Tác giả: Dan Brown
--8--
Cùng Kohler ra khỏi cổng hậu tổ hợp chính của CERN đứng ngắm ánh mặt trời Thuỵ Sĩ ảm đạm, Langdon thấy mình như được về nhà. Cảnh vật trước mắt anh trông giống như khu nội trú Ivy League(1).
Một con dốc phủ đầy cỏ dẫn xuống lối đi rộng phía dưới, nơi những rặng cây maple(2) điểm xuyết bốn góc sân tiếp giáp với khu nhà ở xây bằng gạch và những lối mòn. Những con người trông có vẻ uyên bác, tay ôm hàng chồng sách đang nhộn nhịp ra vào toà nhà như góp phần làm tăng không khí của một trường đại học, hai nhân vật tóc dài ăn mặc kiểu hippy ném dĩa Frisbee(3) qua lại cho nhau trong khi đang thường thức bản Giao hưởng số bốn của Mahler phát ra từ cửa sổ khu nội trú.
- Đây là khu nhà ở của chúng tôi, - Kohler giải thích khi ông ta tăng tốc xe lăn tiến xuống đường mòn về phía toà nhà. - Chúng tôi có trên 3000 nhà vật lý học ở đây. Chỉ riêng CERN đã thu nạp hơn một nữa số nhà vật lí hạt cơ bản trên thế giới - những bộ óc thông minh nhất - người Đức, người Nhật, người Ý và Hà Lan. Các nhà vật lí này đại diện cho hơn 500 trường đại học và 60 quốc gia trên thế giới.
Langdon ngạc nhiên.
- Họ làm thế nào để giao tiếp được với nhau?
- Dĩ nhiên là họ dùng tiếng Anh. Đó là ngôn ngữ toàn cầu của khoa học.
Langdon luôn nghe thấy người ta nói rằng Toán học mới là ngôn ngữ toàn cầu của khoa học, nhưng anh quá mệt mỏi nên không muốn tranh luận. Anh ngoan ngoãn đi theo Kohler xuống dưới đường.
Đi được nửa đường, họ gặp một thanh niên chạy bộ qua. Trên áo phông của anh ta có dòng chữ: KHÔNG GUT, KHÔNG VINH QUANG!
Langdon nhìn anh ta ngạc nhiên:
- Gut là gì?
- Thuyết thống nhất chung, Kohler châm biếm - Học thuyết về vạn vật.
- Tôi hiểu, - Langdon nói nhưng chẳng chú ý gì cả.
- Ông có biết vật lí hạt cơ bản(4) không, ông Langdon?
Langdon nhún vai:
- Tôi biết vật lí học đại cương - cơ thể rơi tự do, đại loại như thế. - Những năm tháng kinh nghiệm của môn nhảy cầu đã làm anh lưu tâm đặc biệt tới sức mạnh kinh ngạc của gia tốc rơi tự do. - Nghiên cứu vật lí hạt nguyên tử, đúng thế không?
Kohler lắc đầu:
- Nguyên tử giống như các hành tinh nếu so với những gì chúng tôi nghiên cứu. Mối quan tâm của chúng tôi là hạt nhân nguyên tử kia - chỉ bằng một phần trăm kích cỡ của nguyên tử. - Ông ta lại ho, vẻ rất ốm yếu - Tất cả mọi người ở CERN đều đang tìm kiếm câu trả lời cho những câu hỏi chung mà nhân loại đặt ra từ thuở sơ khai. Chúng ta xuất hiện từ đâu? Được tạo thành từ vật chất nào?
- Và những câu trả lời này nằm trong phòng thí nghiệm vật lí?
- Ông có vẻ ngạc nhiên.
- Đúng thế. Những câu hỏi này dường như mang nặng chất tâm linh.
- Ông Langdon, tất cả những câu hỏi này đã từng liên quan đến lĩnh vực tâm linh. Ngay từ thuở xa xưa, tâm linh và tôn giáo đã cùng nhau lấp chỗ trống mà khoa học chưa khám phá nổi. Việc mặt trời mọc và lặn cũng được gán cho thần Helios và cỗ chiến xa lửa thần kỳ. Động đất và sóng thần là do sự nổi giận của thần Poseidon. Khoa học ngày nay chứng minh rằng những vị thần này chỉ là hình mẫu giả tưởng. Sắp tới tất cả những vị thần sẽ được minh chứng là hình mẫu giả tưởng. Khoa học ngày nay đã giải đáp gần hết mọi câu hỏi của con người. Chỉ còn vài câu hỏi nữa và chúng là những câu bí truyền. Loài người xuất hiện từ đâu? Chúng ta đang làm gì ở đây? Ý nghĩa của cuộc sống và vũ trụ là gì?
Langdon ngạc nhiên:
- Và đây là những câu hỏi mà CERN đang cố giải quyết?
- Sửa một chút. Đây là những câu hỏi mà chúng tôi đang tìm kiếm câu trả lời.
Langdon im lặng khi có hai người đàn ông đi lướt qua sân khu nhà ở. Langdon và Kohler đang đi thì một chiếc đĩa bay qua đầu và rơi ngay trước mặt họ. Kohler bỏ qua và đi tiếp.
Một giọng nói cất lên từ trong sân "S il vous plalt! "(5)
Langdon nhìn quanh. Một người đàn ông luống tuổi tóc bạc mặc chiếc áo thể thao có in chữ College Paris trên ông tay đang vẫy anh. Langdon nhặt chiếc đĩa và ném lại cho ông ta một cách thành thạo. Ông già đó giơ một ngón tay chụp lấy và tung lên vài lần trước khi ném qua vai cho người bạn cùng chơi.
