Tác giả: Dan Brown
--47--
Bên ngoài quảng trường, trong đám cảnh sát đang hỗn loạn đổ tới có một người đàn ông trung niên đứng trong bóng râm của Loggia dei Lanzi. Ông ta đang quan sát mọi việc với vẻ rất chăm chú. Người đàn ông đeo một cặp kính hiệu Plume Paris, cà vạt họa tiết cánh hoa, và một bên tai có chiếc khuyên vàng nhỏ xíu.
Vừa đứng quan sát cảnh náo loạn, ông ta vừa gãi gãi cổ. Người đàn ông này bị mẩn ngứa suốt đêm, và có vẻ càng lúc càng nặng, biểu hiện là những nốt nhỏ trên cằm, cổ, má và cả trên mắt.
Liếc mắt xuống móng tay mình, ông ta thấy rướm máu. Ông ta rút một chiếc khăn ra và lau móng tay, đồng thời thấm cả những nốt mụn rướm máu trên cổ và má.
Khi đã lau sạch, ông ta lại hướng ánh mắt về hai chiếc xe thùng màu đen đỗ bên ngoài cung điện. Chiếc xe gần nhất có hai người ngồi ở băng ghế sau.
Một trong số đó là gã lính có vũ trang mặc đồ đen.
Người kia là một phụ nữ tóc bạc đã đứng tuổi nhưng rất xinh đẹp, đeo một chiếc bùa màu lam.
Người lính trông như thể đang chuẩn bị một ống tiêm dưới da.
Bên trong chiếc xe thùng, tiến sĩ Elizabeth Sinskey thẫn thờ nhìn ra ngoài về phía cung điện, tự hỏi không biết cuộc khủng hoảng này đã tồi tệ đến mức độ nào rồi.
“Thưa bà”, một giọng nói trầm trầm vang lên bên cạnh bà.
Bà lảo đảo quay lại phía người lính kèm bên mình. Anh ta đang nắm lấy cánh tay bà và cầm một ống tiêm. “Xin hãy ngồi yên!”
Mũi kim tiêm nhọn hoắt xuyên vào da thịt bà.
Người lính đã hoàn thành mũi tiêm. “Giờ xin hãy ngủ lại đi!”
Khi nhắm mắt lại, bà vẫn kịp nhận ra có một người đàn ông đang nhìn bà từ trong bóng râm. Ông ta đeo một cặp kính thời trang và chiếc cà vạt sành điệu. Khuôn mặt ông ta nổi mẫn và đỏ ửng. Bà nhất thời nghĩ mình biết ông ta, nhưng khi mở mắt nhìn lại thì người đàn ông đã biến mất.
--48--
Trong bóng tối của tầng áp mái, Langdon và Sienna giờ đã bị chia tách bởi một khoảng trống rộng tới sáu mét. Phía dưới họ hơn hai mét, tấm ván bị rớt đã nằm yên trên phần khung gỗ căng tấm toan vẽ bức Lễ phong thánh của Vasari. Cái đèn pin, lúc này vẫn sáng, nằm trên tấm toan, tạo thành một vết lõm nhỏ, giống như một hòn đá nằm trên tấm bạt lò xo.
“Tấm ván sau lưng em”, Langdon thì thào. “Em có thể bắc nó tới thanh giằng này không?”
Sienna nhìn tấm ván. “Không thể làm được mà không khiến đầu kia rớt xuống tấm toan.”
Langdon rất e ngại rằng việc cuối cùng họ cần lúc này là gây ra một cú va chạm nữa xuyên thủng tấm toan của Vasari.
“Em có ý này”, Sienna nói, di chuyển nghiêng dọc theo thanh giằng, tiến tới bức tường bên. Langdon bám theo cây xà rầm của mình, mỗi bước chân càng lúc càng trở nên nguy hiểm khi họ đánh liều rời xa khỏi quầng sáng đèn pin. Lúc tới được bức tường bên, họ gần như đã chìm trong bóng tối.
“Dưới đó”, Sienna thì thào, chỉ tay vào khoảng tối phía dưới họ. “Gờ khung tranh. Nó được cố định vào bức tường bên. Nó sẽ đỡ được em.”
Langdon chưa kịp phản đối thì Sienna đã tụt khỏi thanh giằng, tận dụng các xà rầm đỡ làm cầu thang. Cô dễ dàng xuống được đến gờ của phần khuôn gỗ. Nó kêu ken két, nhưng vẫn giữ nguyên. Sau đó, Sienna nhích từng chút men theo tường, bắt đầu tiến về phía Langdon như thể đang nhích dần ngang qua mép của một tòa nhà cao. Khuôn gỗ lại kêu ken két lần nữa.
Khác gì băng mỏng, Langdon thầm nghĩ. Cần ở gần bờ.
Khi Sienna đi được một nửa đường, và đang tiếp cận thanh giằng nơi anh đứng bên trên trong bóng tối, Langdon chợt thấy le lói chút hy vọng rằng họ có thể thoát ra khỏi đây kịp lúc.
Đột nhiên, đâu đó trong bóng tối phía trước, Langdon nghe thấy tiếng một cánh cửa đóng mạnh lại và những bước chân di chuyển nhanh đang tiến lại theo lối đi. Quầng sáng của một ngọn đèn pin xuất hiện, quét khắp tầng áp mái, càng lúc càng gần. Langdon cảm thấy niềm hy vọng của mình vụt tắt. Có ai đó đang tiến tới, di chuyển dọc lối đi chính và chặn luôn lối thoát của họ.
“Sienna, cứ đi đi”, anh thì thào, phản ứng theo bản năng. “Cứ tiếp tục đi hết chiều dài bức tường. Có một lối thoát ở đầu kia. Anh sẽ chạy cản đầu.”
“Đừng!”, Sienna thì thào gấp gáp. “Anh Robert, quay lại đi!”
Nhưng Langdon đã di chuyển, quay ngược lại, men theo thanh giằng về phía xương sống trung tâm của tầng áp mái, bỏ mặc Sienna trong bóng tối, đang nhích dần qua bức tường bên, phía dưới anh hơn hai mét.
Khi Langdon đến được trung tâm tầng áp mái, một cái bóng không rõ mặt cùng với cây đèn pin cũng vừa đến được sàn quan sát được nâng cao lên. Bóng người đó dừng lại chỗ tay vịn thấp và chĩa quầng sáng đèn thẳng vào mắt Langdon.
