Tác giả: Dan Brown
--51--
Nhà lưu niệm Casa di Dante nằm trên phố Via Santa Margherita và dễ nhận ra nhờ lá cờ lớn được treo trên mặt tiền bằng đá trong hẻm:
MUSEO CASA DI DANTE
Sienna nhìn lá cờ với vẻ không lấy gì làm chắc chắn: Chúng ta sẽ tới nhà Dante ư?”
“Không hẳn”, Langdon nói. “Dante sống ở góc phố kia. Đây đúng hơn là bảo tàng… Dante.” Langdon đã từng tham quan địa điểm này, rất háo hức với bộ sưu tập nghệ thuật mà hóa ra chỉ gồm những phiên bản tái tạo lại các tác phẩm nổi tiếng có liên quan đến Dante trên khắp thế giới, nhưng rất đáng xem khi tất cả những thứ ấy được gom lại dưới cùng một mái nhà.
Đột nhiên trông Sienna đầy vẻ hy vọng. “Anh nghĩ họ có trưng bày một bản Thần khúc cổ à?”
Langdon cười khan. “Không, nhưng anh biết họ có một cửa hàng quà tặng bán những bưu thiếp cỡ lớn đăng nguyên vẹn nội dung Thần khúc của Dante với cỡ chữ rất nhỏ.”
Cô liếc nhìn anh hơi có phần kinh hãi.
“Anh biết. Nhưng thế còn hơn không. Vấn đề duy nhất là mắt anh đang kém cho nên em sẽ phải đọc bản in đó.”
“Đóng cửa”, một ông già gọi to khi nhìn thấy họ tiến đến cửa. “Nghỉ ngày lễ.”
Đóng cửa nghỉ ngày Sabbath ư? Langdon bỗng lại cảm thấy mất phương hướng. Anh nhìn Sienna. “Hôm nay không phải là… thứ Hai sao?”
Cô gật đầu. “Dân Florence chọn ngày Sabbath vào thứ Hai.”
Langdon làu bàu, chợt nhớ ra lịch tuần khác hẳn của thành phố này. Vì lợi nhuận du lịch tăng nhanh vào ngày cuối tuần nên nhiều thương gia ở Florence chọn chuyển “ngày nghỉ ngơi” theo Thiên Chúa giáo từ Chủ nhật sang thứ Hai để tránh nghỉ lễ Sabbath làm ảnh hưởng quá nhiều đến thu nhập của mình.
Thật không may, Langdon nhận ra, điều này cũng có thể làm tiêu tan lựa chọn khác của anh: Cửa hàng trao đổi sách bìa mềm – một trong những cửa hàng sách ở Florence mà Langdon ưa chuộng – nơi chắc chắn có sẵn các bản Thần khúc.
“Anh còn ý tưởng nào khác không?”, Sienna nói.
Langdon nghĩ một lúc lâu và cuối cùng gật đầu. “Có một chỗ ở ngay góc phố nơi những người mến mộ Dante thường tụ họp. Anh cá là ở đó có người có bản sách để chúng ta mượn.”
“Có thể cũng đóng cửa đấy”, Sienna dè chừng. “Gần như mọi chỗ trong thành phố đều chuyển ngày Sabbath sang ngày khác Chủ nhật.”
“Nơi này thì không hề nghĩ đến việc đó đâu”, Langdon mỉm cười đáp. “Đó là nhà thờ.”
o O o
Phía sau họ năm mươi thước, ẩn mình trong đám đông, người đàn ông bị phát ban trên da và đeo khuyên tai vàng đứng dựa vào một bức tường, tranh thủ cơ hội này để lấy lại nhịp thở. Nhưng tình trạng của ông ta không khá hơn được, và triệu chứng phát ban trên mặt gần như không thể xem thường, đặc biệt là phần da nhạy cảm ngay bên trên mắt. Ông ta tháo bỏ cặp kính Plume Paris và khẽ lấy tay áo lau qua hốc mắt, cố gắng không làm mụn vỡ bung. Lúc đeo lại kính, ông ta thấy “con mồi” của mình lại tiếp tục di chuyển. Ông ta gượng bám theo, tiếp tục đi sau họ, cố gắng thở nhẹ nhàng hết mức.
o O o
Cách phía sau Langdon và Sienna vài dãy nhà, bên trong Sảnh Năm trăm, đặc vụ Brüder đứng phía trên thân thể mềm oặt của người đàn bà đầu đinh đã quá quen thuộc, lúc này đang nằm rũ trên nền nhà. Gã quỳ xuống và gỡ lấy khẩu súng ngắn của ả, thận trọn khóa chốt an toàn trước khi trao cho một người của mình.
Cô quản lý bảo tàng bụng mang dạ chửa Marta Alvarez đứng cách xa một bên. Cô vừa kể vắn tắt lại cho Brüder nghe mọi chuyện diễn ra với Robert Langdon kể từ đêm hôm trước, kể cả chi tiết Brüder vẫn đang cố gắng xử lý.
Langdon cho biết đang bị chứng quên tạm thời.
Brüder rút điện thoại và bấm số. Đầu dây bên kia đổ chuông ba lần thì có tiếng sếp của gã trả lời, nghe xa xăm và không lấy gì làm quyết đoán.
“Ừ, đặc vụ Brüder hả? Nói đi.”
Brüder nói thật chậm rãi để bảo đảm rằng mọi lời của gã đều được hiểu rõ. “Chúng tôi vẫn đang cố gắng xác định vị trí của Langdon và cô gái, nhưng có một tình tiết khác.” Gã ngừng lại. “Và nếu như điều đó đúng thì… nó làm thay đổi mọi chuyện.”
o O o
Thị Trưởng đi tới đi lui trong văn phòng của mình, cố kìm cơn thôi thúc muốn rót thêm một ly Scotch nữa, và cố ép mình phải đối diện với cuộc khủng hoảng vẫn tiếp diễn này.
Trong sự nghiệp, chưa bao giờ ông ta phản bội khách hàng hoặc không giữ đúng thỏa ước, và chắc chắn ông ta không có ý định như vậy vào lúc này. Đồng thời ông ta cũng ngờ rằng có thể mình đang bị vướng vào một kịch bản có mục đích, lôi kéo ông ta rời xa những gì đã hình dung ban đầu.
Một năm trước, nhà di truyền học nổi tiếng Bertrand Zobrist xuất hiện trên tàu The Mendadium và đề nghị có một nơi ẩn náu an toàn để làm việc. Lúc đó, Thị Trưởng cho rằng Zobrist đang lên kế hoạch phát triển một sản phẩm y học bí mật mà quyền sáng chế sẽ làm tăng khối tài sản khổng lồ cho Zobrist. Đó không phải là lần đầu Consortium được các nhà khoa học và kỹ sư hoang tưởng thích làm việc biệt lập thuê để tránh việc những ý tưởng giá trị của họ bị đánh cắp.
Với suy nghĩ đó, Thị Trưởng chấp nhận vị khách và không lấy gì làm ngạc nhiên khi biết rằng những người ở Tổ chức Y tế Thế giới săn lùng Zobrist. Thị Trưởng cũng không suy nghĩ gì thêm khi đích thân Giám đốc WHO- tiến sĩ Elizabeth Sinskey – có vẻ xem việc tìm ra vị khách của họ là nhiệm vụ riêng của bà.
