trên rào chắn để có thể nhìn gần chiếc mặt nạ nhất. Trong khi hai người đàn ông tiếp tục xem xét và thảo luận kéo dài vài phút, có thể nhìn rõ Marta sốt ruột xem đồng hồ đeo tay ở phía sau lưng họ.
Langdon ước gì đoạn video an ninh có cả âm thanh. Không biết mình và Ignazio nói những gì? Mình và ông ấy tìm kiếm cái gì?
Vừa lúc ấy, trên màn hình, Langdon bước qua rào chắn và cúi sát xuống chiếc tủ, mặt anh chỉ cách lớp kính vài phân. Marta lập tức can thiệp, rõ ràng nhắc nhở và Langdon lùi lại với thái độ biết lỗi.
“Xin lỗi vì tôi khắt khe như vậy”, Marta lên tiếng, liếc mắt qua vai nhìn lại anh. “Nhưng như tôi đã nói với các vị, cái tủ trưng bày là đồ cổ và cực kỳ mỏng manh. Chủ nhân của chiếc mặt nạ kiên quyết yêu cầu chúng tôi bắt mọi người phải đứng sau rào chắn. Ông ấy thậm chí còn không cho nhân viên của chúng tôi mở tủ khi ông ấy vắng mặt.”
Phải mất một lúc những lời nói của cô ấy mới được lĩnh hội. Chủ nhân của chiếc mặt nạ ư? Langdon cứ đinh ninh chiếc mặt nạ là tài sản của bảo tàng.
Sienna cũng ngạc nhiên không kém và lập tức xen vào. “Hóa ra bảo tàng không sở hữu chiếc mặt nạ à?”
Marta lắc đầu, đưa mắt trở lại màn hình. “Một nhà tài trợ giàu có đã đặt mua chiếc mặt nạ người chết của Dante từ bộ sưu tập của chúng tôi nhưng để nó trưng bày vĩnh viễn ở đây. Ông ấy ra giá cho mượn rất thấp, và chúng tôi vui vẻ chấp thuận.”
“Khoan đã”, Sienna lên tiếng. “Ông ấy trả tiền mua mặt nạ… và để các vị giữ nó?”
“Thỏa thuận như vậy rất phổ biến”, Langdon nói. “Kết hợp từ thiện mà – một cách cho các nhà tài trợ đem những khoản trợ cấp cho bảo tàng mà không cần nêu rõ món quà là đồ từ thiện.”
“Nhà tài trợ đó là một người khác thường”, Marta nói. “Một học giả thiên tài về Dante, nhưng hơi… nói thế nào nhỉ… cuồng?”
“Ông ấy là ai?”, Sienna hỏi, giọng điệu hờ hững của cô vẫn không giấu được vẻ khẩn trương.
“Ai à?”, Marta cau mày, vẫn đăm đăm nhìn màn hình. “Chà, có lẽ cô đã đọc về ông ấy trong các bản tin gần đây – tỉ phú người Thụy Sĩ Bertrand Zobrist?”
Với Langdon, các tên chỉ láng máng quen, nhưng Sienna túm vội lấy cánh tay Langdon và bóp mạnh, trông như thể cô vừa nhìn thấy ma.
“Ồ, vâng…”, Sienna ngắc ngứ, mặt xám ngoét. “Bertrand Zobrist. Nhà sinh hóa nổi tiếng. Kiếm bộn tiền nhờ các bằng sáng chế sinh học khi tuổi đời còn rất trẻ.” Cô ngừng lại, nuốt khan. Cô nghiêng người và thì thầm với Langdon. “Về cơ bản Zobrist đã sáng chế ra lĩnh vực điều khiển chuỗi phôi.”
Langdon không hiểu điều khiển chuỗi phôi nghĩa là gì, nhưng nó có vẻ rất đáng ngại, đặc biệt là gần đây lại xuất hiện những hình ảnh liên quan đến dịch hạch và chết chóc. Anh tự hỏi liệu Sienna có biết nhiều về Zobrist không bởi vì cô đọc rất nhiều về lĩnh vực y học… hoặc có lẽ vì cả hai đều là những người tuổi trẻ tài cao. Các nhà bác học có theo dõi công việc của nhau không nhỉ?
“Lần đầu tiên tôi nghe nói về Zobrist là vài năm trước”, Sienna giải thích, “khi ông ấy có một số tuyên bố cực kỳ khiêu khích trên truyền thông về tăng trưởng dân số”. Cô ngừng lại, gương mặt tối sầm. “Zobrist là người đề xướng Phương trình Khải huyền Dân số.”