Quầng sáng chói mắt, Langdon lập tức giơ tay đầu hàng. Anh cảm thấy tình thế hiện giờ không thể nguy hiểm hơn được nữa – đứng chênh vênh tít cao phía trên Sảnh Năm trăm, bị một quầng sáng rất mạnh làm chói mắt.
Langdon đợi một tiếng súng hoặc một mệnh lệnh, nhưng chỉ có sự im lặng. Một lúc sau, quầng sáng rời khỏi mặt anh và bắt đầu vung vẩy trong phần bóng tối phía sau lưng anh, rõ ràng đang tìm kiếm gì đó… hoặc ai đó. Khi quầng sáng rời khỏi mắt, Langdon vừa kịp nhận ra bóng của người đang chặn đường thoát của mình. Đó là một phụ nữ, thon thả và mặc toàn đồ đen. Anh tin chắc rằng bên dưới cái mũ bóng chày của ả là mái tóc đầu đinh.
Các cơ của Langdon cứng lại khi trí nhớ của anh toàn hình ảnh của bác sĩ Marconi nằm chết trên sàn bệnh viện.
Ả đã tìm ra mình. Ả ở đây để kết thúc công việc.
Langdon vụt nhớ tới cảnh những người thợ lặn tự do người Hy Lạp đang bơi sâu vào trong một đường hầm, vượt qua cả điểm có thể quay lại, và rồi đâm sầm vào một lối cụt lạnh lẽo.
Sát thủ lại vung quầng sáng đèn rọi vào mắt Langdon.
“Ông Langdon”, ả thì thào. “Bạn của ông đâu rồi?”
Langdon cảm thấy lạnh toát. Ả sát thủ này ở đây để giết cả hai chúng ta.
Langdon đánh mắt rời khỏi phía Sienna, liếc lại khoảng tối họ đến khi nãy. “Cô ấy không liên quan gì đến việc này. Cô cần tôi mà.”
Langdon cầu mong lúc này Sienna đã men dọc theo bức tường. Nếu vòng được qua sàn quan sát, thì cô có thể lặng lẽ leo trở lại lối đi trung tâm, ngay phía sau lưng ả đàn bà đầu đinh, và di chuyển về phía cửa.
Ả sát thủ lại nhấc đèn lên và quét vào khoảng không gian tầng áp mái trống vắng phía sau lưng anh. Khi quầng ánh sáng tạm thời rời khỏi mắt, Langdon vẫn kịp thoáng thấy một dáng người trong bóng tối phía sau ả.
Ôi, lạy Chúa, không.
Thực tế, Sienna đang lần qua một thanh giằng về phía lối đi trung tâm, nhưng rủi thay, cô lại chỉ ở phía sau kẻ tấn công có mười thước.
Sienna, không! Em ở quá gần! Ả sẽ nghe thấy em mất!
Quầng sáng lia trở lại mắt Langdon.
“Nghe kỹ đây, thưa giáo sư, ả sát thủ thì thào. “Nếu ông muốn sống, tôi khuyên ông nên tin tôi. Nhiệm vụ của tôi đã thất bại. Tôi không có lý do gì để hại ông. Ông và tôi giờ cùng một phe, và tôi biết cách giúp ông.”
Langdon không nghe rõ mấy vì ý nghĩ của anh đang tập trung vào Sienna. Ở góc nhìn nghiêng, anh thấp thoáng thấy cô đang thầm leo lên lối đi phía sau sàn quan sát, quá gần với ả đàn bà cầm súng.
Chạy đi! Anh thầm mong. Tìm cách chuồn ngay khỏi đây!
Thế nhưng trước sự thảng thốt của Langdon, Sienna lại bám sát mặt đất, cúi thật thấp trong bóng tối và im lặng quan sát.
Mắt Vayentha săm soi khoảng tối phía sau Langdon. Cô ả biến đi đằng quái nào nhỉ? Bọn họ tách khỏi nhau chăng?
Vayentha phải tìm cách không để cặp đôi đang trốn chạy này lọt vào tay Brüder. Đó là hy vọng duy nhất của ta.
“Sienna?!”, Vayentha đánh liều gọi thầm trong cổ họng. “Nếu cô nghe được tiếng tôi thì hãy nghe cho kỹ. Cô không nên để đám người dưới kia tóm được. Họ sẽ không hiền lành đâu. Tôi biết một lối thoát. Tôi có thể giúp cô. Tin tôi đi.”
“Tin cô ư?”, Langdon vặn hỏi, giọng anh đột ngột đủ lớn để bất kỳ ai ở gần đó cũng có thể nghe được. “Cô là một kẻ giết người!”
Sienna ở gần đây, Vayentha nhận ra ngay. Langdon đang nói cho ả nghe… cố gắng cảnh báo ả đây mà.
Vayentha thử lại lần nữa. “Sienna, tình hình rất phức tạp, nhưng tôi có thể đưa hai người ra khỏi đây. Hãy cân nhắc lựa chọn của cô. Cô bị mắc kẹt rồi. Cô không còn lựa chọn nào khác.”
“Cô ấy còn một lựa chọn”, Langdon nói to. “Và cô ấy đủ thông minh để chạy càng xa càng tốt.”
“Mọi chuyện đều đang thay đổi rồi”, Vayentha kiên trì. “Tôi không còn lý do gì để làm hại hai người.”
“Cô đã giết bác sĩ Marconi! Và tôi đoán cô cũng là người đã bắn vào đầu tôi!”
Vayentha biết rằng người đàn ông này sẽ không bao giờ tin ả không có ý định giết anh ta.
Thời gian trò chuyện đã hết. Mình chẳng còn gì nói để thuyết phục anh ta.
Không chút do dự, ả thò tay vào áo khoác da và rút khẩu súng giảm thanh ra.
Không động đậy trong bóng tối, Sienna vẫn bò rạp trên lối đi cách chưa đầy mười thước phía sau ả đàn bà đứng đối diện Langdon. Ngay cả trong bóng tối, cái dáng của ả đàn bà vẫn không thể lẫn vào đâu được. Trước vẻ hãi hùng của Sienna, ả đang vung vẫy chính khẩu súng mà ả đã dùng để giết bác sĩ Marconi.