Consortium vẫn luôn phải đối mặt với những đối thủ quyền lực.
Như đã thỏa thuận, Consortium thực hiện hợp đồng của mình với Zobrist, không hề đặt câu hỏi gì, ngăn cản mọi nỗ lực của Sinskey nhằm tìm ra ông ta trong suốt thời gian bản hợp đồng đã ký với nhà khoa học có hiệu lực.
Gần như trọn thời gian.
Còn chưa đầy một tuần trước khi bản hợp đồng hết hạn, không hiểu bằng cách nào mà Sinskey tìm ra Zobrist ở Florence và ập đến, liên tục quấy nhiễu và truy đuổi ông ta cho tới khi ông ta tự sát. Lần đầu tiên trong sự nghiệp, Thị Trưởng thất bại trong việc cung cấp dịch vụ bảo vệ mà mình đã thỏa thuận, và điều đó ám ảnh ông ta, cùng với cái chết kỳ quái của Zobrist.
Ông ta tự sát chứ nhất định không chịu để bị bắt ư?
Zobrist đang cố bảo vệ cái quái gì nhỉ?
Sau cái chết của Zobrist, Sinskey đã tịch thu một thứ lấy được từ két an toàn của Zobrist, và giờ đây, Consortium lao vào một cuộc chiến trực tiếp với Sinskey tại Florence – tìm kiếm một kho báu đáng giá…
Tìm kiếm cái gì?
Theo bản năng, Thị Trưởng liếc nhìn về phía giá sách và tập sách nặng trịch được tay Zobrist có cặp mắt man dại trao cho ông ta hai tuần trước.
Thần khúc.
Thị Trưởng vớ lấy cuốn sách và mang nó trở lại bàn làm việc của mình, rồi nặng nề vứt nó xuống. Bằng mấy ngón tay đầy do dự, ông ta lật giở bìa sách tới trang đầu tiên và đọc lại câu đề tặng.
“Bạn thân mến của tôi, cảm ơn bạn vì đã giúp tôi tìm ra đường đi
Thế giới cũng cảm ơn bạn.”
Trước hết, Thị Trưởng nghĩ thầm, ông và ta chưa bao giờ là bạn bè.
Ông ta đọc câu đề tặng thêm ba lần nữa. Rồi ông ta đưa mắt nhìn cái vòng tròn đỏ tươi mà vị khách đã khoanh nguệch ngoạc trên cuốn lịch, chỉ rõ ngày đến hẹn – ngày mai.
Thế giới cảm ơn bạn ư?
Ông ta quay đầu nhìn ra đường chân trời một lúc lâu.
Ông im lặng nghĩ về đoạn video và như vẫn nghe rõ tiếng điều phối viên Knowlton trong cuộc điện đàm trước đó. Tôi nghĩ có lẽ ngài cần xem trước khi đưa lên… Nội dung khá phiền phức.
Cuộc gọi vẫn còn khiến Thị Trưởng khó xử. Knowlton là một trong những điều phối viên giỏi nhất của ông ta, và việc đề nghị như vậy hoàn toàn không phải là tích cách của anh ta. Anh ta biết tốt hơn hết là nên trình lên cấp cao hơn trong quy trình nhiều cấp.
Đặt cuốn Thần khúc lên giá, Thị Trưởng bước lại chỗ chai Scotch và rót cho mình nửa ly.
Ông ta đưa ra một quyết định rất khó khăn.
--52--
Vẫn được xem như Nhà thờ Dante, thánh đường Santa Margherita dei Cerchi giống một nhà nguyện hơn là một nhà thờ. Căn nhà thờ cúng nhỏ xíu chỉ có một gian này là địa điểm quen thuộc với những người hâm mộ Dante, họ thành kính coi đó như một thánh địa, nơi diễn ra hai thời khắc then chốt trong cuộc đời của đại thi hào.
Theo lời kể, chính tại nhà thờ này, năm lên chín tuổi, lần đầu tiên Dante để mắt đến Beatrice Portinari – người phụ nữ mà ông phải lòng ngay từ cái nhìn đầu tiên, và là người ông đau đáu dành trọn trái tim suốt cả đời. Trước nỗi đau khổ tột cùng của Dante, Beatrice kết hôn với một người đàn ông khác, và sau đó qua đời khi tuổi đời còn rất trẻ, mới chỉ hai mươi tư.
Cũng chính tại nhà thờ này, vài năm sau, Dante kết hôn với Gemma Donati – một phụ nữ theo mô tả của đại văn hào và cũng là thi sĩ Boccaccio, là người vợ mà Dante đã chọn lầm. Mặc dù có con chung nhưng hai vợ chồng họ không có nhiều tình cảm dành cho nhau, và sau khi Dante bị trục xuất, cũng chẳng ai trong số họ sốt sắng muốn gặp lại nhau.
Tình yêu trọn đời của Dante đã và sẽ luôn là nàng Beatrice Portinari đã đi xa. Dante biết rất ít về Beatrice, nhưng ký ức về nàng trong ông lại mãnh liệt đến mức bóng ma của nàng đã trở thành cảm hứng cho những tác phẩm vĩ đại nhất của ông.
La Vita Nuova, tập thơ được ca tụng của Dante, tràn ngập những dòng thơ tôn vinh “nàng Beatrice thần thánh”. Còn sùng kính hơn thế nữa, Thần khúc xem Beatrice, chứ không phải ai khác, chính là vị cứu tinh đã chỉ dẫn Dante đi qua thiên đường. Trong cả hai tác phẩm, Dante đều ao ước được gặp người phụ nữ mình không thể với tới ấy.
Ngày nay, Nhà thờ Dante trở thành địa điểm linh thiêng cho những trái tim tan vỡ, đau khổ vì tình yêu của họ không được đền đáp. Phần mộ của nàng Beatrice nằm ngay bên trong nhà thờ, và ngôi mộ giản dị đó trở thành một địa điểm hành hương cho cả những người hâm mộ Dante cũng như những kẻ thất tình.
Sáng hôm nay, Langdon và Sienna tìm đường vượt qua Florence cổ kính để tới nhà thờ. Đường phố tiếp tục thu hẹp lại cho tới khi chỉ còn toàn những lối đi cho khách bộ hành. Một chiếc xe hơi biển đia phương hiếm hoi xuất hiện, nhích từng phân qua mê cung và buộc khách bộ hành phải nép sát vào những tòa nhà khi nó đi qua.
“Nhà thờ ngay góc phố kia thôi”, Langdon bảo Sienna, hy vọng rằng du khách bên trong sẽ có thể giúp đỡ họ. Anh biết cơ hội tìm ra một hội viên Hội Bác ái tốt bụng lúc này cao hơn. Sienna lấy lại mái tóc giả của cô và trả Langdon chiếc áo khoác, và cả hai trở lại như bình thường, từ một tay mê nhạc rock và cô ả đầu trọc biến thành vị giáo sư đại học và một phụ nữ trẻ đầu tóc gọn gàng.
