Nguyên Tác : Bồ Tùng Linh
Tiếu mạ do tha tiếu mạ gia.
Lão nhân trường lạc tín kham khoa.
Ðường khai hoạ cẩm tiêu doanh thiếp.
Thử thị tam triều tể tướng gia.
Triều Minh, có viên quan họ Chu, tên Chính Khang làm quan trải ba đời vua, được phong đến chức tể tướng. Có lần Chính Khang được nhà vua sai cầm quân đi dẹp giặc. Thấy khí thế của giặc mạnh quá, Chính Khang đầu hàng, chịu để giặc bắt. Triều đình phải giảng hòa với giặc để giặc thả cho Chính Khang ra về. Khi về, Chính Khang lại được nhà vua cho phục chức nên bị dân chúng đương thời khinh khi.
Khi về quê hưu trí, Chính Khang thuê thợ xây cất một gia miếu. Trước ngày khánh thành miếu, Chính Khang sai gia nhân ra ngủ đêm ở miếu để trông coi, đề phòng kẻ phá hoại.
Sáng sau, đúng vào ngày khánh thành, gia nhân hớt hải chạy về báo tin có kẻ lẻn vào miếu lúc nào chẳng rõ, treo một bức hoành ngang trên tường với một đôi câu đối dọc theo hai cột. Chính Khang lấy làm lạ, vội dẫn con cháu tới miếu coi. Tới nơi, mọi người đều thấy trên bức hoành có đề bốn chữ Tam Triều Nguyên Lão và trên đôi câu đối có đề mười bốn chữ Nhất Nhị Tam Tứ Ngũ Lục Thất và Hiếu Ðễ Trung Tín Lễ Nghĩa Liêm. Ai cũng hiểu ý nghĩa của bốn chữ trên bức hoành là Ông Già Làm Quan, Trải Ba Ðời Vua song chẳng ai hiểu ý nghĩa của mười bốn chữ trên đôi câu đối là gì.
Câu chuyện lan khắp vùng. Dân chúng đua nhau giải thích song rút cục cũng chẳng có ai giải thích được thỏa đáng.
Ít lâu sau, có một danh sĩ trong vùng giải thích như sau:"Ðúng ra đôi câu đối ấy phải có mười sáu chữ là Nhất Nhị Tam Tứ Ngũ Lục Thất Bát và Hiếu Ðễ Trung Tín Lễ Nghĩa Liêm Sỉ. Người viết cắt bớt chữ Bát ở vế đầu và chữ Sỉ ở vế sau là có ý nói Chính Khang mất chữ Bát và không có chữ Sỉ. Trong Hán tự, mất chữ Bát gọi là Vong Bát, không có chữ Sỉ gọi là Vô Sỉ. Cả hai cặp chữ Vong Bát và Vô Sỉ đều có cùng một nghĩa là vô liêm sỉ" Ai cũng chịu lời cắt nghĩa của danh sĩ ấy là thỏa đáng.
Kẻ sĩ đời sau bình luận việc tể tướng Chu Chính Khang được triều đình sai cầm quân đi dẹp giặc mà lại đầu hàng giặc là một việc làm thiếu liêm sỉ của kẻ làm quan.
Lộc Số
Do lai lộc mệnh phú sinh sơ.
Mệnh tận thiên giao lộc hữu dư.
Lưu dữ lai sinh ưng diệc đắc.
Hà duyên nhất định vị tiêu trừ.
Ở kinh đô có viên quan quyền cao chức trọng, họ Chử, tên Bội Hành, vừa độ lục tuần, có vợ họ Vệ.
Bội Hành thường ỷ quyền thế, xử ức dân lành, đòi tiền hối lộ, làm nhiều điều độc ác. Vệ thị thấy thế thì sợ lắm. Một hôm, Vệ thị khuyên chồng:"Phu quân nên ăn ở cho có nhân đức để được hưởng tuổi thọ lâu dài" Bội Hành cười, nói:"Nhân đức hay độc ác thì có ăn nhằm chi với tuổi thọ?" rồi chẳng nghe lời vợ khuyên.
Thời ấy, ở chợ kinh đô có thày tướng họ Tưởng, tên Thái Toàn, nổi tiếng về nghề coi diện tướng. Ðặc biệt, Thái Toàn có thể coi diện tướng của từng người mà tính được số gạo và số miến mà người ấy còn được hưởng cho tới lúc chết, gọi là lộc số.