- Cám ơn! -Ông ta gọi với theo Langdon.
- Xin chúc mừng, - Kohler nói khi thấy anh bắt trúng cái đĩa. -Ông vừa chơi ném đĩa với một người từng giành giải Nobel, Georges Charpark đấy, người phát minh ra buồng tỉ lệ đa dây (Multi-vice Propotional Chamber).
Langdon gật đầu. Một ngày may mắn.
Phải mất ba phút nữa Langdon và Kohler mới đến đích, đó là một khu nhà lớn, gọn gàng và sạch sẽ nằm giữa rừng dương. So với những khu khác, toà nhà này có vẻ sang trọng hơn. Tấm biển khắc đá phía trước đề dòng chữ NHÀ C.
Một cái tên mang đầy tính tưởng tượng, Langdon nghĩ.
Mặc cho cái tên khô khan, toà nhà C thu hút sự chú ý của Langdon bởi lối kiến trúc rất bảo thủ và vững chắc, với mặt tiền màu gạch đỏ, hàng lan can trang trí và hàng rào chạm trổ cân xứng. Khi hai người đàn ông tiến xuống con đường đá dẫn đến lối vào họ băng qua cánh cổng được tạo bởi hai cột đá cẩm thạch. Ai đó đã dán một mẩu giấy nhắn trên một trong hai chiếc cột.
ĐÂY LÀ CỘT IONIC(6)
Dòng chữ nghịch ngợm của các nhà vật lí? Langdon trầm ngâm, mắt dán vào cột và tự mỉm cười một mình. "Tôi thở phào khi thấy chính những nhà vật lí lỗi lạc cũng mắc lỗi.
Kohler nhìn sang:
- Ý ông là gì?
- Người viết dòng chữ này mắc một sai lầm. Đó không phải là cột Ionic. Các cột Ionic đều có chiều rộng thống nhất. Cái kia có hình tháp nhọn: Nó được gọi là Doric - một bản sao của người Hy Lạp, rất nhiều người lầm lẫn kiểu này.
Kohler không buồn mỉm cười.
- Tác giả câu này muốn đùa một chút, ông Langdon ạ. Ionic có nghĩa hàm chứa i-ôn - các hạt tích điện. Đa số các vật thể đều chứa hạt này.
Langdon nhìn lại cây cột đó và rên lên.
Khi bước ra khỏi thang máy lên tầng trên cùng của toà nhà C, Langdon cảm thấy vốn kiến thức của mình thật ít ỏi. Anh theo Kohler đến một dãy hành lang được trang hoàng rất công phu. Lối trang trí tuyệt vời theo kiểu thuộc địa truyền thống của Pháp đi văng màu mận chín, lọ hoa bằng sứ, đồ gỗ chạm trồ.
- Chúng tôi muốn cuộc sống của các nhà khoa học nơi đây phải thật thoải mái. - Kohler giải thích.
Rõ rồi, Langdon thầm nghĩ. Anh hỏi.
- Vậy người đàn ông trong tờ fax cũng sống ở đây à? Có phải là một trong những nhân viên cấp cao của các ông không?
- Gần như vậy! - Kohler nói - Sáng nay ông ta bỏ lỡ một cuộc họp với tôi và không trả lời máy nhắn tin. Tôi lên đây để tìm và phát hiện ông ta đã chết trong phòng khách.
Langdon cảm thấy một luồng khí lạnh chạy qua khi biết rằng mình sắp nhìn thấy một xác chết. Anh chưa bao giờ gặp phải tình huống này. Hồi còn là sinh viên nghệ thuật, anh đã thấy nôn nao khi nghe giáo viên kể rằng Leonardo Da Vinci có được kinh nghiệm về giải phẫu cơ thể người là do đi khai quật những xác chết và mổ xẻ các cơ trên người họ.
Kohler dẫn đường đi tới cuối góc hành lang. Chỉ có một cánh cửa.
- Nhớ thông tầng, như chính các ông gọi. - Kohler tuyên bố, rồi thấm nhẹ những giọt mồ hôi lấm tấm trên trán.
Langdon đưa mắt dọc tấm biển trên cánh cửa gỗ sồi trước mặt.
Trên tấm biển viết:
LEONARDO VETRA
- Leonardo Vetra, - Kohler nói - Tuần sau ông ta sẽ tròn năm 58 tuổi, ông ta là một trong những nhà khoa học lỗi lạc nhất của thời đại này. Cái chết của ông ấy là một mất mát lớn cho khoa học.
Trong chốc lát, Langdon cảm nhận được sự xúc động trên khuôn mặt cứng đờ của Kohler. Nhưng cảm xúc đó ngay lập tức tan biến. Kohler lần túi và lôi ra một chùm chìa khoá to.
Langdon chợt thấy lạ lùng. Toà nhà này dường như rất vắng vẻ.
- Mọi người đâu rồ? - anh hỏi. Nơi đây vắng bóng các hoạt động mà anh thường nghĩ đến khi họ sắp bước vào hiện trường một vụ giết người.
- Những cư dân ở đây đang trong phòng thí nghiệm, - Kohler đáp tay vẫn mải tìm chìa khoá.
- Ý tôi là cảnh sát kia, - Langdon nói lại cho rõ. - Họ đã rời khỏi dây rồi à?
Đang tra dở khoá vào ổ, Kohler lập tức ngừng lại:
- Cảnh sát?
Langdon nhìn thẳng vào mắt vị giám đốc:
- Cảnh sát chứ sao.
- Ông gửi cho tôi một tờ fax về vụ giết người. Hẳn ông đã phải gọi cảnh sát rồi chứ?