Langdon thấy nhẹ nhõm hẳn khi lại được là chính mình.
Khi họ rảo bước vào một ngõ phố còn chật chội hơn nữa – Via del Presto – Langdon đưa mắt nhìn các khuôn cửa. Lối vào nhà thờ lúc nào cũng khó xác định vì bản thân căn nhà quá nhỏ, không được trang hoàng gì, và bị ép chặt giữa hai tòa nhà khác. Người ta có thể đi qua nó mà không hề chú ý. Có điều lạ là tìm ra nhà thờ này không phải bằng mắt mà bằng tai thường lại dễ dàng hơn.
Một trong những đặc điểm riêng của Nhà thờ Santa Margherita dei Cerchi là nơi này thường xuyên diễn ra các buổi hòa nhạc. Những khi không có lịch hòa nhạc, nhà thờ thường chơi lại bản thu các buổi hòa nhạc trước đó để khách tham quan có thể thưởng thức âm nhạc bất kỳ lúc nào.
Đúng như dự tính, khi cả hai dọc theo ngõ phố, Langdon bắt đầu nghe thấy giai điệu nhẹ nhàng của các bản thu âm, càng lúc càng rõ hơn, cho tới khi anh và Sienna đứng trước lối vào kín đáo. Dấu hiệu duy nhất cho thấy đây là địa điểm cần tìm chỉ là một tấm biển nhỏ - một thứ hoàn toàn tương phản với lá cờ đỏ rực ở Museo Casa di Dante – cho biết đây là nhà thờ của Dante và Beatrice.
Khi Langdon và Sienna rời khỏi phố để bước vào khoảng tối của nhà thờ, không khí mát dịu hẳn và tiếng nhạc nghe rõ hơn. Không gian bên trong mộc mạc và giản dị, nhỏ hơn những gì Langdon còn nhớ. Chỉ có một vài khách du lịch, hòa vào nhau, người ghi sổ tay, người ngồi lặng lẽ trên những dãy ghế dài thưởng thức âm nhạc, hoặc chiêm ngưỡng bộ sưu tập tác phẩm nghệ thuật.
Ngoại trừ phần bàn thờ do Neri di Bicci vẽ mang đề tài Đức mẹ Maria, gần như tất cả các tác phẩm nghệ thuật nguyên gốc trong nhà thờ này đều được thay thế bằng những tác phẩm đương đại nói về hai nhân vật nổi tiếng – Dante và Beatrice – vốn là lý do để đa phần du khách tìm tới nhà thờ nhỏ bé này. Hầu hết các tranh vẽ đều mô tả ánh mắt khát khao của Dante trong lần hội ngộ đầu tiên với Beatrice, mà theo chính lời kể của thi hào, ngay lập tức ông đã phải lòng nàng. Chất lượng các bức vẽ rất khác biệt và đa phần, theo cảm nhận của Langdon, có vẻ hào nhoáng và đặt không đúng chỗ. Trong cách bài trí như thế, chiếc mũ đỏ với hai vạt che tai nổi tiếng của Dante trông như thứ gì đó đánh cắp của ông già Noel. Tuy nhiên, chủ đề lặp đi lặp lại nhiều là ánh mắt khao khát của thi hào dành cho nàng thơ của ông, Beatrice, cho thấy rõ ràng đây là một nhà thờ của tình yêu đau khổ - không được viên mãn, không được đền đáp, và không thể với tới.
Theo bản năng, Langdon ngó sang bên trái, chăm chú nhìn ngôi mộ khiêm nhường của Beatrice Portinari. Đây là lý do chính để người ta tới thăm nhà thờ này, mặc dù chẳng có gì nhiều để xem ngoài ngôi mộ và món đồ nổi tiếng đặt bên cạnh nó.
Một chiếc giỏ bằng liễu gai.
Sáng nay, như mọi khi, chiếc giỏ liễu gai giản dị được đặt cạnh mộ Beatrice. Và sáng nay, như mọi khi, nó đựng đầy những mảnh giấy gấp lại, mỗi mảnh là một lá thư viết tay của một vị khách gửi cho nàng Beatrice.
Beatrice Portinari tựa hồ đã trở thành vị thánh bảo trợ của những người tình không may mắn, và theo truyền thống đã có từ lâu, người ta có thể đặt những lời nguyện cầu viết tay gửi cho Beatrice vào trong giỏ với hy vọng rằng nàng sẽ can thiệp nhân danh người viết. Có lẽ nàng sẽ run rủi cho ai đó yêu họ hơn nữa, hoặc giúp họ tìm thấy tình yêu đích thực của mình, hoặc thậm chí cho họ sức mạnh quên đi mối tình đã mất.
Từ nhiều năm trước, khi khổ sở lùng tìm một cuốn sách về lịch sử nghệ thuật, Langdon đã dừng lại nhà thờ này để đặt một mảnh giấy vào giỏ, khẩn cầu nàng thơ của Dante đừng ban cho anh tình yêu đích thực, mà tặng cho anh một phần cảm hứng đã giúp Dante viết ra cuốn sách đồ sộ của ông.
Hãy cất tiếng hát trong ta, hỡi Nàng thơ, và qua ta kể lại câu chuyện…
Dòng mở đầu trong trường ca Odyssey của Homer dường như chính là lời khẩn cầu rất thích hợp, và Langdon thầm tin bức thư của anh đã đánh thức nguồn cảm hứng thiêng liêng của Beatrice, vì ngay khi trở về nhà, anh đã bất ngờ viết ra cuốn sách một cách dễ dàng.
“Xin lỗi!”, giọng Sienna đột ngột vang lên. “Mọi người vui lòng cho tôi hỏi chút được không?” Tất cả mọi người sao?
Langdon xoay lại nhìn Sienna đang lớn tiếng nói với số du khách tản mát, khiến tất cả đều nhìn về phía cô, có vẻ gì đó cảnh giác…
Sienna mỉm cười thân thiện với mọi người và hỏi bằng tiếng Ý xem có ai tình cờ có bản Thần khúc của Dante không. Sau vài ánh mắt lạ lùng và những cái lắc đầu, cô cố gắng hỏi lại bằng tiếng Anh, nhưng cũng chẳng hơn gì.
Một phụ nữ đứng tuổi hơn đang quét bàn thờ suỵt rất to với Sienna và giơ một ngón tay lên môi ra hiệu im lặng.
Sienna quay lại phía Langdon và cau mày, như thể muốn nói “Giờ thì làm sao?”
Lời hỏi han của Sienna hoàn toàn không phải là điều Langdon hình dung trong đầu, nhưng anh phải thừa nhận rằng anh dự liệu cô nhận được phản ứng tốt đẹp hơn so với những gì vừa rồi. Trong những lần tới thăm trước, Langdon thấy không ít du khách đang đọc Thần khúc trong không gian thiêng liêng này, rõ ràng vì muốn hoàn toàn chìm trong trải nghiệm của Dante.
Hôm nay thì không hề như vậy.