“Sao cơ?”
“Về cơ bản thì đó là một sự ghi nhận bằng toán học rằng dân số trên trái đất đang gia tăng, con người sống thọ hơn, và các nguồn tài nguyên thiên nhiên của chúng ta đang cạn dần. Phương trình dự đoán rằng xu hướng hiện tại không thể dẫn đến kết quả nào khác hơn là sự sụp đổ tất yếu của xã hội. Zobrist công khai tiên liệu rằng loài người sẽ không tồn tại thêm được một thế kỷ nữa… trừ phi chúng ta trải qua một sự kiện tuyệt chủng quy mô lớn nào đó”, Sienna thở dài não nề và nhìn thẳng vào mắt Langdon. “Thực tế, Zobrist từng được trích lời nói rằng ‘điều tốt đẹp nhất từng xảy ra ở châu Âu chính là Cái chết Đen’.”
Langdon sững sờ nhìn cô. Anh cảm thấy sởn tóc gáy, hệt như lúc hình ảnh chiếc mặt nạ dịch hạch vụt đến trong tâm trí. Cả buổi sáng anh đã cố gắng chống chọi với ý niệm rằng tình trạng tiến thoái lưỡng nan của anh hiện thời có liên quan đến một đại dịch chết người… nhưng cái ý niệm ấy càng lúc càng khó đẩy lui.
Việc Bertrand Zobrist mô tả Cái chết Đen như là điều tốt đẹp nhất từng đến với châu Âu hẳn là khá bất ngờ, nhưng Langdon biết rằng nhiều sử gia cũng đã ghi chép lại những lợi ích kinh tế xã hội lâu dài mà thảm kịch vào thế kỷ XIV này mang lại cho châu Âu. Trước khi xảy ra đại dịch, đặc điểm của thời Trung cổ chính là tình trạng quá tải dân số, nạn đói, và khó khăn về kinh tế. Cái chết Đen bất ngờ ập đến, dù rất kinh khủng, đã giúp “làm vãn bầy người” một cách hiệu quả, tạo ra sự dư thừa thức ăn và cơ hội, điều mà theo nhiều sử gia, chính là một tác nhân then chốt giúp mang đến thời kỳ Phục Hưng.
Khi nghĩ đến biểu tượng nguy hiểm sinh học trên ống nghiệm có chứa tấm bản đồ địa ngục đã được chỉnh sửa của Dante, một ý nghĩ đáng sợ bám riết lấy anh: Cái máy chiếu nhỏ xíu kỳ lạ do một ai đó tạo ra… Bertrand Zobrist – một nhà hóa sinh và cực kỳ mê cuồng Dante – giờ đây có lẽ là một ứng cử viên rất hợp lý.
Cha đẻ của giải pháp điều khiển chuỗi phôi di truyền. Langdon cảm thấy các mảnh ghép lúc này đang ráp đúng vị trí. Nhưng tiếc thay bức tranh đang định hình lại càng lúc càng đáng sợ.
“Tua nhanh phần này đi”, Marta ra lệnh cho anh chàng bảo vệ, giọng đầy sốt ruột, muốn bỏ qua đoạn ghi hình Langdon và Ignazio Busoni nghiên cứu cái mặt nạ để có thể tìm ra ai là người đã đột nhập vào bảo tàng và đánh cắp nó.
Anh chàng bảo vệ nhấn nút tua nhanh, và mốc thời gian tăng lên.
Ba phút… sáu phút… tám phút.
Trên màn hình, có thể nhìn thấy Marta đứng phía sau hai người, liên tục phải thay đổi tư thế và nhìn đồng hồ.
“Tôi rất xin lỗi vì chúng tôi nói chuyện lâu như vậy!”, Langdon nói. “Trông chị không được thoải mái.”
“Là lỗi của tôi”, Marta đáp. “Cả hai vị đều nhắc tôi nên về nhà và bộ phận bảo vệ sẽ cho các vị ra nhưng tôi cảm thấy như thế là khiếm nhã.”
Đột nhiên, trên màn hình, Marta biến mất. Anh chàng bảo vệ cho đoạn video trở lại tốc độ bình thường.
“Không sao”, Marta nói. “Tôi nhớ có đi vào nhà vệ sinh.”
Anh chàng bảo vệ gật đầu và lại bấm nút tua nhanh, nhưng anh ta chưa kịp bấm thì Marta đã túm lấy tay anh ta. “Khoan đã!”
Cô ấy nghiên đầu và đăm đăm nhìn màn hình vẻ không hiểu.