- Không thể được.
- Cái gì?
Đôi mắt màu xám của Kohler quắc lên:
- Tình hình rất phức tạp ông Langdon ạ.
Langdon cảm thấy e ngại;
- Nhưng… thể nào chả có người biết chuyện này rồi!
- Có. Con gái nuôi của Leonardo. Cô ấy cũng là nhà nghiên cứu vật lí của CERN. Hai cha con cô ấy cùng làm chung trong một phòng thí nghiệm. Họ là đồng nghiệp của nhau. Tuần này cô Vetra đi nghiên cứu thực nghiệm. Tôi đã thông báo về cái chết của cha cô ấy và trong khi chúng ta nói chuyện ở đây, cô ấy đang trên đường trở về.
- Nhưng có một người bị giết…
- Một cuộc điều tra chính thức, sẽ được tiến hành. - Kohler nói, giọng chắc nịch. - Tất nhiên, chắc chắn người ta sẽ tiến hành khám xét phòng thí nghiệm của Vetra, nơi hai cha con họ muốn giữ bí mật. Vì vậy chúng ta phải đợi đến khi cô Vetra trở về. Tôi cho là cần phải thận trọng một chút.
Kohler xoay chìa khoá.
Cánh cửa mở ra, một luồng khí lạnh từ trong phòng phả thẳng vào mặt Langdon. Anh hoang mang lùi lại, nhìn qua ngưỡng cửa của một thế giới xa lạ. Căn hộ trước mặt anh chìm trong màn sương mù màu trắng dầy đặc. Làn khói màu trắng đục bao phủ căn phòng và cuộn xoáy xung quanh đồ đạc.
- Cái gì thế này? - Langdon lắp bắp.
- Hệ thống làm lạnh freon, - Kohler đáp. - Tôi phải giữ lạnh căn phòng để bảo quản xác.
Langdon cài nút áo khoác vải tuýt để đỡ lạnh. Mình lạc vào xứ sở Oz(7) anh nghĩ. Lại còn quên không mang theo đôi dép thần kỳ.
Chú thích
(1) Ivy League: Nhóm 8 trường Đại học danh tiếng của Hoa Kỳ, trong đó có Harvard.
(2) Maple: Cây thích (biểu tượng của Canada).
(3) Frisbee: Một trò chơi ném đĩa phố biến của trẻ em Mỹ
(4) Vật lý hạt (particle physics): Là một ngành của vật lý, nghiên cứu về các hạt sơ cấp chứa trong vật chất và bức xạ, cùng với những tương tác giữa chúng.
(5) S il vous plait (tiếng Pháp): Làm ơn.
(6) Cột Ionic: cột trụ tròn, thường dùng trang trí ở những nơi quan trọng như đền thờ. Là một trong ba kiểu cột đỡ theo kiến trúc cổ của người Hy Lạp. Hai kiểu cột kinh điển kia là Doric và Corinthian.
(7) Trích dẫn "Phù Thuỷ xứ Oz", khi Dorothy lạc vào xứ Oz cô bé có một đôi dép thần kỳ.
--9--
Xác chết trên sàn nhà trước mặt Langdon trông thật gớm ghiếc. Leonardo Vetra quá cố đang nằm ngửa, bị lột trần truồng, da xám xịt. Chỗ xương cổ bị gãy thò ra, đầu bị vặn ngược hoàn toàn. Mặt úp xuống sàn nhà, không nhìn thấy được. Người đàn ông này đang nằm trên đống nước tiểu đã đông cứng lại của chính mình, nhúm lông xung quanh bộ phận sinh dục của ông ta lấm tấm sương giá..
Cố kìm để không nôn oẹ, Langdon đưa mắt nhìn lên ngực nạn nhân. Dù Langdon có nhìn kỹ vết thương hình đối xứng trên tờ fax hàng chục lần, thì rõ ràng ở đây vết cháy trên thực tế vẫn tác động mạnh hơn nhiều. Chỗ thịt cháy sần sùi tạo thành… một biểu tượng hoàn chỉnh.
Langdon băn khoăn không hiểu liệu có phải anh lạnh người đi là do điều hoà nhiệt độ hay vì sự ngạc nhiên đến tột cùng trước tầm quan trọng của thứ mà anh được nhìn tận mắt.
Tim anh đập thình thịch khi đi vòng quanh xác chết, đọc ngược, đọc xuôi, khẳng định lại tính xác thực của hình đối xứng. Biểu tượng này không thể là giả mạo.
- Ông Langdon?
Langdon không nghe thấy gì. Anh đang ở một thế giới khác… thế giới của riêng anh, nơi lịch sử, truyền thuyết và sự thật hoà quyện vào nhau, khiến tim anh tràn ngập cảm xúc. Tất cả như bị cuốn vào một guồng quay.
- Ông Langdon? - Kohler nhìn anh thăm dò, đầy vẻ hy vọng.
Langdon không ngẩng lên. Anh đang tập trung cao độ:
- Ông biết được gì rồi nào?
- Điều duy nhất tôi đọc được trên trang web của ông là từ Illuminati có nghĩa là "những người khai sáng" - Đây là tên một hội kín cổ xưa gì đó.
Langdon gật đầu:
- Ông đã nghe nói đến nguyên tử này bao giờ chưa?
- Chưa, cho đến khi tôi nhìn thấy nó được khắc trên người ồng Vetra.
- Vì vậy ông tìm một trang web nói về thứ này?
- Đúng.
