Tác giả: Dan Brown
--46--
Nhà mái vòm bí mật của Vatican được bố trí ở cuối đại sảnh Borgia, cách cổng Santa Ana một con dốc. Bên trong toà nhà này chứa khoảng 20. 000 cuốn sách, và theo những lời đồn đại thì trong số đó có những báu vật như cuốn nhật ký bị thất lạc của Leonardo Da Vinci và những cuốn Kinh thánh chưa được công bố.
Langdon sải những bước dài mạnh mẽ dọc con dốc Via Della Fondamenta vắng vẻ, anh không dám tin là mình sắp được đặt chân vào thư viện của toà thánh. Vittoria nhẹ nhàng theo sát anh.
Một làn gió nhẹ thoáng qua, mái tóc nâu bồng bềnh của cô gái thoảng mùi thơm quả hạnh, Langdon tưởng như mùi hương ấy đang ôm ấp, mơn man cơ thể mình. Anh chợt thấy lòng xao động.
Vittoria lên tiếng:
- Anh có thể cho tôi biết là chúng ta đang đi tìm cái gì không?
- Một cuốn sách nhỏ, tác giả mang tên Galileo.
Cô gái ngạc nhiên:
- Anh nói nghiêm túc đấy chứ? Nội dung của nó là gì?
Người ta nói rằng cuốn sách đó chứa thông tin về Segno(1).
- Dấu hiệu à?
- Dấu hiệu, đầu mối, manh mối… Tuỳ vào cách hiểu của mỗi người.
- Đầu mối của cái gì?
Langdon sải bước nhanh hơn:
- Một địa điểm bí mật. Hội Illuminati của Galileo cần một biện pháp để tự vệ trước thế lực của Vatican, thế là họ chọn ra một địa điểm cực kỳ bí mật ở ngay trong thành Rome. Họ đặt cho nó cái tên là Nhà thờ ánh sáng.
- Táo tợn thật, dùng từ nhà thờ để đặt tên cho hang ổ của quỷ dữ.
Langdon lắc đầu.
- Hội Illuminati của Galileo không hề giống quỷ dữ chút nào. Họ là những nhà khoa học tôn sùng sự khai sáng. Địa điểm bí mật đó đơn giản chỉ là nơi họ tụ họp để bàn những vấn đề mà Vatican cấm ngặt. Dù biết rằng địa điểm đó đã từng tồn tại, nhưng ngày nay không ai tìm ra được.
- Có vẻ như hội Illuminati rất biết cách giữ bí mật.
- Chính xác. Sự thật là họ không hề tiết lộ địa điểm bí mật này cho bất kỳ ai không phải là thành viên của hội. Bí mật đó bảo vệ cho họ, nhưng nó lại trở thành một trở ngại khi họ muốn tuyển mộ thêm thành viên mới.
- Nếu không quảng bá hình ảnh thì không thể phát triển. - Vittoria nhận định, tư duy của cô gái sắc sảo và nhanh nhạy chẳng kém gì đôi chân.
- Đúng thế. Tin đồn về hội kín của Galileo bắt đầu lan rộng từ những năm 1630, và những nhà khoa học từ khắp nơi trên thế giới bí mật hành hương về Rome với hi vọng được gia nhập Illuminati… Họ háo hức được ngắm nhìn bầu trời bằng ống kính thiên văn của Galileo và nghe chính bậc thầy này giảng giải. Thật đáng tiếc, do tính chất bí mật của Illuminati nên những nhà khoa học từ xa đến Rome không bao giờ được biết phải đến đâu và phải hỏi ai để tham dự những cuộc tụ họp ấy. Hội Illuminati muốn thay máu, nhưng lại không dám mạo hiểm tiết lộ bí mật của mình bằng cách công bố địa điểm bí mật đó.
Vittoria nhíu mày:
- Nghe có vẻ giống một tình thế tiến thoái lưỡng nan nhỉ.
- Đúng thế.
- Rồi họ làm thế nào?
- Là những nhà khoa học, họ đã xem xét vấn đề và tìm ra một giải pháp. Thực sự là một giải pháp rất xuất sắc. Hội Illuminati đã lập nên một loại bản đồ cực kỳ tài tình để chỉ đường cho các nhà khoa học đến địa điểm bí mật của họ.
Đột nhiên Vittoria tỏ ra hoài nghi, cô bước chậm hẳn lại:
- Bản đồ à? Nghe có vẻ quá bất cẩn. Chỉ cần một tấm bản đồ rơi vào tay những kẻ phản bội là…
- Không thể có chuyện đó. - Langdon đáp. - Chỉ có một tấm bản đồ duy nhất. Đó không phải là loại bản đồ vẽ trên giấy. Bản đồ này cực lớn. Nó là một loạt những ký hiệu rải khắp thành phố.