Langdon cũng đã nhìn thấy. Sao lại như vậy?!
Trên màn hình, Langdon vừa thò tay vào túi chiếc áo khoác vài tweed của mình, lôi ra một đôi găng tay phẫu thuật và lồng vào hai tay.
Cùng lúc đó, Tiểu Mái vòm chuyển ra vị trí phía sau Langdon, mắt chăm chú nhìn ra hành lang nơi Marta mới đi khỏi một lúc trước để vào nhà vệ sinh. Một lúc sau, người đàn ông to béo gật đầu với Langdon theo nghĩa dường như là hiện trường không còn ai.
Bọn mình làm quái gì thế nhỉ?!
Langdon nhìn chính mình trên màn hình trong khi đôi tay đeo găng của anh vươn ra chạm vào mép cửa tủ… sau đó, rất nhẹ nhàng, kéo về phía sau cho tới khi cái bản lề cổ xưa xê dịch và cánh cửa từ từ mở ra… để lộ ra chiếc mặt nạ người chết của Dante.
Marta Alvarez há hốc miệng kêu thành tiếng đầy kinh hãi và đưa tay lên che mặt.
Cùng chung nỗi hãi hùng với Marta, Langdon không tin vào mắt mình khi nhìn thấy chính anh thò tay vào tủ, nhẹ nhàng dùng cả hai tay nắm lấy chiếc mặt nạ người chết của Dante và nhấc nó ra.
“Lạy Chúa lòng lành!”, Marta bật kêu, đứng phắt dậy và xoay lại đối diện với Langdon. “Chính anh làm việc đó ư? Tại sao?”
Langdon chưa kịp trả lời thì một nhân viên bảo vệ đã rút ra một khẩu Beretta đen xì và chĩa thẳng vào ngực anh.
Lạy Chúa!
Robert Langdon nhìn trân trân họng súng của người bảo vệ và cảm thấy căn phòng nhỏ xíu này đang đóng kín lại quanh anh. Marta Alvarez đã đứng hẳn dậy, trợn trừng nhìn anh, mặt toát lên nổi hoài nghi và bị phản bội. Trên màn hình an ninh phía sau lưng cô ấy, lúc này Langdon đang giơ chiếc mặt nạ ra phía ánh sáng xem xét nó.
“Tôi chỉ lấy nó ra một lát thôi”, Langdon thanh minh, lòng thầm mong điều đó là sự thật. “Ignazio khẳng định với tôi chị sẽ không phiền lòng!”
Marta không trả lời. Cô ấy như hóa đá, rõ ràng đang cố nghĩ xem tại sao Langdon lại nói dối mình… và thực tế làm sao Langdon lại có thể bình tĩnh đứng bên cạnh và xem đoạn băng khi anh biết nó sẽ tiết lộ những gì.
Mình không hiểu tại sao chính mình lại mở cái tủ!
“Robert”, Sienna thì thào. “Nhìn xem! Anh tìm thấy gì đó!” Sienna vẫn chăm chú xem đoạn băng, tập trung tìm cho ra câu trả lời bất kể tình thế khó khăn của họ lúc này.
Trên màn hình, giờ đây Langdon đang giơ cao chiếc mặt nạ và nghiêng nó về phía ánh sáng, sự chú ý của anh rõ ràng tập trung vào một thứ gì đó rất đáng quan tâm ở phía sau món đồ.
Từ góc máy quay này, tiếng tích tắc, chiếc mặt nạ che khuất một phần gương mặt Langdon ở vị trí làm cho đôi mắt của Dante trùng khớp với của Langdon. Anh lại nhớ lời tuyên bố - chỉ có thể nắm bắt được chân lý qua cặp mắt chết chóc - và cảm thấy lạnh toát.
Langdon không rõ mình đang kiểm tra cái gì ở phía sau chiếc mặt nạ nhưng ở thời khắc đó trong đoạn video, khi anh chia sẻ phát hiện của mình với Ignazio, người đàn ông béo ị ấy giật lùi lại, lập tức lần tìm cặp kính và quan sát lần nữa… rồi lần nữa. Ông ấy bắt đầu lắc đầu lia lịa và đi tới đi lui trong hành lang đầy kích động.
Đột nhiên, cả hai người ngẩng lên, rõ ràng đã nghe thấy tiếng gì đó trong hành lang – chắc chắn là Marta đang từ nhà vệ sinh quay lại. Langdon vội vàng lôi từ trong túi áo mình ra một chiếc túi Ziploc lớn, nhét chiếc mặt nạ người chết vào và nhẹ nhàng trao nó cho Ignazio. Ông này lại cất nó vào cặp của mình, với vẻ hơi do dự. Langdon nhanh nhẹn đóng ô cửa kính trên chiếc tủ trưng bày lúc này trống trơn, và hai người nhanh chóng sải bước ra sảnh để đón đầu Marta trước khi cô ấy phát hiện ra vụ trộm cắp của họ.