Ả sắp bắn, Sienna biết như vậy, cảm nhận rõ ngôn ngữ cơ thể của ả đàn bà.
Rất quả quyết, ả bước thêm hai bước đầy hăm dọa về phía Langdon, dừng lại ở phần tay vịn bao quanh sàn quan sát phía trên bức Lễ phong thánh của Vasari. Ả sát thủ lúc này tới gần Langdon hết mức. Ả giơ súng lên và chĩa thẳng vào ngực Langdon.
“Thứ này chỉ gây đau đớn trong tích tắc thôi”, ả nói, “nhưng đó là lựa chọn duy nhất của tôi”.
Sienna phản ứng theo bản năng.
Nhịp rung bất ngờ trên những tấm ván dưới chân Vayentha vừa đủ khiến ả hơi xoay đi lúc bóp cò. Lúc khẩu súng của ả nhả đạn, ả biết nó không còn chĩa vào Langdon nữa.
Có gì đó đang tiến lại phía sau lưng ả.
Tiến lại rất nhanh.
Vayentha xoay lại tại chỗ, chuyển khẩu súng của mình đúng một trăm tám mươi độ về phía kẻ tấn công mình, và một mái tóc vàng óng ánh lên trong bóng tối khi có ai đó lao sầm hết tốc lực vào Vayentha. Khẩu súng lại nhả đạn, nhưng người ấy cúi thấp dưới cả thắt lưng để xông cả cơ thể lên thật mạnh. Hai chân Vayentha rời khỏi sàn gỗ và nửa người ả đập mạnh vào phần tay vịn rất thấp của sàn quan sát. Khi cơ thể ả văng ra ngoài rào chắn, ả vung mạnh hai tay, cố gắng níu lấy bất cứ thứ gì ngăn không cho mình rơi xuống, nhưng đã quá muộn. Ả bổ nhào qua rào chắn.
Vayentha rơi qua bóng tối, cố gắng hết sức để tránh cú va đập xuống phần sàn bụi bặm cách sàn quan sát hơn hai mét phía dưới. Nhưng lạ thay, cú tiếp đất của ả mềm hơn ả tưởng, như thể ả vừa rơi trúng một chiếc võng vải, lúc này trĩu xuống dưới sức nặng của ả.
Mất phương hướng, Vayentha nằm ngửa và trợn trừng nhìn lên kẻ tấn công mình. Sienna Brooks đang ngó qua lan can nhìn ả. Choáng váng, Vayentha mở mồm định nói, nhưng đột nhiên, ngay bên dưới ả, có một tiếng rách toạc rất to.
Lớp vải đang đỡ sức nặng của ả rách toang.
Vayentha lại rơi xuống.
Lần này, ả rơi chỉ đúng ba giây, đủ để ả thấy mình vẫn trợn trừng nhìn lên phần trần nhà được phủ kín bằng những bức tranh rực rỡ. Bức vẽ ngay bên trên ả - một tấm toan tròn rất lớn mô tả Công tước Cosimo I có các thiên sứ vây quanh trên một đám mây thiên đường – giờ để lộ ra một khoảng đen ngòm cắt qua phần chính giữa.
Rồi, sau một tiếng va chạm đột ngột, toàn bộ thế giới của Vayentha chìm vào bóng tối.
Tít trên cao, như hóa đá vì không tin vào mắt mình, Robert Langdon đăm đăm nhìn qua bức Lễ phong thánh đã bị xé rách xuống khoảng không gian sâu hoắm phía dưới. Trên sàn đá của Sảnh Năm trăm, ả đàn bà đầu đinh nằm bất động, một vũng máu thẫm đang loang nhanh từ đầu ả. Ả vẫn nắm chặt khẩu súng trong tay.
Langdon ngước mắt nhìn Sienna, cũng đang đăm đăm nhìn xuống, sững sờ vì cảnh tượng thê thảm phía dưới. Nét mặt Sienna sốc nặng. “Em không có ý định…”
“Em chỉ phản ứng theo bản năng thôi”, Langdon thì thào. “Ả định giết anh.”
Từ phía dưới, những tiếng hét hoảng hốt vọng lên qua tấm toan đã bị xé rách.
Rất nhẹ nhàng, Langdon hướng dẫn Sienna rời khỏi rào chắn. “Chúng ta cần tiếp tục di chuyển.”
--49--
Trong phòng làm việc bí mật của Công nương Bianca Cappello, đặc vụ Brüder nghe rõ một tiếng thịch kinh người kéo theo những tiếng la thất thanh càng lúc càng rõ trong Sảnh Năm trăm. Gã nhảy bổ tới tấm lưới trên tường và nhìn qua đó. Cảnh tượng trên nền đá trang nhã phía dưới khiến gã mất vài giây để suy xét.
Cô nhân viên quản lý bảo tàng bụng mang dạ chửa đã đến bên cạnh gã chỗ tấm lưới, lập tức bụm miệng, đứng chết trân vì kinh hoảng trước cảnh tượng phía dưới – một xác người rũ rượi nằm giữa vòng vây của các du khách đang hoảng loạn. Ánh mắt của cô nhân viên quản lý từ từ ngước lên trần Sảnh Năm trăm rồi thốt lên một tiếng rên đau đớn. Brüder nhìn theo ánh mắt của cô ta lên một ô trần hình tròn – một tấm toan tranh vẽ với vết rách lớn cắt ngang phần chính giữa.
Gã quay lại phía cô nhân viên quản lý. “Làm cách nào lên đó!?”
Ở đầu bên kia tòa nhà, Langdon và Sienna hổn hển leo từ tầng áp mái xuống và lao qua cửa. Chỉ trong vài giây, Langdon đã tìm thấy cái hốc phòng nhỏ, ẩn kín phía sau một tấm rèm đỏ thẫm. Anh vẫn nhớ rõ nó nhờ chuyến tham quan các lối đi bí mật của mình.
Cầu thang Công tước Athens.
Tiếng những bước chân chạy vội vã và tiếng hò hét lúc này như đang vọng đến từ mọi hướng, và Langdon biết thời gian của họ không còn nhiều. Anh kéo tấm rèm sang bên, và cùng Sienna chui qua để sang một chiếu nghỉ nhỏ.