- Và kết quả cho ra hàng trăm tài liệu tham khảo, tôi chắc là như vậy
- Hàng ngàn, - Kohler nói. Trang web của ông chứa những tài liệu tham khảo từ Harvard, Oxford, nhiều nhà xuất bản danh tiếng cũng như danh sách các ấn bản liên quan. Là một nhà khoa học, tôi nhận ra rằng thông tin cũng như nguồn dẫn đều có giá trị. Uy tín của ông có vẻ rất đáng tin cậy.
Langdon vẫn dán mắt vào xác chết.
Kohler không nói thêm lời nào. Ông ta chỉ nhìn, rõ ràng đang chờ Langdon đưa ra đầu mối cho cảnh tượng trước mắt họ.
Langdon ngước mắt lên, nhìn quanh căn hộ lạnh giá.
- Có lẽ là nên thảo luận vấn đề này ở nơi nào ấm hơn?
- Phòng này là được rồi. - Kohler dường như quên đi cái lạnh. - Chúng ta nói chuyện ở đây.
Langdon nhíu mày. Lịch sử của hội Illuminati không hề đơn giản. Mình sẽ chết cóng mất nếu giải thích mọi chuyện ở đây. Anh quay lại nhìn dấu sắt nung, lòng trào lên một nỗi sợ hãi khác.
Mặc dù biểu tượng Illuminati là huyền thoại đời với ngành biểu tượng học hiện đại, những chưa một học giả nào thực sự nhìn thấy nó. Các tài liệu có xưa gọi biểu tượng này là ambigram, biểu tượng hai chiều đối xứng - ambi có nghĩa là "hai" - nó đọc được theo hai chiều. Và mặc dù ambigram rất phổ biến - dấu thập ngoặc, hình âm dương, ngôi sao của người Do thai, dấu nhân chéo đơn giản - song ý tưởng cho rằng bất cứ chữ nào cũng có thể tạo thành hình biểu tượng hai chiều đối xứng có vẻ bất khả thi. Các nhà biểu tượng học hiện đại đã mất nhiều nắm nỗ lực để làm giả chữ "Illuminati" với tỉ lệ cân xứng đến hoàn hảo những đều thất bại. Đa số các học giả cho rằng, sự tồn tại của biểu tượng này là một huyền thoại.
- Vậy ai là hội viên của Illuminati? - Kohler hỏi.
Vâng, Langdon thầm nghĩ, thực sự họ là ai? Anh bắt đầu câu chuyện.
- Kể từ buổi đầu lịch sử, - Langdon giải thích, - Đã tồn tại mối bất đồng sâu sắc giữa khoa học và tôn giáo. Những nhà khoa học nổi bật như Copernicus…
- Đã bị giết chết, - Kohler xen ngang. - Bị nhà thờ ra lệnh hành hình vì dám cả gan tiết lộ những chân lý khoa học. Tôn giáo luôn khủng bố khoa học.
- Đúng. Nhưng vào thế kỷ 16, một nhóm người ở thành Rome đã chiến đấu chống lại nhà thờ. Một vài trong số những người khai sáng giỏi nhất ở Ý - các nhà vật lí, toán học, thiên văn học - bắt đầu nhóm họp một cách bí mật nhằm chia sẻ mối quan tâm của họ đối với những tín điều không chính xác của nhà thờ. Họ sợ rằng sự độc quyền của nhà thờ về "chân lý" sẽ đe dọa quá trình khai sáng học thuật trên toan thế giới. Họ thành lập nhóm cố vấn khoa học đầu tiên trên thế giới, tự gọi ban than là "Những người khai sáng".
- Hội Illuminati.
- Đúng! - Langdon nói - Những bộ óc vĩ đại nhất ở châu Âu… hiện minh cho cuộc săn tìm chân lý khoa học.
Kohler im lặng.
- Đương nhiên, những thành viên của Illuminati bị Giáo hội Cơ đốc săn đuổi một cách tàn bạo. Nhờ có những chiêu thức giữ bí mật tuyệt đối, các nhà khoa học này mới được an toàn. Những lời truyền đạt của các học giả được truyền đi một cách bí mật, và hội Illuminati phát triển tới mức thu nạp được nhiều học giả ở khắp châu Âu. Các nhà khoa học thường xuyên gặp nhau ở một địa điểm cực kỳ bí mật có tên gọi là Nhà thờ ánh sáng.
Kohler húng hắng ho, rồi đổi tư thế ngồi.
- Rất nhiều thành viên của Illuminati. - Langdon tiếp tục, - muốn chiến đấu chống lại ách thống trị của nhà thờ bằng vũ lực, nhưng một thành viên được tôn kính nhất của hội đã thuyết phục họ không làm như vậy. Ông ta là một người theo phái ôn hoà và là một trong những nhà khoa học nổi tiếng nhất.
Langdon chắc Kohler biết cái tên đó. Thậm chí cả những người không thuộc giới khoa học cũng từng nghe nhắc đến nhà thiên văn học có số phận hẩm hiu, người từng bị nhà thờ bắt giữ và suýt bị hành quyết vì dám cho rằng mặt trời, chứ không phải trái đất, là trung tâm của Thái Dương hệ. Mặc dù các số liệu mà ông ta đưa ra không thể chối cãi được, nhà thiên văn học này vẫn bị trừng phạt rất nghiêm khắc vì ám chỉ rằng Chúa đặt loài người ở đâu đó chứ không phải trung tâm của vũ trụ.
- Tên ông ta là Galileo Galilei, - Langdon nói.
Kohler ngước mắt lên.
- Galileo?