Langdon đưa mắt nhìn một cặp vợ chồng già đang ngồi gần phía trước nhà thờ. Cái đầu hói của ông cụ cúi gập về phía trước, cằm chạm hẳn vào ngực, rõ ràng ông đang ngủ gật. Bà cụ ngồi bên cạnh ông, với hai sợi cáp tai nghe màu trắng lủng lẳng bên dưới mái đầu bạc, dường như rất tỉnh táo.
Có chút hy vọng đây, Langdon nghĩ bụng, len theo lối đi cho tới khi ở vị trí song song với cặp vợ chồng già. Đúng như Langdon hy vọng, đôi tai nghe màu trắng của bà cụ chạy xuống một chiếc iPhone đặt trên đùi. Cảm giác đang bị người khác nhìn, bà ngước lên và rút tai nghe ra.
Langdon không rõ bà cụ nói ngôn ngữ gì, nhưng thành công toàn cầu của iPhone, iPad và iPod khiến những tên gọi này trở thành những từ vựng hiểu được trên khắp thế giới giống như biểu tượng nam/nữ ở các nhà vệ sinh trên toàn cầu.
“iPhone?”, Langdon hỏi, mắt nhìn chiếc máy của bà.
Bà cụ lập tức tươi nét mặt, gật đầu đầy tự hào. “Một thứ đồ chơi thông minh”, bà thì thào bằng giọng Anh. “Con trai tôi tặng cho tôi đấy. Tôi đang nghe email của mình. Anh có tin không – nghe email của tôi nhé! Báu vật nhỏ xinh này đọc thư cho tôi nghe. Với đôi mắt kèm nhèm của tôi thì điều đó đúng là tuyệt vời.”
“Cháu cũng có một cái”, Langdon mỉm cười nói trong lúc ngồi xuống cạnh bà, cẩn thận không làm ông chồng đang say ngủ của bà tỉnh giấc. Nhưng chẳng hiểu sao cháu lại để mất nó tối qua.”
“Ôi, tệ quá! Cậu đã thử tính năng ‘tìm kiếm iPhone” chưa? Con trai tôi nói…”
“Cháu dốt quá, cháu chưa kích hoạt tính năng ấy.” Langdon nhìn bà bẽn lẽn và ngập ngừng đánh bạo, “Nếu không quá phiền, bác làm ơn cho cháu mượn máy của bác chỉ một lát thôi được không? Cháu cần tra cứu một thứ trên mạng. Việc đó giúp cháu rất nhiều.”
“Được thôi!” Bà cụ tháo tai nghe và nhét điện thoại vào tay anh. “Không có gì đâu! Tội nghiệp cậu.”
Langdon cảm ơn bà và cầm lấy điện thoại. Trong khi bà cụ bên cạnh anh kể lể về việc bà sẽ cảm thấy kinh khủng như thế nào nếu đánh mất chiếc iPhone, Langdon mở cửa sổ tìm kiếm của Google và nhấn nút microphone. Khi điện thoại phát ra một tiếng kêu, Langdon đọc thật rõ ràng chuỗi tìm kiếm của mình.
“Dante, Thần khúc, Thiên đường, Khổ XXV.”
Bà cụ tỏ ra kinh ngạc, rõ ràng vẫn chưa hề biết về tính năng này. Khi các kết quả tìm kiếm bắt đầu xuất hiện trên màn hình bé xíu, Langdon liếc nhanh về phía Sienna, lúc này đang lật giở một tài liệu in gì đó gần cái giỏ thư gửi cho Beatrice.
Không xa chỗ Sienna đứng, một người đàn ông đeo cà vạt đang quỳ trong bóng tối, thành tâm cầu nguyện, đầu cúi thấp. Langdon không thể nhìn rõ mặt ông ta, nhưng anh cảm thấy buồn thay cho người đàn ông cô độc có lẽ vừa đánh mất người mình yêu thương và đến đây để tìm chút an ủi.
Langdon tập trung trở lại chiếc Iphone, và chỉ sau vài giây đã có thể chọn đường dẫn tới một địa chỉ cung cấp bản Thần khúc số hóa truy cập miễn phí, vì tác phẩm thuộc sở hữu công cộng rồi. Khi trang màn hình mở ra đúng Khổ XXV, anh phải thừa nhận rằng công nghệ anh vừa sử dụng rất ấn tượng. Mình đến phải chấm dứt việc làm một gã khờ quá coi trọng những cuốn sách bọc da, anh tự nhủ. Sách điện tử thực sự có ưu thế riêng.
Trong khi bà cụ nhìn lên, mặt có phần lo lắng và nói gì đó về chuyện giá cước dữ liệu cao khi lướt mạng Internet ở nước ngoài, Langdon cảm thấy cánh cửa cơ hội của mình rất hẹp, và anh chăm chú tập trung vào trong web trước mặt.
Văn bản rất nhỏ, nhưng ánh sáng lờ mờ trong nhà nguyện khiến cho màn hình được chiếu sáng dễ nhìn hơn. Langdon rất hài lòng khi tình cờ vào đúng bản dịch của Mandelbaum – một bản dịch hiện đại rất thịnh hành do giáo sư quá cố người Mỹ Allen Mandelbaum thực hiện. Vì bản dịch xuất sắc này, Mandelbaum đã nhận được vinh dự cao nhất của nước Ý, Huân chương Ngôi sao Đoàn kết Italia. Mặc dù phải thừa nhận bản dịch của ông ít tính thi ca hơn bản của Longfellow nhưng nó lại có vẻ dễ lĩnh hội hơn.
Hôm nay mình cần ý nghĩa sáng sủa hơn là thi pháp, Langdon nghĩ thầm, hy vọng nhanh chóng tìm ra trong nội dung văn bản chi tiết ám chỉ đến một địa điểm cụ thể ở Florence – nơi Ignazio giấu chiếc mặt nạ người chết của Dante.
Màn hình bé xíu của chiếc iPhone chỉ hiển thị được sáu dòng văn tự một lúc, và khi bắt đầu đọc, Langdon nhớ lại cả đoạn. Trong phần mở đầu của Khổ XXV, Dante nhắc đến chính Thần khúc, nỗi mất mát vật chất mà ông phải chấp nhận khi viết tác phẩm, và niềm hy vọng trong đau đớn rằng có lẽ trường ca tuyệt vời của ông có thể chiến thắng được bản án trục xuất nghiệt ngã đến tàn bạo, đẩy ông rời xa khỏi Florence yêu thương.
KHỔ XXV
“Nếu điều đó xảy ra… nếu bài thơ thiêng liêng này –
tác phẩm được cả thiên đường và mặt đất chia sẻ
làm cho ta hao gầy qua những năm tháng đằng đẵng –
có thể vượt qua sự bạo tàn
đã ngăn cản ta với quê hương yêu dấu nơi ta nằm ngủ,
một chú cừu chống lại cả đàn sói hằm hè…”
Dù đoạn thơ này là chi tiết gợi nhớ rằng Florence chính là quê hương mà Dante nhung nhớ khi viết Thần khúc, nhưng Langdon chẳng thấy chỗ nào nói đến một địa điểm cụ thể trong thành phố.
“Cậu biết gì về mức cước phí dữ liệu không?”, bà cụ xen vào, mắt nhìn chiếc iPhone của mình với vẻ sốt ruột thấy rõ. “Tôi vừa nhớ ra con trai tôi dặn hãy cẩn thận khi lướt web ở nước ngoài.”