Không nói một lời, họ bắt đầu lần xuống cầu thang đá. Lối đi được thiết kế ngoắt ngoéo và hẹp một cách đáng sợ. Càng xuống sâu, lối đi dường như càng chật hẹp. Langdon cảm thấy như thể những bức tường đang nhích vào để nghiền nát anh, nhưng thật may, họ không phải đi xa thêm nữa.
Đã đến mặt đất.
Không gian ở dưới chân cầu thang là một buồng đá nhỏ xíu, và mặc dù lối ra của nó chắc chắn là một trong những cánh cửa nhỏ nhất trên đời nhưng đó vẫn là một hình ảnh tươi đẹp chào đón họ. Chỉ cao khoảng một mét hai, cánh cửa được làm bằng gỗ nặng trịch với những đinh sắt tán và một chốt trong rất to để ngăn không cho mọi người lọt vào.
“Em nghe thấy những âm thanh đường phố phía sau cửa”, Sienna thì thào, vẻ mặt vẫn còn kinh hãi. “Bên kia là đâu nhỉ?”
“Via della Ninna”, Langdon đáp, hình dung ra một con hẻm dành cho người đi bộ rất đông đúc. “Nhưng có thể có cảnh sát.”
“Họ sẽ không nhận ra chúng ta đâu. Họ sẽ tìm kiếm một cô gái tóc vàng và một anh chàng tóc sẫm màu.”
Langdon nhìn cô vẻ lạ lùng. “Vậy chính xác thì chúng ta là…”
Sienna lắc đầu, một vẻ kiên nghị u uẩn thoáng lướt qua trên mặt cô. “Em không muốn anh nhìn thấy em như thế này, Robert ạ, nhưng rất tiếc đây chính là hình ảnh thực sự của em.” Rất bất ngờ, Sienna giơ tay và tóm lấy mái tóc vàng óng của mình. Rồi cô kéo mạnh, toàn bộ mái tóc tuột xuống.
Langdon bật ngược lại, giật mình trước sự thật rằng Sienna đội tóc giả cũng như diện mạo hoàn toàn thay đổi của cô khi không còn tóc nữa. Thực tế đầu Sienna Brooks hoàn toàn trọc lóc, lớp da đầu nhẵn nhụi của cô trơn láng và xanh xao, giống như một bệnh nhân ung thư phải trị liệu bằng hóa chất. Hóa ra cô ấy bị bệnh sao?
“Em biết”, cô nói. “Chuyện rất dài. Giờ cúi xuống.” Cô giơ mái tóc giả lên, rõ ràng có ý muốn đội lên đầu Langdon.
Cô ấy nghiêm túc thật sao? Langdon miễn cưỡng cúi xuống, và Sienna trùm mái tóc vàng lên đầu anh. Mái tóc vừa khít, nhưng cô cố gắng chỉnh trang nó cho thật ổn. Sau đó cô lùi lại và ngắm nghía anh. Không hài lòng, cô đưa tay nới cà vạt của anh, và kéo phần vòng cổ lên trên trán anh, thắt lại thành một chiếc băng đô giữ chặt lấy mái tóc giả trên đầu anh.
Giờ Sienna bắt đầu chỉnh trang bản thân, xắn cao ống quần và kéo tất xuống đến mắt cá. Khi đứng lên, cô nhếch môi cười. Nàng Sienna Brooks đáng yêu giờ đây đã là một gã đầu trọc mê nhạc rook. Tài cải trang của cựu nữ diễn viên kịch Shakespeare thật đáng kinh ngạc.
“Hãy nhớ”, cô nói, “chín mươi phần trăm nhận dạng cá nhân là ngôn ngữ cơ thể, cho nên khi anh di chuyển, hãy giống như một tay chơi nhạc rook có tuổi.
Có tuổi, anh có thể làm được, Langdon nghĩ bụng. Còn tay chơi nhạc rook thì anh không chắc lắm.
Langdon chưa kịp có ý kiến gì, Sienna đã tháo chốt cánh cửa nhỏ rồi mở ra. Cô khom người và chui ra đường phố rải sỏi đông đúc. Langdon theo sau, gần như bò trên cả bốn chân khi anh đứng trong ánh sáng ban ngày.
Ngoài một vài ánh mắt thảng thốt nhìn “đôi đũa lệch” chui ra từ một ô cửa nhỏ ở tầng hầm của cung điện Vecchio, không ai buồn nhìn họ lần thứ hai. Chỉ vài giây sau, Langdon và Sienna đã di chuyển về phía đông, lẫn vào đám đông.
Người đàn ông đeo kính Plume Paris lau vội da thịt đang lấm tấm máu của mình trong lúc len lỏi qua đám đông, cố giữ khoảng cách an toàn phía sau Robert Langdon và Sienna Brooks. Bất chấp cách cải trang khôn khéo của họ, ông ta vẫn nhận ra họ chui ra từ một cánh cửa nhỏ trên hẻm Via della Ninna và lập tức biết ngay họ là ai.
Ông ta bám theo họ được vài dãy nhà thì mệt đứt hơi, ngực đau dữ dội, buộc ông ta phải thở hổn hển. Ông ta cảm thấy như bị nện mạnh vào ức.
Nghiến chặt răng để nhịn đau, ông ta gắng chú ý đến Langdon và Sienna trong lúc tiếp tục theo họ qua các đường phố ở Florence.
--50--
Mặt trời buổi sáng giờ đã lên cao, tạo thành những cái bóng đổ dài trên những con hẻm hẹp len lỏi qua các tòa nhà của Florence cổ kính. Các chủ cửa hàng đã bắt đầu kéo mở lưới sắt bảo vệ cửa hàng và quầy rượu của mình, không khí đã đẫm mùi thơm của cà phê espresso buổi sáng cùng món bánh sừng bò mới nướng.
Mặc dù đói cồn cào, Langdon vẫn tiếp tục đi. Mình phải tìm ra cái chiếc mặt nạ và xem đằng sau giấu cái gì.