- Đúng, Galileo là người của hội Illuminati. Và cũng là một con chiên Cơ đốc giáo mộ đạo. Ông đã cố gắng làm giảm nhẹ ảnh hưởng của nhà thờ lên khoa học bằng cách tuyên bố khoa học không phủ nhận sự hiện diện của Chúa mà chỉ khẳng định lại những chân lý của Người. Ông viết rằng một lần khi nhìn những hành tinh đang quay qua kính thiên văn, ông nghe thấy giọng nói của Chúa vang lên trong tiếng nhạc của các thiên cầu. Ông nói rằng khoa học và tôn giáo không phải là kẻ thù, mà là đồng minh dùng hai ngôn ngữ khác nhau để kể cùng một câu chuyện, câu chuyện về sự đối xứng và cân bằng… về thiên đường và địa ngục, ngày và đêm, nóng và lạnh, Chúa trời và quỷ Sa tăng. Cả khoa học và tôn giáo đều hãnh diện về sự cân đối của Chúa… cuộc đua bất tận giữa ánh sáng và bóng tối. - Langdon ngừng lại, giậm chân một lúc cho ấm người.
Kohler ngồi im trên chiếc xe lăn, ánh mắt đăm chiêu.
- Thật không may, - Langdon nói thêm, - Sự thống nhất giữa khoa học và tôn giáo là điều nhà thờ không hề mong muốn.
- Đương nhiên rồi, - Kohler ngắt lời. - Sự thống nhất này sẽ vô hiệu hoá những lời quyên bố của nhà thờ cho rằng mình là phương thức duy nhất giúp con người hiểu được Chúa. Họ gọi Galileo là kẻ dị giáo, nên đã kết tội và quản thúc ông tớ đến hết đời tôi biết rất rõ lịch sứ khoa học, ông Langdon. Nhưng chuyện này đã xảy ra cách đây hàng thế kỷ rồi. Nó có liên quan gì đến Leonardo Vetra?
Câu hỏi đáng giá triệu đô. Langdon cắt ngang lời:
- Việc bắt giữ Galileo đã đẩy Illuminati vào bước ngoặt mới. Họ bắt dầu sơ hở, và nhà thờ phát hiện thêm bốn thành viên khác, tất cả đều bị bắt giữ và điều tra. Nhưng bốn nhà khoa học này không để lộ điều gì… kể cả khi bị tra tấn.
- Tra tấn?
Langdon gật đầu.
- Họ đều bị khắc trên ngực dấu sắc nung với biểu tượng cây thánh giá khi còn sống.
Đôi mắt Kohler mở to, ông ta khó nhọc nhìn cơ thể Vetra.
- Sau đó, các nhà khoa học đều bị giết hại đã man, xác họ bị thả trên đường phố Rome như một lời cảnh báo mới những người đang nghĩ đến việc gia nhập Illuminati. Do bị nhà thờ truy lùng, những thành viên còn lại của Illuminati đã bỏ chạy khỏi Ý.
Langdon ngừng lại để nhấn mạnh những gì sắp nói. Anh nhìn thẳng vào đôi mắt cô hồn của Kohler.
- Hội Illuminati chuyển sang hoạt động bí mật và bắt tay với những nhóm khác vốn vẫn phải trốn chạy khỏi sự thanh trừng của giáo hội Cơ đốc - hội thần bí, pháp sư, những nhà giả kim thuật, Hồi giáo, Do Thái giáo. Qua nhiều năm tháng, Illuminati bắt đầu kết nạp thêm thành viên mới. Một hội Illuminati mới nổi lên. Hội Illuminati đen tối. Một tổ chức kịch liệt chống lại Thiên Chúa giáo. Hội này ngày càng lớn mạnh, thực hiện các nghi lễ bí ẩn, những bí mật chết người, thề nguyện một ngày nào đó sẽ sống dậy và trả thù nhà thờ Cơ đốc giáo. Hội này mạnh tới mức bị nhà thờ coi là đội quân chống lại giáo hội Thiên Chúa nguy hiểm nhất trên thế giới.
Vatican gọi hội huynh đệ này là quỷ Shaitan.
- Shaitan?
- Một từ của đạo Hồi, nghĩa là "kẻ thù… kẻ thù của Chúa". Nhà thờ lấy tên này nguyên từ đạo Hồi vì họ cho rằng đây là thứ ngôn ngữ bẩn thỉu. - Langdon ngập ngừng. - Trong tiếng Anh, từ Sa-tăng bắt nguồn từ… Shaitan.
Vẻ khó chịu hiện lên lên khuôn mặt Kohler.
Giọng Langdon dứt khoát. - Ông Kohler, tôi không biết bằng cách nào dấu hiệu này lại xuất hiện lên ngực người đàn ông này… hoặc lại sao… nhưng ông đang được tận mắt nhìn thấy biểu tượng thất truyền của một nghi lễ sùng bái Sa-tăng lâu đời và quyền lực nhất.
--10--
Trong con hẻm hẹp và vắng vẻ, tên sát thủ sải những bước dài, đôi mắt đen của hắn sáng quắc lên những tia hy vọng. Khi gần đến đích, những lời nói của Janus lúc chia tay vang lên trong tâm trí hắn. Giai đoạn hai sẽ sớm bắt đầu thôi. Nghỉ ngơi đi đã.
Tên sát thủ cười khẩy. Hắn đã thức cả đêm rồi, nhưng giấc ngủ vẫn là thứ xa vời trong tâm trí hắn. Giấc ngủ chỉ làm hắn yếu đi. Hắn là một chiến binh, như tổ tiên của hắn và người dân của hắn không bao giờ ngủ một khi cuộc chiến đã nổ ra. Trận chiến này thực sự đã bắt đầu và hắn có vinh hạnh được ra tay đầu tiên. Còn bây giờ hắn có hai tiếng đồng hồ ăn mừng chiến thắng trước khi công việc tiếp theo bắt đầu.