Nghe tiếng Thái Toàn, Bội Hành liền sai lính ra chợ gọi Thái Toàn vào dinh để tính lộc số cho mình. Lính dẫn Thái Toàn vào. Bội Hành hỏi:"Lộc số của ta còn bao nhiêu?" Ngắm nhìn diện tướng Bội Hành hồi lâu, Thái Toàn đáp:"Lộc số của đại quan còn hai mươi thạch gạo và hai mươi thạch miến!" Nghe thấy thế, Bội Hành mừng lắm, bèn ban thưởng cho Thái Toàn, rồi sai lính dẫn Thái Toàn trở ra chợ.
Bội Hành vào phòng thuật chuyện lại cho vợ nghe rồi hỏi:"Mỗi năm ta ăn hết chừng bao nhiêu gạo, bao nhiêu miến?" Vệ thị đáp:"Trung bình thì mỗi năm, mỗi người chỉ ăn hết một thạch gạo và một thạch miến thôi!" Bội Hành cười, nói:"Nếu thế thì ta còn sống được hai mươi năm nữa. Năm nay ta đã sáu mươi. Nếu thày tướng đoán trúng thì ta còn thọ được tới tám mươi mới chết. Như vậy cũng đủ rồi!"
Tin vào lời đoán của thày tướng, Bội Hành vẫn tiếp tục làm nhiều điều độc ác.
Ðầu năm sau, Bội Hành sáu mươi mốt.
Vào ngày mồng bốn Tết, đột nhiên Bội Hành bị bệnh tiêu khát, ăn nhiều, uống lắm, ăn bao nhiêu cũng còn thấy đói, ăn cả ngày lẫn đêm. Vệ thị tính ra mỗi ngày chồng mình phải ăn hết hai mươi phần ăn bình thường. Chưa đầy một năm, Bội Hành đã ăn hết hai mươi thạch gạo và hai mươi thạch miến.
Cuối năm ấy, quả nhiên Bội Hành lăn ra chết.
Quan Trung Thừa Điều Tra Trộm
Thùy tòng cụ thất đạo trang liêm.
Hoả sách kinh truyền pháp lệnh nghiêm.
Sưu đắc chung y tần xuất nhập.
Cá trung cơ trí diệc thao kiềm.
Ðời Khang Hy, tỉnh Sơn Ðông có quan trung thừa (tuần phủ) họ Vu, tên Thành Long, thường đi tuần du các huyện để điều tra giùm các quan tể những vụ án khó xử.
Một hôm, Vu công tới huyện Cao Bưu, tỉnh Giang Tô. Quan tể Cao Bưu làm l đón tiếp rất trọng thể. Sau khi vào huyện đường, Vu công hỏi: "Trong huyện của quan tể có vụ án nào khó xử chăng?" Quan tể đáp: "Bẩm đại quan, có vụ mất trộm áo cưới của con gái phú ông họ Vệ" Hỏi:" Nội vụ ra sao?" Ðáp: "Bẩm đại quan, nguyên bản huyện có phú ông họ Vệ gả chồng cho con gái. Cô dâu có rất nhiều quần áo mới, xếp đầy một rương. Ðêm trước ngày vu quy, cô dâu bị trộm tới nhà, đào tường vào phòng, cậy rương vơ vét hết quần áo đem đi. Sáng ra, Vệ ông đem việc mất trộm lên huyện đường trình báo. Tiểu chức đã cho điều tra để tìm thủ phạm song chưa có kết quả" Nói: "Ðể bản chức thử cho điều tra xem sao"
Vu công bèn ra lệnh cho lính đóng hết các cổng phụ chung quanh huyện thành, chỉ để mở một cổng chính rồi cho niêm yết thông cáo như sau: "Huyện dân phải về nhà ngay, đóng kín cửa mà ở trong nhà để chờ lính tới khám xét. Sau hai ngày mới được đi lại như thường. Lệnh giới nghiêm bắt đầu được thi hành từ tối nay" Nghe có lệnh giới nghiêm khám nhà, huyện dân đều về đóng chặt cửa mà ở trong nhà.
Vu công lại ra lệnh cho lính canh bắt giữ những kẻ có đem theo quần áo phụ nữ cũng như những kẻ ra vào cổng huyện tới hai lần.