Những bước chân của Vittoria lại một lần nữa chậm lại:
- Những mũi tên vẽ khắp nơi trên các vỉa hè à?
- Đại loại thế, nhưng tinh tế hơn nhiều. Bản đồ đó gồm những biểu tượng được che giấu một cách tài tình ở những địa điểm công cộng trong thành phố. Biểu tượng thứ nhất chỉ đường đến biểu tượng thứ hai, biểu tượng thứ hai dẫn đến biểu tượng thứ ba, và cứ thế, cái đích cuối cùng sẽ là địa điểm bí mật.
Vittoria nhìn anh dầy hoài nghi:
- Nghe như một hành trình đi tìm kho báu ấy nhỉ?
Langdon cười khùng khục:
- Trong chừng mực nào đó thì quả đúng là như vậy. Hội Illuminati gọi những biểu tượng dẫn đến địa điểm bí mật này là "Con đường ánh sáng", tất cả những người muốn gia nhập hội của họ đều phải lần theo những biểu tượng ấy từ đầu đến cuối. Như là một thử thách.
- Nếu thế thì Vatican cũng cứ theo những mũi tên đó là tìm được địa điểm bí mật của hội Illuminati.
- Không, con đường đó được giữ bí mật, như một sự thách đố. Những dấu hiệu đó được thiết kế theo một kiểu nhất định. Chỉ một nhóm người có khả năng hiểu được nó và biết được địa điểm bí mật của hội Illuminati nằm ở đâu. Hội Illuminati muốn dùng nó như một sự thử thách, không chỉ nhằm mục đích an ninh, mà còn để lựa chọn những nhà khoa học tài ba nhất.
- Tôi không tin. Trong thế kỷ XVII thì những người tài giỏi nhất chính là giới tu sĩ. Nếu những dấu hiệu đó được khắc ở nơi công cộng thì chắc chắn một tu sĩ nào đó của Vatican sẽ lần ra địa điểm đó.
- Đúng thế, với điều kiện là họ phải được biết về những dấu hiệu đó. Nhưng họ đâu có biết. Và họ cũng không bao giờ nhận ra chúng, vì hội Illuminati đã thiết kế những biểu tượng của họ theo một kiểu mà nhà thờ sẽ không bao giờ nghi ngờ. Họ sử dụng một phương pháp mà ngành biểu tượng gọi là Đồng hoá.
- Nguỵ trang à?
Langdon nhạc nhiên:
- Cô biết thuật ngữ đó à?
- Dissimulazione(2), biện pháp tự vệ hiệu quả nhất trong thiên nhiên. Đố anh phát hiện được con cá kèn đang bơi lượn trong đám rong biển.
- Đúng thế. - Langdon nói tiếp, - Hội Illuminati cũng sử dụng khái niệm ấy. Họ tạo ra những dấu hiệu hoàn toàn hoà lẫn vào thành Rome cổ kính. Họ không thể dùng những biểu tượng khoa học hay biểu tượng đối xứng hai chiều vì như vậy sẽ gây ra nghi ngờ. Họ đã yêu cầu một nghệ sĩ của hội tạo ra bốn bức điêu khắc chính nhà nghệ sĩ vô danh đã tạo nên sự đối xứng tuyệt vời cho biểu tượng của hội Illuminati.
Các bức điêu khắc của Illuminati?
- Đúng thế, - các tác phẩm điêu khắc với hai yêu cầu khắt khe. Thứ nhất, chúng phải giống với những công trình nghệ thuật ở Rome… mà Vatican không bao giờ nghi ngờ rằng chúng thuộc về hội Illuminati.
- Một loại hình nghệ thuật có tính tôn giáo.
Langdon gật đầu, lòng tràn ngập cảm giác phấn khích, anh nói nhanh:
- Và yêu cầu thứ hai là bốn biểu tượng này phải biểu hiện những dề tài cụ thể. Mỗi bức điêu khắc thể hiện sự tôn sùng đối với một trong bốn ngành khoa học.
- Bốn ngành à? - Vittoria hỏi lại. - Có những hơn 100 ngành cơ mà?
- Vào thời điểm của thế kỷ XVII cơ mà - Langdon nhắc Vittoria - Các nhà giả kim thời đó tin rằng toàn thể vũ trụ được tạo nên từ bốn yếu tố duy nhất: Đất, Khí, Lửa và Nước.