Cả hai người bảo vệ lúc này đều đã chĩa súng vào Langdon.
Marta như đứng không vững, phải vịn vào bàn làm điểm tựa. “Tôi không hiểu!”, cô ấy kêu lên. “Anh và Ignazio Busoni đã đánh cắp chiếc mặt nạ người chết của Dante ư?!”
“Không!”, Langdon khăng khăng, cố hết sức chống chế. “Chúng tôi đã được chủ nhân của nó cho phép mang chiếc mặt nạ ra khỏi tòa nhà.”
“Được phép của chủ nhân ư?”, cô ấy hỏi vặn. “Từ Bertrand Zobrist sao!?”
“Phải! Ông Zobrist đồng ý để chúng tôi kiểm tra một số dấu vết ở phía sau! Chúng tôi gặp ông ấy chiều hôm qua!”
Ánh mắt Marta bắn ra những tia lửa. “Giáo sư, tôi chắc chắn rằng anh không hề gặp Bertrand Zobrist chiều hôm qua.”
“Chắc chắn chúng tôi đã…”
Sienna đặt một tay lên cánh tay Langdon. “Robert…”, cô thở dài ủ rũ. “Cách đây sáu ngày, Bertrand Zobrist đã lao xuống từ đỉnh tháp Badia, cách đây chỉ vài tòa nhà thôi.”
--42--
Vayentha bỏ lại chiếc mô tô của mình ngay phía bắc Cung điện Vecchio và đi bộ men theo đường bao của Quảng trường Signoria. Trong lúc len lỏi qua điện thờ ngoài trời của khu Longia dei Lanzi, ả không thể không chú ý thấy rằng tất cả bức tượng dường như đều đang thể hiện các sắc thái của một chủ đề duy nhất: Những biểu hiện đầy bạo lực của việc nam giới áp chế phụ nữ.
Bắt cóc đám phụ nữ Sabine.
Chiếm đoạt Polyxena.
Perseus cầm thủ cấp Medusa.
Hay đấy, Vayentha nghĩ thầm, kéo mũ trùm xuống mắt và len lỏi qua đám đông để tiến về lối vào cung điện, nơi đang đón những du khách đầu tiên trong ngày. Theo tất cả dấu hiệu ở đây thì mọi việc vẫn hết sức bình thường tại Cung điện Vecchio này.
Không có cảnh sát, Vayentha nghĩ. Ít nhất là chưa có.
Ả kéo cao áo khóa áo khoác lên tới cổ để bảo đảm không làm lộ vũ khí của mình và bước thẳng qua cổng vào. Theo những tấm biển chỉ dẫn tới II Museo di Palazzo, ả băng qua hai tiền sảnh lộng lẫy và theo một cầu thang đồ sộ leo lên tầng hai.
Trong lúc lên tầng, ả nhớ lại nội dung trao đổi của cảnh sát.
Bảo tàng Cung điện Vecchio… Dante Alighieri.
Chắc chắn Langdon ở đó.
Những tấm biển của bảo tàng dẫn Vayentha vào một khu trưng bày rộng lớn được trang hoàng vô cùng ấn tượng – Sảnh Năm trăm – nơi nhiều nhóm du khách chen lẫn vào nhau, chiêm ngưỡng những bức bích họa đồ sộ trên tường. Vayentha chẳng thèm bận tâm đến chuyện chiêm ngưỡng nghệ thuật ở đây nên nhanh chóng xác định một tấm biển khác ở góc bên phải căn phòng, chỉ thẳng lên một lối cầu thang.
Trong khi băng qua gian sảnh, ả chú ý thấy một nhóm sinh viên đại học tụ tập quanh một tác phẩm điêu khắc duy nhất, cười nói và chụp ảnh.
Tấm biển đề: Hercules và Diomedes.
Vayentha nhìn những bức tượng và lầm bầm.
Bức điêu khắc mô tả hai nhân vật anh hùng trong thần thoại Hy Lạp – cả hai đều hoàn toàn khỏa thân – đang quấn lấy nhau trong một keo đấu vật. Hercules đang kẹp Diomedes cắm đầu xuống đất, chuẩn bị quẳng anh ta đi, trong khi Diomedes đang tóm chặt cơ quan sinh dục của Hercules, như thể muốn nói “Ngươi có chắc ngươi muốn quẳng ta đi không?”