Chiều ấy, có hai kẻ đi chân tay không, ra vào cổng huyện tới hai lần. Lính bắt giữ, giải vào trình. Vừa nhìn thấy chúng, Vu công đã chỉ mặt, nói: "Hai tên này chính là hai tên trộm quần áo đây!" Chúng vội quỳ xuống đất, lạy Vu công, thưa: "Bẩm đại quan, bọn tiểu nhân bị kết tội oan" Vu công nói: "Ðể rồi xem tụi bay có bị oan hay không?" Vu công liền sai lính lột quần áo chúng ra thì thấy mỗi kẻ đều mặc lót trong mình một bộ quần áo phụ nữ mới. Vu công bèn cho gọi Vệ thị lên coi. Vệ thị nhận đúng là quần áo của mình. Hai tên trộm hết đường chối cãi, đành phải nhận tội để khỏi bị tra tấn. Vu công bèn trao lại vụ án cho quan tể.
Nguyên hai tên trộm nghe có lệnh giới nghiêm khám nhà thì kinh hãi quá nên bàn nhau tìm cách chuyển hết quần áo ăn trộm được ra ngoài huyện thành. Thấy lính canh khám xét kỹ, chúng mới nghĩ ra cách mặc lót quần áo ăn trộm được vào người, rồi chân tay không mà ra vào cổng huyện nhiều lần để khỏi bị khám xét.
Dân chúng Cao Bưu cứ truyền tụng mãi về vụ án này.
Thuốc Cường Dương
Phòng trung đan dược diệc kỳ tai.
Bộ lý bàn san chuyển khả ai.
Ngã hữu cuồng nhân cung nhất hước.
Bất như thả tác tự nhân lai.
Huyện Tế Ninh, tỉnh Sơn Ðông, có thanh niên họ Quản, tên Dưỡng, thường đi tắm sông chung với bạn bè. Vì dương vật ngắn, nhỏ, thường bị bạn bè chế diễu nên Quản Dưỡng bực tức lắm.
Một hôm trời nắng, Quản Dưỡng lên núi chơi. Qua cổng sơn tự, Quản Dưỡng thấy một thiền sư đang ngồi trên chiếu, cởi áo cà sa, soi nắng bắt rận, cạnh một đòn gánh với hai quả bầu, trông tựa đồ nghề của kẻ bán thuốc dạo. Quản Dưỡng liền tới gần, hỏi đùa xấc xược: "Bán thuốc đấy ư? Có bán thuốc cường dương không?" Nói xong mới chột dạ, nghĩ chắc thế nào thiền sư cũng nổi giận. Thế nhưng chỉ thấy thiền sư mỉm cười, đáp:"Có! Thuốc cường dương của bần tăng mạnh lắm. Liệt dương mà nuốt thì cường dương ngay. Dương vật ngắn, nhỏ, mà nuốt thì lớn, dài ngay. Công hiệu nội trong nửa giờ, chẳng cần phải chờ lâu như các thuốc khác. Chỉ cho làm phước chứ không bán! Thí chủ cần thuốc ấy phải không?" Nghe thấy thế, Quản Dưỡng mừng lắm, vội gật đầu, nói:"Vậy thì hoà thượng hãy cho một viên đi!" Thiền sư liền ngưng bắt rận, mở bầu lấy túi, mở túi lấy thuốc, nhỏ bằng hạt gạo, đưa cho mà nói:"Nuốt ngay đi!" Quản Dưỡng liền nuốt. Nửa giờ sau, thò tay vào quần thì thấy quả nhiên dương vật đã lớn, dài gấp ba. Tuy mừng lắm song vẫn chưa thực hài lòng nên chưa chịu đi, cứ đứng lại nói ba hoa với thiền sư để chờ dịp xin thêm vài viên nữa.
Lát sau, thiền sư bỏ áo cà sa xuống chiếu, vào chùa đi tiểu. Chờ cho thiền sư đi khuất, Quản Dưỡng vội mở bầu lục lọi, lấy trộm được ba viên, bỏ vào miệng nuốt chửng. Nửa giờ sau, thấy trong người bứt rứt, da thịt muốn nứt, gân cốt muốn co. Rồi đột nhiên, cổ rụt lại, bụng phình ra, dương vật cứ lớn dài thêm. Quản Dưỡng kinh hoàng tột độ, chẳng biết phải làm thế nào.