Khi Langdon dẫn Sienna lên phía bắc dọc theo phố Via dei Leoni, anh vẫn cảm thấy không dễ quen với hình ảnh chiếc đầu trọc lóc của cô. Diện mạo thay đổi hoàn toàn của cô nhắc nhở rằng anh chỉ biết qua loa về cô. Giờ họ đang di chuyển về phía Quảng trường Duomo – khu quảng trường nơi người ta thấy xác của Ignazio Busoni sau khi thực hiện cuộc điện đàm cuối cùng.
Robert, Ignazio đã cố gắng nói, dù không thở được. Những gì anh tìm thấy đã được cất giấu an toàn. Cổng đã mở cho anh, nhưng anh phải nhanh lên. Thiên đường Hai mươi lăm. Chúc may mắn.
Thiên đường Hai mươi lăm, Langdon nhắc lại, vẫn cảm thấy khó hiểu vì trong lúc vội vàng không kịp suy nghĩ, Ignazio Busoni vẫn nhớ ra tác phẩm của Dante để nhắc đến một khổ thơ cụ thể. Rõ ràng khổ thơ đó có điều gì đó khiến Busoni nhớ. Cho dù là gì, Langdon biết mình sẽ phải tìm ra thật nhanh, ngay khi có trong tay một bản trường ca, việc anh có thể dễ dàng làm được ở rất nhiều địa điểm phía trước.
Mái tóc giả dài đến vai của anh giờ bắt đầu gây ngứa ngáy, và mặc dù cảm thấy có gì đó kỳ cục trong cách hóa trang của mình, nhưng anh phải thừa nhận rằng khả năng hóa trang ngẫu hứng của Sienna quả là một cách đánh lừa hiệu quả. Không ai nhìn họ lần thứ hai, ngay cả lực lượng cảnh sát tăng cường vừa hối hả đi qua họ về phía Cung điện Vecchio.
Sienna vẫn hoàn toàn im lặng đi bên cạnh anh mấy phút liền, Langdon phải liếc mắt nhìn lại để bảo đảm rằng cô vẫn ổn. Dường như cô ở cách xa mấy dặm, có lẽ đang cố chấp nhận thực tế rằng cô vừa giết người phụ nữ truy đuổi họ.
“Em nói gì đi chứ!”, anh đánh bạo, hy vọng kéo tâm trí cô thoát khỏi hình ảnh ả đàn bà đầu đinh nằm chết trên sàn cung điện.
Sienna từ từ ra khỏi trạng thái trầm tư. “Em đang nghĩ đến Zobrist”, cô chậm rãi nói. “Cố gắng nhớ lại bất kỳ điều gì khác mà em biết về ông ta.”
“Và?”
Cô nhún vai. “Hầu hết những gì em biết đều đến từ một bài viết gây tranh cãi mà ông ta viết cách đây vài năm. Nó thật sự khiến em ấn tượng. Trong cộng đồng y khoa, bài viết đó lập tức lan nhanh như virus.” Cô cau mày. “Xin lỗi, em không nên dùng từ đó.”
Langdon cười khan. “Em cứ nói tiếp đi.”
“Bài viết của ông ta cơ bản nói rằng loài người đang trên bờ vực tuyệt chủng, và trừ phi trải qua một thảm họa làm giảm mạnh tăng trưởng dân số toàn cầu, nếu không loài người chúng ta sẽ không thể sống nổi một trăm năm nữa.”
Langdon ngoảnh lại và nhìn sững cô. “Chỉ một thế kỷ thôi sao?”
“Đó là một luận điểm khá nghiệt ngã. Khung thời gian được dự báo ngắn hơn rất nhiều so với những dự báo trước đó, nhưng nó lại được củng cố bằng một số dữ liệu khoa học rất thuyết phục. Ông ta có thêm nhiều kẻ thù do tuyên bố rằng tất cả bác sĩ cần ngừng công việc chuyên môn, bởi vì việc làm tăng tuổi thọ của loài người chỉ càng làm vấn đề dân số trầm trọng thêm.”
Giờ Langdon đã hiểu tại sao bài viết lại lan truyền nhanh trong cộng đồng y học.
“Không có gì lạ”, Sienna tiếp tục. “Zobrist lập tức bị tấn công từ mọi phía – các chính trị gia, giới tăng lữ, Tổ chức Y tế Thế giới – tất cả đều xem ông ta là một gã điên tiên liệu về ngày tận thế và đang cố tìm cách gây hoảng loạn. Họ rất phật ý trước tuyên bố của ông ta rằng giới trẻ ngày nay, nếu họ lựa chọn việc sinh đẻ, sẽ khiến con cái mình chứng kiến sự cáo chung của loài người. Zobrist chứng minh quan điểm của mình bằng một ‘Đồng hồ Ngày tận thế,’ thể hiện rằng nếu toàn bộ thời gian tồn tại của loài người trên trái đất này được nén lại thành một giờ… thì giờ đây chúng ta đang ở những giây cuối cùng.”
“Thực tế anh đã nhìn thấy đồng hồ đó trên mạng”, Langdon nói.
“Vâng, chính là của ông ta, và nó cũng gây phẫn nộ. Tuy nhiên, phản ứng mạnh mẽ nhất chống lại Zobrist lại nảy sinh khi ông ta tuyên bố rằng những tiến triển của ông ta trong lĩnh vực điều khiển gene sẽ rất hữu dụng cho nhân loại nếu chúng được sử dụng không phải để chữa bệnh mà để tạo ra bệnh tật.”
“Cái gì cơ?”
“Vâng, ông ta cho rằng công nghệ của mình cần được sử dụng để hạn chế tăng trưởng dân số bằng cách tạo ra những loại bệnh lai tạo mà nền y học hiện đại chúng ta không thể cứu chữa được.”
Langdon cảm thấy càng lúc càng kinh hãi khi hình dung ra hình ảnh “các loại virus tự tạo” lai ghép lạ lùng mà một khi được tung ra, sẽ hoàn toàn không thể ngăn chặn được.
“Chỉ trong vài năm ngắn ngủi”, Sienna nói, “Zobrist đã từ chỗ là niềm tự hào của thế giới y học biến thành một kẻ bị xã hội ruồng bỏ. Một kẻ bị nguyền rủa”. Cô dừng lại, nét mặt thoáng chút thương cảm. “Thật sự không có gì lạ khi ông ta phản ứng và tự sát. Thậm chí còn buồn hơn nữa vì luận điểm của ông ta có thể lại đúng.”