Langdon trấn an bà rằng anh sẽ chỉ dùng một phút nữa và đề nghị thanh toán tiền cho bà, nhưng cho dù như vậy, anh vẫn cảm thấy bà cụ sẽ chẳng bao giờ để anh đọc hết cả một trăm dòng của Khổ XXV.
Anh nhanh chóng chuyển xuống sáu dòng tiếp theo và tiếp tục đọc.
“Khi đó cùng với giọng nói khác, mái tóc khác,
Ta sẽ trở về như một thi sĩ và đội lên,
ngay bồn nước rửa tội của ta, chiếc vương miện nguyệt quế;
vì ở đó lần đầu tiên ta thấy lối vào đức tin
thứ giúp cho các linh hồn được Chúa đón chào, và khi đó,
với đức tin ấy, thánh Peter đặt vòng hoa lên trán ta.”
Langdon cũng chỉ nhớ láng máng đoạn này – một cách ám chỉ vòng vo đến thỏa thuận chính trị mà các kẻ thù của Dante đưa ra cho ông. Theo lịch sử, “đàn sói” xua đuổi Dante khỏi Florence đã tuyên bố ông có thể quay về thành phố chỉ khi nào ông đồng ý chập nhận sỉ nhục công khai - tức là đứng trước toàn thể giáo đoàn, một mình chỗ bồn nước rửa tội và chỉ được khoác áo vải bố, như một cách thừa nhận lỗi lầm của mình.
Trong đoạn thơ Langdon vừa đọc, Dante, sau khi khước từ thỏa thuận ấy, đã tuyên bố rằng nếu ông trở về bồn nước rửa tội của mình, ông sẽ không mặc áo vải bố của một kẻ có tội mà là vương miện nguyệt quế của một thi sĩ.
Langdon đưa ngón tay trỏ kéo xuống tiếp, nhưng bà cụ bất ngờ phản đối, chìa tay về phía chiếc iPhone, rõ ràng đã nghĩ lại việc cho mượn máy.
Langdon không nghe thấy gì. Trong tích tắc trước khi anh chạm được vào màn hình, mắt anh lướt qua một dòng văn bản mà anh đã nhìn thấy lần thứ hai.
“Ta sẽ trở về như một thi sĩ và đội lên,
ngay bồn nước rửa tội của ta, chiếc vương miện nguyệt quế…”
Langdon đăm đăm nhìn những con chữ, thấy rõ trong tâm trạng nôn nóng tìm kiếm chi tiết nhắc đến một địa điểm cụ thể, anh gần như đã bỏ qua một khả năng ngay trong những dòng mở đầu.
“ngay bồn nước rửa tội”
Florence là quê hương của những bồn nước rửa tội được tôn vinh nhiều nhất trên thế giới, nơi đã được sử dụng trong suốt hơn bảy trăm năm để thanh tẩy và rửa tội cho những công dân Florence trẻ tuổi – trong số đó có cả Dante Alighieri.
Langdon lập tức nhớ tới hình ảnh công trình có bồn nước đó. Đó là một dinh thự bát giác rất đẹp, còn tuyệt vời hơn cả Duomo ở nhiều khía cạnh. Giờ anh tự hỏi có phải mình đã đọc được tất cả những gì cần đọc hay không.
Phải chăng tòa nhà ấy là địa điểm Ignazio nói đến?
Một tia sáng lóe lên trong tâm trí Langdon khi một hình ảnh diễm lệ hiện ra – dãy cánh cửa đồng ấn tượng – lấp lánh tỏa sáng trong ánh mặt trời buổi sớm.
Mình biết Ignazio đang cố gắng nói gì với mình rồi!
Mọi ngờ vực còn sót lại đều tan biến ngay sau đó khi anh nhớ ra rằng Ignazio Busoni là một trong những người hiếm hoi ở Florence có thể mở được những cánh cửa đó.
Robert, cổng đã mở cho anh, nhưng anh phải nhanh lên.
Langdon trao chiếc iPhone lại cho bà cụ và hết lời cảm ơn bà.
Anh chạy lại chỗ Sienna và nói nhỏ đầy phấn khởi, “Anh biết Ignazio nói về cánh cổng nào rồi! Cổng Thiên đường!”
Sienna tỏ vẻ hồ nghi. “Cổng Thiên đường à? Chúng không nằm… trên thiên đường chứ?”
“Thực ra”, Langdon nói, cười chế nhạo và tiến thẳng ra cửa, “nếu em biết nơi nào cần thăm thì Florence chính là thiên đường”.
--53--
“Ta sẽ trở về như một thi sĩ… ngay bồn nước rửa tội của ta.”
Những lời Dante liên tục dội lên trong tâm trí Langdon khi anh dẫn Sienna đi về phía bắc, men theo một lối đi hẹp mang tên Via dello Studio. Đích đến của họ nằm ở phía trước, và cứ mỗi bước đi, Langdon lại thêm tự tin rằng họ đang đi đúng đường và bỏ lại những kẻ đeo bám phía sau.
Cổng đã mở cho anh, nhưng anh phải nhanh lên.
Khi họ đến gần cuối ngõ phố sâu như một vực thẳm, Langdon nghe thấy âm thanh nhộn nhạo của hoạt động phía trước. Đột ngột, đầu kia ngõ phố kết thúc, và họ thoát ra một không gian rộng rãi.
Quảng trường Duomo.
Khu quảng trường mênh mông cùng với hệ thống các kiến trúc phức tạp này là trung tâm du lịch, quảng trường nhộn nhịp toàn xe bus chở du khách cùng từng đoàn tham quan nhà thờ lớn danh tiếng của Florence.
Đi đến mé phía nam của quảng trường, lúc này Langdon và Sienna đứng đối diện hông nhà thờ với phần bên ngoài ốp cẩm thạch xanh lục, hồng và trắng lộng lẫy. Với quy mô cũng như kiến trúc nghệ thuật khiến người ta phải nín thở, tất cả các chiều của nhà thờ đều vươn dài đến mức gần như phi thường, tổng chiều dài của nó gần ngang bằng với Đài tưởng niệm Washington nếu nằm cạnh nhau.
Mặc dù đã từ bỏ kiểu chạm khắc đá cầu kỳ đơn sắc truyền thống để tiếp nhận kiểu pha trộn nhiều màu sắc, công trình này vẫn thuần túy theo phong cách Gothic – cổ kính, đồ sộ, và bền vững. Phải thừa nhận, ngay từ lần đầu tiên đến Florence, Langdon đã thấy công trình này vô cùng hoàn mỹ. Tuy nhiên, trong những chuyến tiếp theo, anh đều phải bỏ ra hàng giờ nghiên cứu công trình, bị cuốn hút bởi những hiệu ứng mỹ thuật khác thường, và thán phục vẻ đẹp ngoạn mục của nó.