Lát sau, thiền sư từ trong chùa đi ra. Thấy cảnh tượng ấy, thiền sư kinh hãi, chạy tới hỏi:"Vừa lấy trộm thuốc để nuốt thêm phải không?" Quản Dưỡng gật đầu. Thiền sư vội mở bầu kia, lấy thuốc khác, đưa cho, nói: "Nuốt ngay đi!" Liền nuốt. Nửa giờ sau, thấy dễ chịu, dương vật thôi chẳng lớn dài thêm nữa, song cổ đã rụt, bụng đã phình, dương vật đã dài quá độ, trông tựa người ba chân. Thiền sư lắc đầu, thở dài, nói:"Thuốc sau chỉ có thể làm ngưng được biến đổi trong người chứ chẳng thể chữa được hiệu quả của thuốc trước!" Ðành chịu cổ rụt, bụng phình, dương vật dài, thất thểu bước về nhà.
Cha mẹ trông thấy, hỏi nguyên do. Quản Dưỡng quyết tâm giấu, chẳng chịu nói. Từ đó, trở thành phế nhân, chẳng sao xin được việc làm.
Năm sau, cha mẹ cùng qua đời. Mấy tháng sau, tiêu hết chút di sản của cha mẹ, Quản Dưỡng vẫn chưa xin được việc làm nên phải ra chợ ngồi ăn xin. Ai đi qua cũng nhìn thấy dương vật Quản Dưỡng quá lớn, quá dài, lộ cả ra ngoài quần.
Giết Sói, Báo Thù Cha
Phụ cừu hà cảm phiến thời vong.
Cánh sát sơn trung bạch tị lang.
Tự hữu hiếu tâm thông mộng ngữ.
Bàng nhân hưu nhận mãng nhi lang.
Huyện Chuy, tỉnh Sơn Ðông, có cặp vợ chồng nhà nông họ Vu, có một trai tên Giang, 16 tuổi. Trong nhà, Vu ông có cất giấu một chùy sắt để đề phòng trộm cướp.
Một đêm, Vu ông ra đồng ngủ coi lúa. Nửa đêm, bị sói tới cắn chết, ăn thịt. Sáng sau, thấy người làng tới báo tin, Vu bà lăn ra gào khóc. Vu Giang vội chạy ra đồng tìm xác cha song chỉ thấy còn lại có đôi giày. Vu Giang đau khổ lắm, rất căm thù sói.
Tối ấy, Vu bà mệt quá, ngủ thiếp đi. Vu Giang bèn lấy chăn đắp cho mẹ, rồi lén lấy chùy sắt của cha, ôm chạy ra đồng. Tới đúng chỗ cha thường nằm, Vu Giang ngả lưng giả vờ ngủ, mong sói đêm qua lại tới để mình có dịp báo thù. Lát sau, quả nhiên có một sói bước tới, đi vòng quanh người, đánh hơi. Vu Giang nằm bất động. Sói lấy đuôi quét thử lên trán để thăm dò. Vu Giang vẫn nằm bất động. Sói lại lấy lưỡi liếm thử vào đùi. Vu Giang vẫn nằm bất động. Sói mừng lắm, nhảy bổ vào người, nhe răng toan cắn thì bị Vu Giang vùng dậy, vung chùy bổ trúng sọ, óc phọt ra ngoài. Sói lăn ra chết. Vu Giang bèn kéo xác ra bỏ giữa cánh đồng rồi lại trở về nằm ở chỗ cũ. Lát sau, một sói khác cũng tới đánh hơi như sói trước. Vu Giang lại giết được sói, kéo xác ra đặt nằm song song với xác sói trước, rồi lại trở về nằm ở chỗ cũ. Lần này, chẳng thấy sói nào tới nữa. Quá nửa đêm, Vu Giang mệt quá, ngủ thiếp đi. Chợt mộng thấy cha về, nói:"Con giết được hai sói để báo thù cho cha thì cha cũng đã hả giận rồi. Thế nhưng, sói ăn thịt cha chẳng phải là hai sói này. Nó là một sói khác, có cái mũi trắng!" Tỉnh giấc, Vu Giang lấy làm lạ, cứ cố nằm chờ sói mũi trắng song chờ tới sáng cũng chẳng thấy sói nào. Toan kéo hai xác sói về nhà song lại e mẹ bị kinh hãi nên đổi ý, kéo tới giếng hoang gần đó mà ném xuống, rồi ôm chùy về nhà.