Langdon suýt ngã. “Xin lỗi! Em nghĩ ông ấy đúng ư?!”
Sienna trịnh trọng nhún vai. “Robert, nếu nói từ góc độ khoa học thuần túy – hoàn toàn logic, không hề cảm tính – em có thể nói với anh không chút nghi ngại rằng nếu không có một sự thay đổi mạnh mẽ nào đó, loài người chúng ta sẽ diệt vong. Và kết cục đó sẽ đến rất nhanh. Đó sẽ không phải là lửa, lưu huỳnh, khải huyền, hay chiến tranh hạt nhân… mà là sự sụp đổ hoàn toàn do hành tinh này quá tải dân số. Số liệu toán học là không thể tranh cãi.”
Langdon cứng người.
“Em đã nghiên cứu nhiều về sinh học”, cô nói, “và một giống loài đi đến tuyệt chủng chỉ đơn giản là do tình trạng quá đông đúc trong môi trường của nó là điều hoàn toàn bình thường. Anh hãy hình dung một quần thể tảo mặt nước sống trong một cái hồ nhỏ trong rừng, tận hưởng sự cân bằng dưỡng chất hoàn hảo của hồ nước. Nếu không được kiểm soát, chúng sinh sản tràn lan và sẽ nhanh chóng chiếm lĩnh toàn bộ mặt hồ, che kín mặt trời và ngăn cản quá trình gia tăng dưỡng chất trong hồ. Khi tiêu diệt sạch mọi thứ trong môi trường của mình, tảo nhanh chóng chết và biến mất không để lại dấu vết”. Cô thở dài não nề. “Loài người cũng rất dễ gặp số phận tương tự. Sẽ sớm hơn và nhanh hơn bất kỳ ai trong chúng ta có thể hình dung.”
Langdon cảm thấy vô cùng bồn chồn. “Nhưng… dường như điều đó là không thể.”
“Không có gì là không thể, Robert, chỉ là không tưởng tượng nổi. Tâm trí con người có một cơ chế phòng vệ bản ngã nguyên thủy phủ nhận tất cả những thực tế tạo ra quá nhiều áp lực mà não phải xử lý. Cơ chế đó gọi là phủ nhận.”
“Anh đã nghe nói đến ‘phủ nhận’”, Langdon chua chát, “nhưng anh không nghĩ nó tồn tại”.
Sienna đảo mắt. “Nghe thì hay ho, nhưng tin em đi, điều đó rất thật. Phủ nhận là một phần quan trọng trong cơ chế ứng phó của con người. Không có nó, mỗi buổi sáng tất cả chúng ta đều tỉnh giấc trong tâm trạng hoảng hốt về cách chúng ta từ giã cõi đời. Có nó, tâm trí của chúng ta ngăn chặn những nổi sợ hãi hiện sinh bằng cách tập trung vào những căng thẳng mà chúng ta có thể giải quyết, chẳng hạn đi làm đúng giờ hoặc đóng tiền thuế. Nếu có những nỗi lo sợ hiện sinh lớn hơn, chúng ta vứt bỏ chúng rất nhanh, tập trung trở lại các nhiệm vụ đơn giản và những điều tầm thường hằng ngày.”
Langdon nhớ lại một nghiên cứu về dấu vết trên mạng gần đây của sinh viên một số trường đại học trong nhóm Ivy League [22] cho thấy ngay cả những người có hiểu biết cao cũng thể hiện khuynh hướng phủ nhận mang tính bản năng. Theo nghiên cứu ấy, đa phần sinh viên đại học, sau khi bấm chọn một bản tin ảm đạm về tình trạng băng vùng cực tan hay tuyệt chủng giống loài, sẽ nhanh chóng thoát khỏi trang tin đó để chọn tin gì đó giúp tâm trí họ thoát khỏi nổi sợ hãi. Những đề tài thường được lựa chọn gồm những tin thể thao nổi bật, video hài, và tin đồn thổi về những người nổi tiếng.
“Theo thần thoại cổ”, Langdon nói, “một người anh hùng mang sự phủ nhận chính là biểu hiện cao nhất của thái độ ngạo mạn và tự phụ. Không người nào tự phụ hơn kẻ tin rằng bản thân mình hoàn toàn vô hại trước những hiểm nguy của thế giới. Rõ ràng Dante cũng đồng ý như vậy, xem thói tự phụ là tội lỗi xấu xa nhất trong số bảy trọng tội… và trừng phạt những kẻ tự phụ ở tầng sâu nhất của địa ngục”.
Sienna ngẫm nghĩ một lúc rồi tiếp tục. “Bài viết của Zobrist kết tội nhiều nhà lãnh đạo của thế giới đang có thái độ cực kỳ phủ nhận… chỉ biết rúc đầu vào cát. Ông ta đặc biệt lên án Tổ chức Y tế Thế giới.”
“Anh cá rằng chuyện đó cũng không tệ.”
“Họ phản ứng bằng việc xem ông ta như một kẻ cuồng tín tôn giáo đứng ở góc phố giơ cao tấm biển ghi rằng “Tận thế đang đến gần.”
“Quảng trường Harvard có một vài kẻ như vậy.”
“Vâng, và tất cả chúng ta đều chẳng để tâm đến họ bởi vì không ai trong chúng ta có thể hình dung ra điều đó sẽ đến. Nhưng hãy tin em, chỉ vì tâm trí con người không thể hình dung ra điều gì đó đang xảy đến… như thế không có nghĩa là nó sẽ không đến.”
“Em nói như thể mình là một người hâm mộ Zobrist.”
“Em là người hâm mộ chân lý”, cô quyết liệt đáp lại, “ngay cả khi phải chấp nhận chân lý đau lòng”.
Langdon im lặng, một lần nữa cảm thấy có khoảng cách rất kỳ lạ với Sienna vào lúc này, và cố gắng hiểu sự kết hợp rất lạ thường giữa niềm say mê với suy xét độc lập của cô.