Nhà thờ Il Duomo – hay gọi một cách trịnh trọng hơn là Vương cung Thánh đường Santa Maria del Fiore – ngoài việc cho Ignazio một biệt danh, thì từ lâu cũng đem lại cho Florence không chỉ một trái tim tinh thần mà còn cả hàng thế kỷ kịch nghệ và tình tiết. Quá khứ không mấy bình yên của tòa nhà này xuất phát từ những cuộc tranh luận kéo dài và căng thẳng về bức bích họa bị phỉ báng Phán quyết cuối cùng của Vasari bên trong mái vòm tới cuộc thi quyết liệt nhằm lựa chọn kiến trúc sư để hoàn tất phần mái vòm.
Cuối cùng Filippo Brunelleschi giành được hợp đồng và hoàn thiện mái vòm – hạng mục lớn nhất thời đó. Hiện nay có thể thấy tượng của chính Brunelleschi ngồi bên ngoài Cung điện Canonici đang mãn nguyện nhìn lên kiệt tác của mình.
Sáng hôm nay, khi ngước mắt nhìn lên trời về phía mái vòm lợp ngói đỏ nổi tiếng, từng là một kỳ công kiến trúc ở thời đại của nó, Langdon nhớ lại thời khắc ngu ngốc khi anh quyết định leo lên mái vòm để rồi phát hiện ra rằng những cầu thang chật hẹp đông nghịt khách du lịch của công trình cũng kinh khủng chẳng kém gì những không gian khép kín mà anh từng gặp phải. Cho dù như vậy, Langdon vẫn rất biết ơn thử thách mà anh đã chịu đựng khi leo lên “Mái vòm Brunelleschi”, vì nó khuyến khích anh đọc một cuốn sách thú vị cùng tên của Ross King.
“Anh Robert?”, Sienna lên tiếng. “Anh đi tiếp chứ?”
Langdon rời ánh mắt khỏi mái vòm, nhận ra rằng mình đang đứng giữa đường để chiêm ngưỡng công trình. “Anh xin lỗi.”
Họ tiếp tục di chuyển, men theo mép ngoài của quảng trường. Thánh đường lúc này ở bên phải họ, và Langdon nhìn thấy du khách đang túa ra từ các lối thoát bên sườn, gạch bỏ địa điểm này khỏi danh sách những nơi nhất thiết phải tới tham quan.
Phía đằng trước là hình dáng không thể nhầm lẫn của một gác chuông – hạng mục thứ hai trong ba công trình nằm trong quần thể Thánh đường. Vẫn được nhiều người biết đến như là tháp chuông Giotto, gác chuông này hiển nhiên thuộc về Vương cung Thánh đường kề bên. Được trang điểm bằng đá ốp màu hồng, xanh lục và trắng giống hệt Thánh đường, tòa tháp vuông vức vươn lên trời, tới một độ cao chóng mặt, gần một trăm mét. Langdon luôn kinh ngạc là công trình mảnh mai này lại có thể đứng vững suốt nhiều thế kỷ, trải qua những trận động đất và thời tiết khắc nghiệt, đặc biệt nếu biết được đỉnh của nó nặng như thế nào khi phần tháp nhọn trên đỉnh còn đỡ hơn chín tấn chuông.
Sienna bước nhanh bên cạnh anh, lo lắng lướt mắt nhìn bầu trời phía sau tòa tháp chuông, rõ ràng đang tìm kiếm chiếc máy bay do thám, nhưng không thấy nó ở đâu cả. Có khá đông người, dù bây giờ vẫn còn rất sớm, và Langdon thấy rất nên ẩn mình trong đám đông.
Khi tới gần gác chuông, họ đi qua một dãy họa sĩ biếm họa đứng bên giá vẽ, phác thảo những hình vẽ trào phúng sặc sỡ của các du khách – một cậu nhóc mắm môi mắm lợi trên chiếc ván trượt, một cô gái có hàm răng như ngựa đang cầm cây gậy đánh bóng, một cặp vợ chồng đi hưởng tuần trăng mật đang hôn nhau trên lưng một con kỳ lân. Langdon thấy rất thú vị là hoạt động này được phép diễn ra trên chính những viên sỏi thiêng liêng nơi Michelangelo từng đặt giá vẽ của mình khi còn nhỏ.
Langdon và Sienna tiếp tục đi nhanh quanh chân tháp chuông Giotto, rẽ sang phải, băng qua quảng trường rộng rãi thẳng tới trước Vương cung Thánh đường. Ở đây có rất đông du khách từ khắp thế giới đang chĩa những chiếc điện thoại có máy ảnh và cả những máy quay video về phía mặt tiền chính sặc sỡ.
Langdon không buồn ngước lên vì anh đã chú ý tới một công trình nhỏ hơn nhiều vừa xuất hiện trong tầm mắt. Nằm đối diện lối vào phía trước của Thánh đường là hạng mục thứ ba, cũng là cuối cùng, của quần thể Vương cung Thánh đường.
Đó cũng là địa điểm ưa chuộng của Langdon.
Nhà rửa tội San Giovanni.
Được trang trí bằng đá ốp cùng loại nhưng nhiều màu sắc và các trụ bổ tường giống như Thánh đường, Nhà rửa tội khác biệt với tòa nhà lớn nhờ hình dạng ấn tượng của nó – một hình bát giác hoàn hảo. Giống như một chiếc bánh ngọt nhiều lớp, theo mô tả của một số người, tòa kiến trúc tám cạnh này gồm ba tầng rõ rệt vươn cao dần đến phần mái màu trắng.
Langdon biết hình bát giác chẳng liên quan gì đến thẩm mỹ mà hoàn toàn chỉ mang tính biểu tượng. Trong Thiên Chúa giáo, con số tám tượng trưng cho sự tái sinh và tái tạo. Hình bát giác còn là hình ảnh gợi nhớ sáu ngày Chúa sáng tạo ra bầu trời và trái đất, ngày nghỉ Sabbath – Chủ nhật, và ngày thứ tám khi những người Thiên Chúa giáo được “tái sinh” và “tái tạo” nhờ lễ rửa tội. Bát giác đã trở thành một hình phổ biến của các nhà rửa tội trên khắp thế giới.
Mặc dù Langdon coi Nhà rửa tội này là một trong những tòa nhà ấn tượng nhất Florence nhưng anh vẫn luôn thấy việc lựa chọn địa điểm này có phần không được bình thường. Nhà rửa tội này, gần như không giống nơi nào khác trên trái đất, là trung tâm thu hút sự chú ý nếu nằm đơn lẻ. Tuy nhiên, ở đây, trong cái bóng của hai hạng mục “anh em” kia, Nhà rửa tội tạo ra ấn tượng về một thứ quá ư tầm thường.
Cho tới khi các vị bước vào bên trong, Langdon nhủ thầm, hình dung ra phần nội thất chạm khảm tuyệt mỹ đến mức những người chiêm ngưỡng trước kia đã phải thốt lên rằng trần nhà của Nhà rửa tội chẳng khác gì thiên đường. Nếu em biết nơi nào cần thăm, Langdon đã nói với Sienna, thì Florence chính là thiên đường.
Trong nhiều thế kỷ, điện thờ tám cạnh này là nơi diễn ra lễ rửa tội của vô số nhân vật quyền quý – trong đó có Dante.
Ta sẽ trở về như một thi sĩ… ngay bồn nước rửa tội của ta.