Liền bốn tối sau đó, Vu Giang đều ôm chùy ra đồng giả vờ ngủ song chẳng đêm nào thấy sói tới.
Tối thứ năm, vừa ôm chùy ra đồng giả vờ ngủ, bỗng thấy một sói tới ngoạm chân mình kéo đi, Vu Giang cứ nằm ôm chùy, mặc cho sói kéo. Bị gai đâm, đá chọc, đau thấu tâm can, Vu Giang vẫn cắn răng chịu đựng, giả vờ như chết. Sói kéo Vu Giang tới chỗ đất bằng phẳng, nhả ra rồi bước vòng quanh người để thăm dò. Thấy Vu Giang nằm bất động, đột nhiên sói nhe răng nhảy vào, toan cắn cổ ăn thịt. Nhanh như cắt, Vu Giang vụt đứng dậy, vung chùy bổ trúng sọ sói rồi tiếp tục bổ túi bụi cho óc sói phọt ra ngoài. Chân sói dãy giựt hồi lâu rồi duỗi thẳng. Lật xác sói ra coi, Vu Giang thấy sói có cái mũi trắng. Mừng quá, Vu Giang vội vác xác sói về nhà, thuật chuyện cha về báo mộng và chuyện mình giết được ba sói cho mẹ nghe. Vu bà ôm đầu con mà khóc.
Chờ mẹ dịu cơn đau khổ, Vu Giang mới dắt mẹ ra giếng ngoài đồng, chỉ cho mẹ coi hai xác sói mình đã ném xuống từ năm hôm trước. Hai mẹ con thấy hai xác sói vẫn còn nguyên dưới giếng, song thịt đã rữa, ruồi nhặng đang bâu kín.
Thần Miếu
Thần danh ưng hổ cánh hà do..
Năng sử thâu nhi phản tự đầu.
Tam bách thanh tiền nguyên tế sự.
Chỉ lân đạo sĩ khổ phần tu.
Núi Thái Sơn, tỉnh Sơn Ðông, có ngôi miếu cổ, tên Ðông Nhạc Miếu, quay mặt về hướng nam. Phía trong cổng, ở hai bên lối đi có bày hai pho tượng đồng xanh, cao hơn trượng, mặt mày dữ tợn, ai trông thấy cũng phải kinh hãi. Từ ngoài cổng vào miếu, người ta thấy pho tượng bên phải có một chim ưng đậu trên cánh tay gọi là pho Ưng Thần, pho tượng bên trái có một hổ nằm phục dưới chân gọi là pho Hổ Thần.
Trong miếu có đạo sĩ họ Nhậm cư ngụ. Hàng ngày, vào lúc gà gáy sáng, đạo sĩ trở dậy đi tắm rồi lên điện thờ thắp hương, ngồi xuống tấm thảm trước điện, nhắm mắt tụng niệm.
Trong thôn Thái Hằng ở chân núi có thanh niên vô lại, họ Viên, tên Thiệt, có thói trộm cắp. Biết thói quen của đạo sĩ, Viên Thiệt rắp tâm lên miếu ăn trộm. Một đêm, Viên Thiệt trèo núi, lẻn vào miếu, nấp ở hành lang chờ sáng. Vào lúc gà gáy, đạo sĩ trở dậy đi tắm rồi lên điện thờ. Chờ cho đạo sĩ đi khuất, Viên Thiệt lẻn vào phòng lục lọi. Tìm mãi chẳng thấy vật chi đáng giá, Viên Thiệt thất vọng quay ra. Ði ngang qua giường ngủ của đạo sĩ, tình cờ Viên Thiệt đưa tay lật chiếc chiếu lên coi thì thấy đầy giường tiền vàng, óng ánh chóa mắt, ước lượng cũng phải tới ba trăm đồng. Viên Thiệt mừng quá, vội vơ vét hết tiền cho vào chiếc túi đem theo, giắt vào lưng, đạp cửa chạy ra ngoài, co cẳng chạy thục mạng qua hai pho tượng, qua cổng rồi xuống núi. Viên Thiệt rắp tâm chạy xuống chân núi để lên núi Thiên Phật đối diện. Gần tới chân núi, ngoái cổ nhìn lại, chợt thấy một hán tử cao lớn, lực lưỡng, đang xăm xăm từ trên núi chạy xuống, dường như có ý đuổi theo mình, Viên Thiệt kinh hãi quá, ra sức chạy nhanh. Tới chân núi, quay đầu nhìn lại, chợt thấy hán tử, mặt mũi xanh lè, có chim ưng đậu trên