Sienna ngước nhìn anh, nét mặt cô dịu lại. “Robert, nhìn này, em không nói rằng Zobrist đúng khi cho rằng đại dịch giết chết một nửa dân số chính là câu trả lời cho vấn đề quá tải dân số. Em cũng không nói rằng chúng ta cần ngừng chạy chữa cho người ốm. Những gì em đang nói là con đường hiện tại của chúng ta là một lộ trình đi tới sự hủy diệt. Tăng trưởng dân số là cấp số mũ xảy ra ngay trong một hệ thống không gian hữu hạn với những nguồn tài nguyên hạn chế. Kết cục sẽ đến rất đột ngột. Trải nghiệm của chúng ta sẽ không phải là việc từ từ cạn kiệt khí đốt… mà nó giống như lao mình xuống từ một vách đá.”
Langdon thở hắt ra, cố gắng xử lý tất cả những điều anh vừa nghe thấy.
“Nói đến vách đá”, cô tiếp lời, thẫn thờ chỉ lên bầu trời phía bên phải, “em tin chắc rằng đó chính là nơi Zobrist đã nhảy xuống”.
Langdon ngước mắt và nhìn thấy họ vừa đi qua mặt tiền bằng đá mộc mạc của Bảo tàng Bargello nằm bên tay phải họ. Phía sau bảo tàng, đỉnh nhọn của tòa tháp Badia vươn cao vượt lên các kết cấu xung quanh. Anh đăm đăm nhìn đỉnh tòa tháp, tự hỏi tại sao Zobrist lại nhảy xuống, hy vọng đó không phải vì ông ta đã làm điều gì kinh khủng và không muốn đối diện với những gì đang xảy đến.
“Những người phê phán Zobrist”, Sienna nói, “muốn chỉ ra điểm nghịch lý ở chỗ nhiều công nghệ gene mà ông ta phát triển hiện lại giúp làm tăng đáng kể tuổi thọ”.
“Điều đó chỉ càng làm phức tạp thêm vấn đề dân số.”
“Chính xác. Zobrist từng công khai nói rằng ông ta ao ước có thể làm lại mọi việc và loại bỏ một số đóng góp của mình đối với tuổi thọ nhân loại. Em cho rằng điều đó hoàn toàn có ý nghĩa về mặt lý luận. Chúng ta càng sống lâu, càng phải dành nhiều nguồn tài nguyên của mình cho người già và người bệnh.”
Langdon gật đầu. “Anh đọc được rằng ở Hoa Kỳ, khoảng sáu mươi phần trăm chi phí chăm sóc sức khỏe dành cho những bệnh nhân trong sáu tháng cuối cùng của họ.”
“Đúng vậy, và trong khi lý trí chúng ta nói rằng ‘Điều này thật điên rồ,’ thì tim chúng ta lại nói ‘Phải giúp bà nội sống càng lâu càng tốt’.”
Langdon gật đầu. “Đó là mâu thuẫn giữa thần Apollo và Dionysus [23] – một song đề nổi tiếng trong thần thoại – cuộc chiến từ xa xưa giữa lý trí và trái tim, vốn hiếm khi cùng muốn một thứ.”
Langdon từng nghe nói rằng các hội nghị của Hội người cai rượu cũng viện dẫn thần thoại này để mô tả những người nghiện rượu cứ đăm đăm nhìn ly rượu, lý trí họ biết rằng thứ đó sẽ làm hại mình, nhưng trái tim họ lại thèm thuồng cái cảm giác dễ chịu mà nó mang lại. Thông điệp rõ ràng là: Đừng bao giờ cảm thấy cô độc vì ngay cả thần thánh cũng mâu thuẫn.
“Ai cần đến hành động quyên sinh cao cả? [24]”, Sienna chợt thì thào.
“Em nói sao cơ?”
Sienna ngước lên. “Cuối cùng em cũng nhớ ra tên bài viết của Zobrist. Bài viết đó là: ‘Ai cần đến hành động quyên sinh cao cả?’.”
Langdon chưa bao giờ nghe nói đến cụm từ quyên sinh cao cả, nhưng anh đoán được căn cứ vào gốc từ tiếng Hy Lạp – agathos và thusia. “Quyên sinh cao cả… chắc là ‘sự hy sinh tốt đẹp’ phải không?”
“Gần như vậy. Nghĩa thực tế của nó là ‘một hành động tự hy sinh vì lợi ích chung’”, cô ngừng lại. “Nó còn được biết đến như là hành động tự sát cao cả.”
Thực tế Langdon đã từng nghe nói đến thuật ngữ này, lần thứ nhất liên quan đến một người cha bị phá sản tự sát để gia đình mình có thể nhận tiền bảo hiểm sinh mạng, và lần thứ hai mô tả một kẻ giết người hàng loạt cảm thấy ân hận nên đã tự kết liễu sinh mạng vì sợ rằng hắn không thể kiểm soát được động lực giết người của mình.
Thế nhưng, ví dụ rùng rợn nhất Langdon còn nhớ là trong cuốn tiểu thuyết năm 1967 nhan đề Cuộc đào tẩu của Logan, mô tả một xã hội tương lai trong đó mọi người đều hoan nghênh hành động tự sát ở tuổi hai mươi mốt – như thế sẽ tận hưởng trọn vẹn tuổi thanh xuân mà không để tuổi già hoặc số đông dân số tạo áp lực cho các nguồn tài nguyên hữu hạn của hành tinh. Nếu Langdon nhớ đúng thì phiên bản điện ảnh Cuộc đào tẩu của Logan đã tăng “tuổi tận số” từ hai mươi mối lên ba mươi, rõ ràng nhằm cố gắng làm cho bộ phim dễ chấp nhận hơn với nhóm khán giả từ mười tám đến hai mươi lăm tuổi.
“Như vậy, bài luận giải của Zobrist…”, Langdon nói. “Anh không chắc mình hiểu được nhan đề. ‘Ai cần đến hành động quyên sinh cao cả?’ Liệu ông ta có nói vậy để châm biếm không? Giống như ai cần đến những vụ tự sát cao cả mà… tất cả chúng ta đều thực hiện?”
“Thực tế không hề, nhan đề đó là cách chơi chữ.”
Langdon lắc đầu, không hiểu.
“Ai cần tự sát – giống như trong W-H-O [25] – Tổ chức Y tế Thế giới. Trong bài viết của mình, Zobrist sỉ vả giám đốc WHO – tiến sĩ Elizabeth Sinskey – người giữ cương vị đó lâu năm và theo Zobrist, bà ấy kiểm soát dân số một cách nghiêm túc. Bài viết của ông ta nói rằng WHO sẽ tốt đẹp hơn nếu giám đốc Sinskey tự sát.”