Do bị trục xuất, Dante chẳng bao giờ được phép trở về nơi linh thiêng này – nơi ông chịu lễ rửa tội – mặc dù Langdon càng lúc càng thấy hy vọng rằng chiếc mặt nạ người chết của Dante, trải qua một chuỗi những sự kiện diễn ra đêm qua, cuối cùng cũng đã thay mặt cho thi hào tìm được đường trở về.
Nhà rửa tội, Langdon nghĩ. Đây chắc là nơi Ignazio giấu chiếc mặt nạ trước khi chết. Anh nhớ lại lời nhắn tuyệt vọng của Ignazio trên điện thoại, và trong một khắc rợn mình, Langdon hình dung ra người đàn ông béo tốt ôm chặt lấy ngực, lảo đảo băng qua quảng trường để chui vào một ngõ hẹp, và gọi cuộc điện thoại cuối cùng sau khi cất chiếc mặt nạ an toàn trong Nhà rửa tội này.
Cổng đã mở cho anh.
Mắt Langdon vẫn dán chặt vào Nhà rửa tội lúc anh và Sienna lách qua đám đông. Lúc này Sienna di chuyển với vẻ phấn khích đến mức Langdon gần như phải rảo chân mới theo kịp. Thậm chí còn cách một quãng nhưng anh đã có thể nhìn rõ những cánh cửa chính đồ sộ của Nhà rửa tội lấp loáng trong ánh nắng.
Những cánh cửa cao hơn bốn mét rưỡi chế tác bằng đồng mạ đã khiến Lorenzo Ghiberti mất hơn hai mươi năm mới hoàn thành. Chúng đều được trang trí bằng mười ô dày đặc hình ảnh trong Kinh Thánh trang nhã và tuyệt vời đến mức Giorgio Vasari đã phải tả những cánh cửa này “hoàn hảo không thể chê ở mọi phương diện và… là kiệt tác tuyệt vời nhất từng được tạo ra”.
Tuy nhiên, chính Michelangelo mới là người đưa ra lời chứng thực khiến cho những cánh cửa này có biệt danh còn mãi đến tận hôm nay. Michelangelo đã nhận xét chúng đẹp đến mức rất phù hợp để sử dụng làm… Cổng Thiên đường.
--54--
Linh Thánh bằng đồng, Langdon thầm nghĩ trong lúc chiêm ngưỡng những cánh cửa tuyệt đẹp trước mắt họ. Cánh cổng Thiên đường lấp lánh của Ghiberti gồm mười ô vuông, mỗi ô mô tả một cảnh quan trọng rút ra từ Kinh Cựu ước. Từ vườn Địa đàng tới Moses và đền thờ vua Solomon, câu chuyện kể bằng hình thức điêu khắc của Ghiberti mở ra qua hai cột dọc, mỗi bên năm ô.
Chuỗi cảnh trí độc đáo tuyệt vời này theo thời gian đã khởi nguồn cho một hình thức thi tài trong giới nghệ sĩ và sử gia nghệ thuật, với tất cả mọi người, từ Botticelli tới những nhà phê bình hiện đại, đều khẳng định sở thích của họ dành cho “Ô đẹp nhất”. Qua nhiều thế kỷ, người ta nhất trí chung rằng “quán quân” vẫn là cảnh Jacob và Esau - ô chính giữa của cột bên trái - được lựa chọn vì số lượng phương pháp nghệ thuật rất ấn tượng cần vận dụng để chế tác nó. Tuy nhiên, Langdon ngờ rằng lý do đích thực khiến ô này thắng thế là vì Ghiberti đã chọn nó để ký tên mình.
Vài năm trước, Ignazio Busoni đã tự hào cho Langdon xem những cánh cửa này, ngượng ngùng thừa nhận rằng sau nửa thiên niên kỷ phơi mình trước lũ lụt, phá hoại và ô nhiễm không khí, những cánh cửa mạ vàng đã được đổi bằng những bản mô phỏng chính xác, còn bản gốc hiện được cất giữ an toàn bên trong Bảo tàng Opera del Duomo để tu bổ. Langdon đã lịch sự kìm nén không nói với Busoni rằng anh biết rất rõ họ đang chiêm ngưỡng đồ giả, và rằng trên thực tế, những bản sao này là bộ cánh cửa Ghiberti “giả mạo” thứ hai mà Langdon từng gặp - bộ thứ nhất là khi anh nghiên cứu những mê cung tại Thánh đường Grace ở San Francisco và tình cờ phát hiện ra rằng bản sao Cổng Thiên đường của Ghiberti đã được dùng làm cửa trước của Thánh đường này từ giữa thế kỷ XX.
Khi đứng trước kiệt tác của Ghiberti, mắt anh bị thu hút bởi tấm biển thông tin ngắn gọn lắp gần đó, bên trên đề một cụm từ đơn giản bằng tiếng Ý khiến anh chú ý và giật mình.
La peste nera. Cụm từ này có nghĩa là “Cái chết Đen”. Chúa ơi, Langdon nghĩ bụng, nó xuất hiện khắp mọi nơi mình đến! Theo tấm biển đó, những cánh cửa này được đặt làm “lễ vật” dâng lên Chúa trời - một biểu hiện tỏ lòng biết ơn vì Người đã giúp Florence sống sót qua đại dịch.
Langdon cố nhìn lại Cổng thiên đường trong khi những lời của Ignazio vang lên trong tâm trí anh. Cổng đã mở cho anh, nhưng anh phải nhanh lên.
Mặc dù Ignazio đã hứa hẹn, nhưng Cổng thiên đường vẫn đóng chặt như mọi khi, ngoại trừ vào những kỳ nghỉ lễ tôn giáo hiếm hoi. Bình thường, khách du lịch đi vào Nhà rửa tội từ một bên khác, qua cửa phía bắc.
Sienna đã nhón chân tới bên cạnh anh, cố gắng quan sát đám đông. “Không hề có tay nắm cửa”, cô nói. “Không có lỗ khóa. Chẳng có gì cả.”
Đúng, Langdon nghĩ, biết rằng Ghiberti không có ý định phá hủy kiệt tác của mình bằng một thứ gì đó trần tục như là tay nắm cửa. “Cánh cửa mở vào trong. Người ta khóa từ bên trong.”
Sienna ngẫm nghĩ một lúc, rồi mím môi. “Vậy từ ngoài này… không ai biết liệu những cánh cửa này có khóa hay không.”
Langdon gật đầu. “Anh hy vọng đó chính là điều Ignazio nghĩ.”
Anh bước vài bước sang bên phải và nhìn về một cánh cửa ít trang hoàng hơn ở bên sườn phía bắc của tòa nhà – lối vào dành cho dukhách. Một thuyết trình viên trông có vẻ chán nản đang hút thuốc ở đó và từ chối trả lời du khách bằng cách chỉ vào tấm biển ở lối vào:
APERTURA [26] 13:00 – 17:00
Vài giờ nữa mới mở cửa, Langdon nghĩ và cảm thấy hài lòng. Và chưa có ai ở bên trong.
Theo thói quen, anh nhìn đồng hồ đeo tay và lại nhớ ra rằng chiếc đồng hồ Chuột Mickey đã biến mất.