cánh tay, đã ở ngay sau lưng mình. Nhận ra là Ưng Thần trong cổng miếu, Viên Thiệt kinh hãi quá, co rúm người lại, chẳng nhấc nổi chân, ngã quỵ xuống đất, vừa nằm vừa run. Ưng Thần quát:"Ăn trộm của miếu, chạy đâu cho thoát?" Viên Thiệt chắp tay lạy:"Xin thần tha mạng! Xin thần tha mạng!" Ưng Thần cúi xuống xách cổ Viên Thiệt lên, nhẹ nhàng như người xách cổ mèo vậy. Rồi chạy băng băng lên núi, đem vào phòng ngủ của đạo sĩ, thả xuống đất, bắt quỳ. Lấy một chiếc khay ở trong phòng, đặt lên đầu Viên Thiệt, bắt phải giơ hai tay lên mà giữ. Lấy túi tiền lận ở lưng Viên Thiệt, dốc loảng xoảng đầy khay, nói:"Quỳ yên ở đây, không được nhúc nhích!" rồi dời khỏi phòng. Viên Thiệt sợ quá, cứ quỳ yên như thế.
Lát sau, đạo sĩ tụng niệm xong, trở về phòng. Thấy có người đang quỳ ở trong phòng, hai tay cứ giữ chặt lấy chiếc khay ở trên đầu, đạo sĩ giật mình kinh ngạc, hỏi: "Cư sĩ là ai? Sao lại vào đây mà quỳ?" Viên Thiệt run rẩy thuật lại câu chuyện. Ðạo sĩ bèn lấy khay tiền cất đi rồi nói:"Bỏ thói trộm cắp đi! Tìm nghề lương thiện mà sinh nhai! Thôi, về đi!" Viên Thiệt vội lóp ngóp đứng dậy, chạy ra cổng. Thấy hai pho tượng vẫn còn đứng nguyên ở chỗ cũ, Viên Thiệt kinh hãi quá, chạy thục mạng xuống núi.
Từ đó, Viên Thiệt bỏ hẳn thói trộm cắp.
Định Số
Dịch truyện huy hoàng sứ tiết trì.
Quỹ di thiên hữu khố quan tri.
Liêu tây quân xướng do thùy bát.
Tích vị đương niên nhất vấn chi.
Thời ấy, huyện Châu Bình, tỉnh Sơn Ðông có quan tể họ Trương, tên Hoa Ðông.
Một hôm, Trương công phụng chỉ nhà vua, dẫn một đoàn tùy tùng đi tế thần ở núi Nam Nhạc. Lượt đi, tới huyện Giang Hoài thì trời vừa tối, Trương công ra lệnh cho đoàn tùy tùng theo mình vào dịch trạm mà nghỉ. Trưởng đoàn thưa:"Dịch trạm này nổi tiếng là có nhiều ma, xin đại quan cho tìm nơi khác!" Trương công cười, nói: "Ta đâu có sợ gì ma! Cứ theo ta vào mà nghỉ!" Cả đoàn đành tuân lệnh.
Nửa đêm, Trương công thức giấc, cứ thắc mắc về lời đồn dịch trạm có ma. Bèn phục sức chỉnh tề, đội mũ đeo kiếm rồi ra phòng chính, thắp đèn ngồi chờ, xem có chuyện gì lạ xảy ra không. Nửa giờ sau, đột nhiên thấy một hán tử, tóc hoa râm, mặc áo đen, thắt đai đen, mở cửa bước vào, chắp tay vái chào, Trương công bèn hỏi: "Nhà ngươi là ai? Nửa đêm tới đây có chuyện gì?" Hán tử đáp: "Tiểu chức được Thượng Ðế cử tới huyện này làm kẻ coi kho, giữ khoản tiền mà Thượng Ðế ấn định ban cho đại quan. Ðêm nay, thấy đại quan vào đây nghỉ nên tiểu chức tới xin trao nạp để còn đi lãnh trách vụ khác" Hỏi: "Thượng Ðế ấn định ban cho ta bao nhiêu?" Ðáp: "Tất cả là hai vạn ba ngàn năm trăm đồng vàng" Nói: "Bây giờ ta phải đi tế thần, chưa có thì giờ kiểm nhận. Vả lại, khoản tiền lớn quá, đem đi đem lại, tốn công vô ích. Vì thế, hãy chịu khó lưu lại đây thêm ít bữa mà giữ khoản tiền ấy cho ta. Hôm nào trở về, ta sẽ ghé vào đây thâu nhận" Hán tử vâng dạ rồi chắp tay vái chào mà lui. Trương công bèn vào phòng nằm ngủ lại.