Ngủ ử? Còn nhiều cách hay hơn để thư giãn…
Niềm đam mê khoái lạc là thứ mà tổ tiên đã gieo trồng con người hắn. Những bậc tiền bối của hắn đắm chìm trong chất gây nghiện hashish, còn hắn thì lại thích một phần thưởng khác. Hắn tự hào về cơ thể mình - một cỗ máy giết người được phối hợp nhịp nhàng mà hắn không bao giờ để nó bị nhiễm ma tuý. Hắn nghiện một thứ còn bổ dưỡng hơn thuốc phiện… một phần thưởng lành mạnh và thoả mãn hơn nhiều.
Một cảm giác đê mê quen thuộc trỗi lên trong người hắn. Tên sát thủ rảo bước về phía cuối con hẻm. Hắn đến bên một cánh cửa được nguỵ trang và ấn chuông. Ô cửa con quan sát hé mở, một đôi mắt màu nâu nhạt quan sát hắn một cách kỹ lưỡng. Rồi cánh cửa lớn mở ra.
- Mời vào, - người phụ nữ ăn mặc cầu kỳ lên tiếng. Bà ta dẫn hắn đến một phòng khách bày biện hoàn hảo dưới ánh đèn mờ mờ. Không gian tràn ngập mùi nước hoa và xạ hương.
- Bất cứ khi nào ngài sẵn sàng. - Bà ta đưa cho hắn một tập ảnh. - Hãy gọi cho tôi khi ngài đã chọn lựa xong. - Rồi bà ta biến mất.
Tên sát thủ mỉm cười.
Ngồi trên chiếc đi-văng sang trọng, đặt cuốn album lên đùi, tên sát thủ thấy cơn đói nhục dục đang trỗi dậy khắp cơ thể. Dù dân tộc hắn không có lễ Giáng sinh nhưng hắn vẫn có cảm giác của một đứa trẻ Công giáo ngồi trước đống quà Giáng sinh, háo hức khám phá điều thần kỳ ở bên trong. Hắn mở quyển album và xem xét kỹ các bức ảnh. Niềm đam mê dục vọng ánh lên trong mắt hắn.
Marisa. Nữ thần Italia. Thân hình bốc lửa. Một Sophia Loren trẻ.
Sachiko. Một Geisha Nhật Bản. Cơ thể mềm mại. Cực kỳ điêu luyện.
Kanara. Hình bóng sững sờ của Châu Phi. Dáng người cơ bắp. Vẻ đẹp kì lạ.
Hắn xem xét kỹ cuốn album hai lần, chọn lựa rồi đưa tay ấn nút trên bàn. Một phút sau, người phụ nữ ban đầu xuất hiện.
Hắn chỉ cô gái hắn chọn. Bà ta mỉm cười:
- Đi theo tôi.
Sau khi thoả thuận về tiền bạc, người phụ nữ im lặng nhấc máy. Bà ta chờ vài phút rồi dẫn hắn leo lên những bậc cầu thang đá hoa cương uốn lượn dẫn đến một hành lang sang trọng.
- Cánh cửa màu vàng ở cuối dãy. - Bà ta nói - Ngài quả là người sành sỏi.
Xứng đáng chứ, hắn nghĩ. Ta là kẻ sành sỏi mà.
Tên sát thủ nhẹ bước hết chiều dài hành lang như một con báo đã phải đợi bữa ăn quá lâu. Đến gần cánh cửa, hắn tự mỉm cười.
Cửa mở hé… đón chào hắn bước vào. Hắn đẩy nhẹ và cánh cửa mở ra không một tiếng động.
Nhìn thấy sự chọn lựa của mình, hắn biết là đã không nhầm.
Cô ta chính là người hắn yêu cầu… trần truồng, nằm ngửa, hai tay bị trói vào cột giường bằng dây vải nhung.
Hắn tiến vào phòng và đưa tay lên vuốt ve thân hình ngọc ngà của cô ta. Đêm qua ta đã giết người, hắn nghĩ. Cô em là phần thưởng của ta.
--11--
Quỷ Sa-tăng? - Kohler lau miệng và khó chịu đổi tư thế. - đây là biểu tượng của nghi lễ sùng bái quỷ Sa-tăng à?
Langdon đi đi lại lại trong phòng cho ấm người.
- Hội Illuminati sùng bái Sa-tăng. Nhưng không phải theo quan niệm hiện tại.
Langdon nhanh chóng giải thích tại sao đa số mọi người hình dung tôn giáo thờ quỷ Sa-tăng là hội thờ quỷ dữ mặc dù trong quá khứ, hội Sa-tăng đều là những người có học nhưng chống lại nhà thờ. Shaitan. Lời đồn đại về lễ hiến tế các động vật mang tính tà thuật và ngôi sao năm cánh chỉ là những điều dối trá mà nhà thờ tuyên truyền nhằm chống lại những kẻ đối nghịch. Qua thời gian, những kẻ chống lại nhà thờ muốn ganh đua với Illuminati nên bắt đầu tin vào lời nói dối đó và thực thi các nghi lễ này. Vì vậy trò thờ cúng quỷ Sa-tăng kiểu hiện đại ra đời.
Kohler đột nhiên làu bàu:
- Đây chỉ là lịch sử xa xưa. Tôi muốn biết làm sao biểu tượng này lại ở đây.
Langdon thở dài:
- Biểu tượng này được một nghệ sĩ vô danh của hội Illuminati tạo ra để tôn vinh niềm say mê của Galileo đối với cấu trúc đối xứng - một biểu tượng thiêng liêng của Illuminati. Hội kín này giữ bí mật thiết kế của mình. Người ta cho rằng họ chỉ để lộ ra khi đã có đủ sức mạnh để trỗi dậy từ trong bóng tối và thực hiện mục tiêu tối thượng.