“Một gã đáng thương.”
“Những hiểm nguy của việc là một thiên tài, em đoán vậy. Thông thường, những bộ óc đặc biệt, vốn có khả năng tập trung cao hơn những người khác, hay làm vậy để trả giá cho sự chín muồi về mặt cảm xúc.”
Langdon nhớ lại những bài viết của anh đã xem về cô bé Sienna, một thần đồng có chỉ số IQ 208 và chức năng trí tuệ ngoại hạng.
Langdon tự hỏi phải chăng khi nói về Zobrist, cô đang nói về chính mình ở một mức độ nào đó. Anh cũng thắc mắc không biết cô còn giữ bí mật của mình bao lâu nữa.
Phía trước mặt, Langdon nhận ra địa điểm mình đang tìm kiếm. Sau khi băng qua Via dei Leoni, Langdon dẫn cô tới một giao lộ rất hẹp – không hơn một con hẻm. Tấm biển đầu phố ghi VIA DANTE ALIGHIERI.
“Nghe như em biết rất nhiều về bộ não con người”, Langdon nói. “Có phải đó là lĩnh vực nghiên cứu chính của em trong trường y không?”
“Không, nhưng khi còn nhỏ, em đọc rất nhiều. Em quan tâm đến khoa học não bộ bởi vì em có một số … vấn đề sức khỏe.”
Langdon nhìn cô vẻ tò mò, hy vọng cô sẽ nói tiếp.
“Bộ não của em…”, Sienna nói khẽ. “Nó phát triển khác hẳn hầu hết trẻ em, và nó gây ra một số… vấn đề. Em bỏ nhiều thời gian cố gắng hiểu xem có chuyện gì không ổn với mình, và trong quá trình đó, em học được nhiều điều về khoa học thần kinh.” Cô nhìn vào mắt Langdon. “Và đúng, tình trạng hói đầu của em có liên quan đến vấn đề sức khỏe.”
Langdon lảng mắt, bối rối vì đã hỏi chuyện đó.
“Đừng lo”, cô nói. “Em đã học cách sống chung với nó.”
Khi họ di chuyển vào khoảng không khí lạnh lẽo của ngõ phố bị phủ bóng, Langdon ngẫm lại tất cả những điều anh vừa biết về Zobrist và những quan điểm triết lý đáng ngại của ông ta.
Một câu hỏi cứ lởn vởn trong đầu anh. “Đám lính này”, Langdon bắt đầu nói. “Những kẻ đang cố giết chúng ta. Chúng là ai? Thật vô nghĩa. Nếu Zobrist đã tung ra một loại dịch bệnh tiềm tàng thì tất cả mọi người phải cùng một phe, hợp tác để ngăn chặn lại chứ?”
“Không nhất thiết, Zobrist có thể là một kẻ bị ruồng bỏ trong cộng đồng y học, nhưng có lẽ lại có một đội quân những kẻ hâm mộ tư tưởng của mình - những người tán đồng rằng loại bỏ bớt đồng loại là một tội ác cần thiết để cứu lấy hành tinh. Với tất cả những gì chúng ta biết thì đám lính này đang cố gắng bảo đảm cho việc thực hiện kịch bản của Zobrist.”
Đội quân môn đồ riêng của Zobrist ư? Langdon ngẫm nghĩ về khả năng đó. Phải thừa nhận rằng lịch sử có rất nhiều kẻ quá khích và tín đồ sẵn sàng tự sát vì đủ thứ quan niệm điên khùng – niềm tin cho rằng thủ lĩnh của họ là Đấng Cứu thế, niềm tin cho rằng một con tàu vũ trụ đang đợi họ đằng sau Mặt trăng, niềm tin cho rằng Ngày Phán xét đã cận kề. Nghiên cứu về kiểm soát dân số ít nhất cũng có nền tảng khoa học, nhưng Langdon vẫn cảm thấy có gì đó không ổn với đám lính này.
“Anh không thể tin được cả một đội lính tinh nhuệ lại chủ tâm tán thành việc sát hại những người vô tội… trong khi lo sợ rằng chính họ cũng có thể bị bệnh và chết.”
Sienna nhìn anh bối rối. “Robert, anh nghĩ những người lính làm gì khi họ lâm trận? Họ giết người dân vô tội và mạo hiểm với tính mạng mình. Bất kỳ điều gì cũng có thể xảy ra một khi người ta tin vào một lý do.”
“Một lý do? Lây lan một bệnh dịch ư?”
Sienna nhìn anh, đôi mắt nâu của cô như thăm dò. “Robert, lý do này không phải là lây lan một bệnh dịch… nó là cứu lấy thế giới.” Cô ngừng lại. “Một đoạn trong bài viết của Bertrand Zobrist được rất nhiều người nói đến là câu hỏi mang tính giả thuyết rất sắc bén. Em muốn anh trả lời câu hỏi đó.”
“Câu hỏi gì?”
“Zobrist đã hỏi thế này: Nếu anh có thể gạt một công tắc và ngẫu nhiên giết chết một nửa số dân trên trái đất thì anh có làm việc đó không?”
“Dĩ nhiên là không.”
“Được rồi. Nhưng sẽ ra sao khi nói rằng nếu anh không thay đổi ý kiến ngay thì loài người sẽ diệt vong trong vòng một trăm năm tới?”, cô ngừng lại. “Anh có thay đổi không? Thậm chí nếu điều có nghĩa là anh có thể phải giết chết bạn bè, gia đình và thậm chí có lẽ chính anh nữa?”
“Sienna, có lẽ anh không thể…”
“Đó là một câu hỏi mang tính giả thuyết”, cô nói. “Anh có giết một nửa dân số ngày nay để cứu loài người khỏi bị diệt vong không?”
Langdon cảm thấy quá bối rối trước chủ đề kinh khủng mà họ đang thảo luận, nên anh thở phào khi nhìn thấy lá cờ đỏ quen thuộc treo bên hông một tòa nhà bằng đá phía trước.
“Nhìn kìa”, anh nói, và chỉ tay. “Chúng ta đến đây rồi.”
Sienna lắc đầu. “Như em đã nói. Phủ nhận.”