Sáng sau, Trương công dẫn đoàn tùy tùng tiếp tục lên đường tới Nam Nhạc. Sau lễ tế thần, dân chúng quanh vùng đua nhau đem tiền bạc tới biếu tặng Trương công. Trương công bèn ra lệnh cho đoàn tùy tùng thâu nhận.
Lượt về, tới huyện Giang Hoài thì trời cũng vừa tối, Trương công lại ra lệnh cho đoàn tùy tùng theo mình vào dịch trạm mà nghỉ. Nửa đêm, lại phục sức chỉnh tề, đội mũ đeo kiếm ra phòng chính, thắp đèn ngồi chờ, xem hán tử áo đen có tới không. Nửa giờ sau, quả nhiên thấy hán tử mở cửa bước vào, chắp tay vái chào. Trương công nói: "Nay trên đường về, ta ghé vào đây thâu nhận khoản tiền của ta. Hãy đem tới đây mà trao nạp!" Hán tử đáp: "Thưa đại quan, tiểu chức đã đem đi Liêu Ninh, mua thực phẩm để phân phát cho quân lính trấn đóng ở đó hết rồi!" Vì tiếc của, Trương công nổi giận, đập bàn quát: "Sao lại dám tự tiện đem tiền bạc của ta đi mà tiêu xài?" Hán tử đáp: "Ðại quan há lại chẳng biết tiền bạc cũng như thọ mệnh mà Thượng Ðế đã ấn định ban cho mỗi người đều có định số cả rồi hay sao? Trong chuyến đi này, đại quan đã thâu hoạch được đủ định số rồi. Vì thế, Thượng Ðế đã sai tiểu chức đem khoản tiền đang giữ đi làm việc khác. Ðại quan đã thâu hoạch được đủ định số, còn muốn đòi chi thêm?" Nói xong, chắp tay vái chào rồi biến mất.
Sáng sau, Trương công ra lệnh cho đoàn tùy tùng kiểm lại khoản tiền dân chúng quanh vùng Nam Nhạc đã biếu tặng. Kiểm xong, trưởng đoàn báo cáo: "Tất cả là hai vạn ba ngàn năm trăm đồng vàng" Nghe thấy thế, Trương công thở dài, than: "Thế mới biết quả là mọi việc lớn nhỏ ở đời đều đã có định số! Ta muốn tham lam cũng chẳng được nào!"
Bùa Cờ Bạc
Vị liu tham tâm bác cục khai.
Thử trung thắng phụ bản nan sai.
Linh phù thảng hứa tương truyền thụ.
Nhất trịch hà phương bách vạn lai.
Huyện thành Chuy Xuyên, tỉnh Sơn Ðông, có ngôi miếu Thiên Tề và ngôi chùa Thiên Phật.
Trong miếu có đạo sĩ họ Hàn cư ngụ. Thấy đạo sĩ có nhiều ảo thuật, cư dân quanh vùng gọi đạo sĩ là tiên ông. Sinh thời, thân phụ đạo sĩ rất yêu quý con, cứ mỗi lần lên huyện lại tới miếu thăm con. Một hôm, Hàn ông cùng bào đệ lên huyện chơi, toan tới miếu thăm đạo sĩ thì gặp đạo sĩ ở dọc đường. Ðạo sĩ đưa chìa khoá cho cha, nói:"Xin thân phụ và thúc phụ cứ về miếu trước, lát nữa tiểu nhi sẽ về" Hai ông tới miếu, mở cổng vào thì thấy đạo sĩ đã ở trong miếu. Có rất nhiều chuyện về đạo sĩ đại loại giống như chuyện này.