Vayentha nhăn mặt. Câu chuyện về việc nắm được cà của người khác.
Ả rời mắt khỏi bức tượng quái lạ và nhanh chóng leo lên cầu thang về phía khu vực bảo tàng.
Ả lên đến một ban công rất cao nhìn xuống sảnh. Hơn chục du khách đang đợi bên ngoài lối vào bảo tàng.
“Tạm lùi giờ mở cửa”, một du khách nhanh nhảu thông báo, ló mặt ra từ phía sau chiếc máy quay cá nhân của mình.
“Có biết tại sao không?”, ả hỏi.
“Không, nhưng nghe trong lúc đợi chúng ta lại thấy quang cảnh rất tuyệt!”. Người đàn ông vung tay lướt qua toàn bộ Sảnh Năm trăm bên dưới.
Vayentha bước lại mép lan can và nhìn xuống gian phòng rộng thênh thang phía dưới. Dưới tầng, một sĩ quan cảnh sát duy nhất đang tiến đến, chẳng có vẻ gì gấp gáp, cũng không mấy người chú ý thấy anh ta đang băng qua phòng tới phía cầu thang.
Anh ta đến để lấy lời khai, Vayentha nghĩ thầm. Tác phong uể oải của nhân viên công lực lúc lên cầu thang cho thấy đây là một công việc rất bình thường – chẳng có vẻ gì giống như tình trạng nháo nhào tìm kiếm Langdon ở cổng Porta Romana.
Nếu Langdon ở đây thì tại sao người ta lại không vây kín tòa nhà nhỉ?
Hoặc Vayentha đã phỏng đoán sai rằng Langdon ở đây, hoặc cảnh sát địa phương và Brüder chưa nhận ra và hợp tác với nhau.
Lúc viên sĩ quan lên đến đỉnh cầu thang và len lỏi về phía lối vào bảo tàng, Vayentha thản nhiên quay đi và vờ đang chăm chú nhìn ra ngoài cửa sổ. Nghĩ đến lệnh từ chối cùng tầm ảnh hưởng rộng rãi của Thị Trưởng, ả không dại gì để bị nhận ra.
“Chú ý!”, một giọng nói vang lên đâu đó.
Tim Vayentha như hụt một nhịp khi viên sĩ quan dừng lại ngay sát sau lưng ả. Ả nhận ra giọng nói kia phát ra từ bộ đàm của anh ta.
“Chờ lực lượng tiếp viện!” giọng nói lại vang lên.
“Chờ lực lượng tiếp viện ư!” Vayentha cảm thấy có gì đó vừa thay đổi.
Vừa lúc ấy, bên ngoài cửa sổ, Vayentha nhận ra một vật màu đen đang lớn dần ở chân trời phía xa. Nó đang từ hướng vườn Boboli bay về phía Cung điện Vecchio.
Cái máy bay, Vayentha nhận ra ngay. Brüder biết rồi. Và anh ta đang tới lối này.
Điều phối viên của Consortium Laurence Knowlton vẫn đang dằn vặt bản thân về chuyện gọi cho Thị Trưởng. Anh ta biết rõ hơn hết là nên đề nghị Thị Trưởng xem trước đoạn video của ông khách trước khi nó được đăng tải cho giới truyền thông vào ngày mai.
Nội dung quá không phù hợp.
Quy trình là nhất.
Knowlton vẫn còn nhớ y nguyên “câu thần chú” mà các điều phối viên trẻ được học khi bắt đầu giải quyết nhiệm vụ cho tổ chức. Không hỏi. Chỉ việc thực thi.
Đầy do dự, anh đặt chiếc thẻ nhớ màu đỏ vào dãy công việc thực hiện trong sáng mai, lòng vẫn băn khoăn không biết giới truyền thông sẽ phản ứng sao với thông điệp quái dị này. Liệu họ có dám công bố nó không?
Dĩ nhiên họ sẽ làm. Nó do Bertrand Zobrist gửi tới mà.
Zobrist không chỉ là một nhân vật thành công đến kinh ngạc trong lĩnh vực hóa sinh, ông ta còn đang là chủ đề thời sự gây xôn xao sau vụ tự sát vào tuần trước. Đoạn video dài chín phút này sẽ giống một lời nhắn từ dưới mồ, và nội dung kinh khủng của nó sẽ làm cho người ta gần như không thể tắt nó đi.
Đoạn video này sẽ lan đi chỉ trong vài phút sau khi được tung ra.