Khi anh quay lại chỗ Sienna, cô đã nhập vào một nhóm du khách đang chụp ảnh qua hàng rào sắt được dựng cách vài mét phía trước Cổng Thiên đường để ngăn du khách tiếp xúc quá gần kiệt tác của Ghiberti.
Cánh cổng bảo vệ này làm bằng gang đúc màu đen, trên đỉnh gắn những mũi nhọn sơn vàng, và trông chẳng khác gì những tường rào tư gia đơn giản bao quanh các ngôi nhà vùng ngoai ô. Buồn cười là tấm biển cung cấp thông tin về Cổng Thiên đường lại không được gắn trên những cánh cổng đẹp đẽ bằng đồng, mà trên cánh cổng bảo vệ tầm thường.
Langdon đã nghe nói về việc bố trí tấm biển thông tin đôi khi gây nhầm lẫn cho khách du lịch, và vừa hay có một phụ nữ mập lùn mặc bộ đồ len hiệu Juicy Couture len qua đám đông, đọc tấm biển, cau mày nhìn cách cổng gang và chế diễu, “Cổng thiên đường cơ à? Của khỉ, trông như hàng rào ngăn chó ở nhà tôi!”. Rồi cô ta lạch bạch bỏ đi khi chưa ai kịp giải thích điều gì.
Sienna nhích tới và vịn vào cánh cổng bảo vệ, hờ hững nhòm qua các lan sắt để quan sát kết cấu khóa ở phía sau.
“Nhìn kìa”, cô thì thào, mở to mắt, ngoảnh về phia Langdon, “Cái khóa ở phía sau không khóa.”
Langdon cũng nhìn qua rào sắt và thấy cô nói đúng. Chiếc khóa đặt ở vị trí như thể đã khóa chặt, nhưng khi nhìn gần hơn, anh có thể thấy nó hoàn toàn không khóa.
Cổng đã mở cho anh, nhưng anh phải nhanh lên.
Langdon ngước mắt nhìn Cổng Thiên đường phía sau hàng rào. Nếu đúng là Ignazio để ngỏ những cánh cửa đồ sộ của Nhà rửa tội thì chỉ việc đẩy là chúng mở ra. Tuy nhiên, lọt được vào trong mà không gây chú ý cho tất cả mọi người trên quảng trường, đương nhiên bao gồm cả cảnh sát và bảo vệ của Duomo, mới là việc khó khăn.
“Nhìn kìa!”, một phụ nữ đột nhiên kêu ré lên ở gần đó. “Anh ta sắp nhảy!” Giọng cô ấy đầy kinh hãi. “Tháp chuông đằng kia kìa!”
Langdon rời mắt khỏi những cánh cửa, và nhìn thấy người phụ nữ đang hét lên… chính là Sienna. Cô đứng cách đó năm thước, tay chỉ về phía tháp chuông Giotto và kêu to, “Ở trên đỉnh ấy! Anh ta sắp nhảy!”.
Mọi cặp mắt đều ngước lên trời, tìm kiếm trên đỉnh tháp chuông. Gần đó, những người khác bắt đầu chỉ trỏ, nheo mắt, hỏi nhau.
“Có ai đó định nhảy xuống à?!”
“Đâu cơ?!”
“Tôi không nhìn thấy anh ta!”
“Trên kia, ở bên trái phải không?!”
Chỉ mất vài giây, mọi người trên khắp quảng trường đều cảm thấy hoảng loạn và có chung hành động – cùng ngước nhìn lên đỉnh tháp chuông. Với tốc độ của đám cháy đang thiêu rụi một cánh đồng cỏ khô, tâm lý sợ hãi lan khắp quảng trường cho tới khi toàn bộ đám đông đều ngóng cổ, nhìn lên, và chỉ trỏ.
Tiếp thị kiểu lây lan, Langdon nghĩ, biết rằng anh chỉ có một khắc để hành động. Lập tức, anh nắm lấy hàng rào gang đúc rồi đẩy nó mở ra vừa lúc Sienna trở lại bên cạnh anh và cùng anh lách vào không gian chật chội phía sau. Khi đã đóng lại cổng phía sau, họ quay lại đối diện với những cánh cửa bằng đồng cao bốn mét rưỡi. Hy vọng đã hiểu đúng lời Ignazio, Langdon tì vai vào một bên cánh cửa đồ sộ và đạp mạnh chân.
Chẳng có gì xảy ra, và rồi, rất từ từ, cánh cửa nặng nề bắt đầu nhúc nhích. Cánh cửa đã mở! Cổng Thiên đường mở khoảng ba mươi phân, và Sienna không bỏ phí thời gian nghiêng người lách qua. Langdon cũng theo sát, nghiêng mình lách qua khe hở rất hẹp để tiến vào không gian tối om của Nhà rửa tội.
Họ cùng quay đầu và đẩy cánh cửa theo hướng ngược lại, nhanh chóng khép cánh cổng đồ sộ lại bằng một lực dứt khoát. Lập tức, tiếng ồn ào hỗn loạn bên ngoài im bặt, chỉ còn sự im lặng.
Sienna chỉ thanh xà gỗ dài trên sàn dưới chân họ, rõ ràng vẫn được đặt vào các hốc tường hai bên cửa để làm then. “Chắc Ignazio đã tháo nó cho anh”, cô nói.
Họ cùng nâng thanh xà và đặt trở lại hốc, khóa chặt Cổng Thiên đường và nhốt họ an toàn bên trong.
Langdon và Sienna im lặng đứng lúc lâu, dựa vào cửa và lấy lại nhịp thở. So với những tiếng ồn ào của quảng trường bên ngoài, bên trong Nhà rửa tội là cảm giác bình yên như thể ở trên thiên đường.
Bên ngoài Nhà rửa tội San Giovanni, người đàn ông đeo kính Plume Paris và chiếc cà vạt in hoa lách qua đám đông, mặc kệ những ánh mắt lo lắng nhận ra tình trạng phát ban rướm máu của ông ta.
Ông ta tới chỗ những cánh cửa bằng đồng mà Robert Langdon cùng người bạn đồng hành tóc vàng của anh vừa biến mất. Thậm chí đứng ở bên ngoài, ông ta vẫn nghe rõ tiếng chèn cửa nặng nề từ bên trong.
Không thể vào bằng đường này rồi.
Không khí trên quảng trường từ từ trở lại bình thường. Những du khách đang chăm chú nhìn lên vẻ đề phòng giờ không còn quan tâm nữa. Không có ai nhảy xuống cả. Tất cả mọi người tiếp tục việc của mình.
Người đàn ông lại thấy ngứa ngáy, tình trạng phát ban của ông ta thêm nặng. Giờ đầu ngón tay của ông ta đang sưng vù và nứt nẻ. Ông ta đút tay vào túi để cố không gãi. Tim ông ta tiếp tục đập mạnh khi đi vòng quanh tòa nhà bát giác để tìm lối vào khác.
Ông ta vừa kịp vòng qua góc tường khác thì cảm thấy một cơn đau nhói ở cổ và nhận thấy mình lại đang gãi lấy gãi để.