Kohler hoang mang:
- Vậy dấu hiệu này cho thấy hội Illuminati đang sống dậy?
Langdon nhíu mày:
- Không thể nào. Còn một chương trong lịch sử Illuminati tôi vẫn chưa giải thích hết.
Giọng Kohler đầy vẻ van lơn:
- Khai sáng cho tôi đi nào.
Langdon xoa hai bàn tay vào nhau, trong đầu đang lựa chọn từ hàng trăm nguồn tài liệu anh đã từng đọc hoặc viết về Illuminati.
- Những thành viên còn sống sót của Illuminati, - anh giải thích, chạy trốn khỏi Rome, đi khắp châu Âu, rồi tìm nơi an toàn để nhóm họp lại. Họ được một hội bí mật khác thu nhận… hội thợ thủ công khắc đá Bavanan giàu có hay còn gọi là hội Tam Điểm.
Kohler giật mình:
- Hội Tam Điểm?
Langdon gật đầu, không hề ngạc nhiên khi thấy Kohler đã từng nghe nói đến nhóm người đó. Hội Tam Điểm hiện có hơn 5 triệu thành viên trên khắp thế giới, một nửa đang cư trú tại Mỹ và trên 1 triệu người ở châu Âu.
- Có một điều chắc chắn: hội Tam Điểm không phải là nhóm tôn thờ Sa-tăng. - Kohler tuyên bố, dù không giấu nổi vẻ hoài nghi.
- Chắc chắn là không. Hội Tam Điểm là nạn nhân của chính lòng từ bi của họ. Sau khi giang tay đón tiếp những nhà khoa học đang bỏ chạy ở thế kỷ XVIII, hội này đã vô tình trở thành lá chắn cho Illuminati. Dưới sự che chở của hội Tam Điểm, Illuminati dần phát triển và từ từ thay thế quyền lực của những người lãnh đạo trong hội. Những người này âm thầm gây dựng lại hội Illuminati trong lòng Tam Điểm - một hội bí mật tồn tại trong một hội bí mật khác. Rồi các thành viên của Illuminati sử dụng những chi nhánh của hội Tam Điểm trên toàn thế giới để truyền bá ảnh hưởng của họ.
Langdon hít một hơi dài trước khi tiếp tục.
- Xoá sổ Cơ đốc giáo là lời thề của các thành viên hội Illuminati. Tín điều của hội này là nhà thờ là kẻ thù không đội trời chung của loài người. Họ sợ rằng nếu nhà thờ tiếp tục tuyên truyền các truyền thuyết tôn giáo như những chân lí và đà phát triển khoa học bị chặn lại thì con người sẽ rơi vào một tương lai u tối với những cuộc chiến tranh tôn giáo vô nghĩa.
- Giống như những gì chúng ta thấy ngày nay!
Langdon nhíu mày. Kohler nói đúng. Chiến tranh tôn giáo vẫn trở thành tiêu đề lớn trên các báo. Chúa của ta tốt đẹp hơn Chúa của các người. Dường như luôn có mối liên hệ giữa các tín đồ cuồng tín và số lượng các xác chết.
- Tiếp tục đi, - Kohler nói.
Langdon tập trung suy nghĩ và tiếp tục câu chuyện. - Illuminati ngày càng lớn mạnh ở châu Âu là bắt đầu hướng tới nước Mỹ, nơi có nhiều nhà lãnh đạo chính phủ là người của Tam Điểm - George Washington, Ben Franklin - những con chiên ngoan đạo không thể ngờ Illuminati lại thao túng hội Tam Điểm đến mức độ ấy.
Illuminati biết cách thâm nhập và thiết lập các ngân hàng, trường đại học, các ngành công nghiệp nhằm cung cấp tài chính cho mục đích tối cao của họ. - Langdon ngừng lại. - Tạo ra một thế giới không nhất phi tôn giáo - một trật tự thế giới mới trên thế gian.
Kohler không nhúc nhích.
- Một trật tự thế giới mới, - Langdon lặp lại, dựa trên công cuộc khai sáng khoa học. Họ gọi nó là Học thuyết Ma Vương. Nhà thờ cho rằng Ma Vương có liên hệ tới quỷ dữ, nhưng hội kín này khăng khăng khẳng định trong tiếng Latinh nó có nghĩa là người đem lại ánh sáng - hay Illuminator.
Kohler thở dài, giọng ông ta đột ngột trở nên trịnh trọng.
- Ông Langdon, xin mời ngồi.
Langdon dè dặt ngồi lên chiếc ghế lạnh giá.
Kohler lăn chiếc xe tới gần hơn.
Tôi không chắc tôi hiểu những gì ông vừa nói, nhưng tôi biết rõ điều này. Leonardo Vetra là một trong những tài sản quý giá nhất của CERN. Ông ta còn là một người bạn. Ông hãy giúp tôi tìm Illuminati.
Langdon không biết phải trả lời ra sao.
"Tìm Illuminati? " Ông ta đùa đấy à?
- Thưa ông, tôi e rằng điều đó hoàn toàn không thể được.
Kohler nhíu mày.
- Ý ông là gì? Ông không…
- Ông Kohler, - Langdon hướng người về phía chủ nhà, không biết giải thích thế nào cho ông ta hiểu những gì anh sắp nói - Tôi vẫn chưa nói xong câu chuyện. Mặc dù dấu nung này xuất hiện ở đây nhưng không thể chắc rằng đây là hành dộng của hội Illuminati. Không còn bằng chứng nào về sự tồn tại của hội này trong hơn nửa thế kỷ qua, đại đa số các học giả đều cho rằng hội Illuminati đã bị diệt vong từ nhiều năm nay rồi.