Ðạo sĩ có người biểu đệ, họ Dương, tên Ðổ, rất ham mê cờ bạc. Một hôm, có một nhà sư thích đổ bác, tới chùa Thiên Phật, thách các con bạc trong vùng tới chùa đánh bạc với mình. Nghe tin, Dương Ðổ mừng lắm, vội vét hết tiền trong nhà đem lên chùa đánh bạc với nhà sư. Qua một đêm, thua nhẵn túi. Muốn gỡ lại tiền thua, Dương Ðổ về quê cầm cố hết ruộng nương, lấy tiền đem lên chùa. Qua một đêm, lại thua nhẵn túi.
Hết tiền, Dương Ðổ buồn rầu, lang thang tới miếu thăm đạo sĩ. Thấy người biểu đệ phờ phạc, đạo sĩ hỏi: "Sao phờ phạc thế?" Dương Ðổ thú thực, nói:"Vì thua bạc" Ðạo sĩ cười, nói:"Thói thường thì ai đánh bạc cũng phải thua. Tuy nhiên, nếu hứa chừa hẳn cờ bạc thì có thể giúp cho gỡ hòa" Nghe thấy thế, Dương Ðổ mừng lắm, nói: "Nếu quả được như vậy thì xin thề là sẽ chừa hẳn cờ bạc" Ðạo sĩ cười rồi lấy giấy vẽ một đạo bùa, lấy ra một ngàn đồng, đưa cho Dương Ðổ mà dặn: "Gỡ hòa rồi thì phải nghỉ đánh ngay, đem cả bùa lẫn tiền về đây mà trả! Nhớ kỹ là chớ có ham được!" Dương Ðổ mừng quá, vội đỡ lấy bùa và tiền mà đáp: "Xin vâng" Rồi giắt bùa vào thắt lưng, đem tiền trở lại chùa.
Tới nơi, Dương Ðổ thách nhà sư đánh nữa. Thấy Dương Ðổ chỉ có một ngàn đồng, nhà sư chán ngán, chẳng muốn đánh. Dương Ðổ nài nỉ, chỉ xin đánh một ván thôi. Nhà sư cười mà bằng lòng. Dương Ðổ lấy cả ngàn đồng, đặt một tiếng. Nhà sư gieo hai súc sắc trước, được 11 điểm. Dương Ðổ gieo sau, được 12 điểm. Nhà sư thua, đòi đánh nữa, đặt hai ngàn. Nhà sư lại thua, đòi đánh nữa, đặt bốn ngàn. Nhà sư lại thua, đòi đánh nữa, đặt tám ngàn. Nhà sư lại thua, đòi đánh nữa, đặt đều đều, mỗi tiếng mười ngàn. Dương Ðổ thắng liền mười ván. Trong khoảnh khắc đã gỡ lại được hết số vốn đã thua trong hai canh bạc trước. Nhớ lời đạo sĩ dặn, Dương Ðổ toan nghỉ đánh song lại nghĩ vận đang hên, dại chi chẳng đánh thêm mấy ván để kiếm chút lời. Vì thế, lại tiếp tục đánh. Nhưng từ đó, Dương Ðổ thua liền ba ván. Lấy làm lạ, Dương Ðổ thò tay vào thắt lưng tìm bùa. Thấy bùa đã biến mất, Dương Ðổ kinh hãi quá, liền đứng dậy, nhất định đòi nghỉ đánh. Nhà sư đành chịu.
Về miếu, Dương Ðổ đếm ra một ngàn đồng trả lại đạo sĩ. Kiểm chỗ còn dư thì thấy trước sau vẫn còn thua ba chục ngàn. Tính ra, nếu chẳng đánh ba ván sau cùng thì vừa vặn hòa. Ðạo sĩ hỏi: "Còn đạo bùa đâu? Trả lại đi!" Dương Ðổ ngượng quá, đáp: "Xin tha lỗi, chẳng biết đã đánh rơi mất ở đâu rồi!" Ðạo sĩ cười, nói: "Ðã bảo mà! Gỡ được hòa rồi thì phải nghỉ đánh ngay, chớ có ham được. Vì chẳng chịu nghe lời nên mới bị thua!" Dương Ðổ bèn cám ơn đạo sĩ rồi xin cáo biệt, đem tiền về quê, chuộc lại ruộng nương.