Những lời nói ấy rơi vào im lặng. Kohler nhìn đâu đó trong màn sương mù trước mắt với vẻ thảng thốt pha lẫn tức giận.
- Làm thế quái nào mà ông dám nói với tôi nhóm người này đã biến mất trong khi tên của họ được khắc lên người Vetra!
Langdon đã tự hỏi mình câu hỏi đó cả buổi sáng nay rồi. Sự xuất hiện của biểu tượng hai chiều đối xứng Illuminati thật kỳ lạ. Các nhà biểu tượng học trên khắp thế giới hẳn phải sững sờ kinh ngạc. Nhưng kiến thức học thuật của Langdon mách bảo anh rằng sự xuất hiện trở lại của dấu nung này không hề liên quan đến Illuminati.
- Biểu tượng này, - Langdon nói, - không hề khẳng định sự hiện diện của người tạo ra nó.
- Điều đó có nghĩa gì?
- Nó có nghĩa là một khi những tổ chức như Illuminati không còn tồn tại, biểu tượng của nó có thể bị… nhóm khác sử dụng. Đó là hiện tượng chuyển giao. Trong ngành biểu tượng học, chuyện này cực kỳ phổ biến. Phát-xít Đức lấy hình chữ thập ngoặc của người Hindu, người Thiên Chúa giáo lấy biểu tượng thập giá của Ai Cập, người…
- Sáng nay, - Kohler nói giọng thách thức, - khi tôi gõ chữ "Illuminati" trong máy tính, nó cho ra hàng ngàn trang web tham khảo. Rõ ràng có rất nhiều người nghĩ rằng nhóm này vẫn còn hoạt động.
- Đúng là những câu chuyện giật gân, - Langdon đáp. Anh thấy khó chịu với sự tràn ngập của các biện pháp câu khác trong nền văn hoá đại chúng hiện đại. Các phương tiện truyền thông tranh nhau đưa những tiêu đề vè ngày tận thế, tự cho mình là những "chuyên gia văn hoá" tìm cách kiếm chác bằng cách thổi phồng trước công chúng những câu chuyện thêu dệt rằng Illuminati còn tồn tại và đang chuẩn bị tổ chức lại trật tự thế giới mới. Gần đây, Thời báo New York còn đưa tin hội Tam Điểm kỳ quái có mối liên hệ với vô số nhân vật nổi tiếng - Sir Arthur Conan Doyle, Quận công xứ Kent, Peter Sellers, Irving Berlin, Hoang tử Phillip, Louis Armstrong cũng như lăng tẩm của những trùm tư bản nổi tiếng trong các lĩnh vực ngân hàng và công nghiệp hiện đại.
Kohler giận dữ chỉ vào xác Vetra:
- Nếu nhìn vào bằng chứng này, tôi thấy những câu chuyện giật gân câu khách đó là đúng.
- Tôi hiểu nó xuất hiện thế nào, - Langdon nói với cung cách của một nhà ngoại giao. - Nhưng cũng còn có một giả thuyết khả thi hơn rằng các tổ chức khác đang kiểm soát dấu nung của Illuminati và sử dụng cho mục đích riêng của họ.
- Mục đích nào? Vụ giết người này chứng minh được điều gì?
Câu hỏi hay lắm, Langdon nghĩ. Anh không thể tưởng tượng ra ai đó lại có thể lôi ra dấu nung Illuminati sau 400 năm cất giữ.
- Tất cả những gì tôi có thể nói với ông lúc này là nếu Illuminati còn hoạt động cho đến ngày nay, điều này tôi chắc chắn là không thể, thì hội này cũng không liên quan đến cái chết của Leonardo Vetra.
- Không ư?
- Không. Người ta cho rằng Illuminati có ý muốn xoá bỏ Thiên Chúa giáo, nhưng họ thường sử dụng sức mạnh chính trị và tài chính, không phải bằng biện pháp khủng bố. Hơn nữa, Illuminati có một quy định đạo đức ngặt nghèo về những người mà họ xem là kẻ thù. Thành viên của hội này thường là những người làm khoa học ở đẳng cấp cao nhất. Chẳng có lí gì mà họ lại sát hại một nhà khoa học, đống nghiệp của họ, như Leonardo Vetra.
Ánh mắt Kohler vô cùng lạnh lẽo.
- Có lẽ tôi chưa đề cập đến một chuyện, Leonardo Vetra không phải là một nhà nghiên cứu khoa học thuần tuý.
Langdon cố giữ kiên nhẫn.
- Ông Kohler, tôi chắc Leonardo Vetra xuất sắc trong nhiều lĩnh vực nhưng sự thật vẫn là…
Kohler đột ngột quay xe đi ra khỏi phòng khách, để lại một khoảng sương mù phảng phất khi ông ta biến mất vào lối sảnh.
Vì lòng kính Chúa! Langdon rên rỉ. Anh bước theo. Kohler đang đợi anh ở một góc tường nhỏ phía cuối sảnh.
- Đây là phòng nghiên cứu của Leonardo, - Kohler nói và chỉ tay vào cánh cửa kéo. - Có lẽ anh nên xem đi thì sẽ hiểu mọi chuyện khác thôi. - Vẻ khó xử, Kohler đẩy cửa mở ra.
Langdon nhìn một lượt căn phòng làm việc và ngay lập tức nổi da gà. Đức Mẹ của Chúa Giê-su, anh tự nhủ.