Langdon biết rằng ban đầu cây thánh giá chính là biểu tượng của bốn yếu tố đó - bốn nhánh, tượng trưng cho Đất, Khí, Lửa và Nước. Tuy nhiên, còn có hàng chục kiểu biểu tượng khác trong lịch sử nhân loại tượng trưng cho bốn yếu tố Đất, Khí, Lửa, Nước - vòng luân hồi của trường phái Pitago, biểu tượng Lưỡng Nghi cửa người Trung Hoa, sự phân chia yếu tố đực và cái của trường phái Jungian, cách chia đường hoàng đạo thành bốn cung, và thậm chí cả người Hồi giáo cũng tôn thờ bốn yếu tố sơ khai có tên là gió, mây, chớp và sóng. Và bốn yếu tố này có một công dụng khá hiện đại mà vẫn luôn khiến Langdon thấy rợn - bốn mức chia huyền bí trong triết lý của hội Tam Điểm về sự khởi đầu tuyệt đối: Đất Khí, Lửa và Nước.
Vittoria vẫn chưa hết thắc mắc:
- Tức là người nghệ sĩ của hội Illuminati tạo ra bốn tác phẩm nghệ thuật mà thoạt nhìn thì mang đậm chất tôn giáo, nhưng thực ra lại tượng trưng cho bốn yếu tố nguyên thuỷ là Đất, Khí, Lửa và Nước à?
- Chính xác. - Langdon vừa nói vừa nhanh chân bước về phía Via Sentinel, hướng về phía Nhà mái vòm bí mật. - Những tác phẩm này bị lẫn vào giữa vô số những tác phẩm nghệ thuật có tính tôn giáo ở thành Rome. Bằng cách nặc danh hiến tặng những tác phẩm này cho các nhà thờ đã được chọn lựa từ trước và lợi dụng ảnh hưởng chính trị của nhà thờ ấy, hội Illuminati đã khiến cho bốn tác phẩm điêu khắc đó được trưng bày trong bốn nhà thờ ở Rome. Dĩ nhiên là mỗi tác phầm đóng vai trò của một tấm biển chỉ đường tinh tế để dẫn người ta đến nhà thờ tiếp theo… nơi mà tác phẩm thứ hai đang đợi sẵn. Chúng giống như những đầu mối khoác lớp nguỵ trang tôn giáo. Nếu một người muốn gia nhập hội xác định được nhà thờ đầu tiên và đầu mối chỉ Đất, anh ta sẽ theo dấu đó mà lần đến Khí… rồi đến Lửa… đến Nước, và cuối cùng là đến Nhà thờ ánh sáng.
Vittoria mỗi lúc một cảm thấy khó hiểu:
- Và điều này lại có liên quan đến việc truy tìm hung thủ sao?
Langdon mỉm cười, lật nốt quận át chủ bài:
- Đúng thế. Hội Illuminati đặt cho bốn nhà thờ này những cái tên rất đặc biệt. Những Điện thờ Khoa học.
Vittoria nhíu mày:
- Xin anh thứ lỗi, nhưng tôi chẳng hiểu. - Rồi bỗng nhiên ngừng bặt. - L altair di Scienza(3)! Sát thủ Illuminati! Hắn muốn cảnh báo rằng bốn vị Hồng y sẽ là những sinh linh trinh tiết được hiến tế trước bàn thờ khoa học!
Langdon mỉm cười nhìn cô gái:
- Bốn vị Hồng y, bốn nhà thờ, bốn bàn thờ khoa học.
Vittoria bối rối:
- Anh vừa nói là bốn vị Hồng y sẽ bị hành quyết tại bốn nhà thờ đánh dấu Con đường ánh sáng phải không?
- Đúng, tôi tin là thế.
- Thế tại sao tên sát thủ lại cho chúng ta những đầu mối đó?
- Tại sao lại không? - Langdon đáp. - Rất ít sử gia biết đến bốn tác phẩm điêu khắc đó. Và số người tin là chúng tồn tại thực thì lại càng ít hơn. Đã thế những địa điểm này lại được giữ bí mật suốt 400 năm nay. Chắc chắn hội Illuminati tin rằng nó sẽ còn là bí mật trong 5 giờ đồng hồ sắp tới. Bên cạnh đó, hội Illuminati giờ đây không còn cần đến Con đường ánh sáng nữa. Có lẽ chỗ ẩn nấp bí mật của họ từ lâu đã không còn tồn tại. Họ đang sống trong thế giới hiện đại. Họ có thể tụ họp tại các phòng họp của cơ quan, những câu lạc bộ buổi tối, các sân golf tư nhân. Đây chính là giây phút họ vẫn hằng chờ đợi. Thời điểm bí mật vĩ đại của họ được công bố.
Langdon sợ rằng cách thức mà hội Illuminati lựa chọn để công bố bí mật của họ sẽ bao gồm một sự đối xứng đặc biệt mà anh chưa kịp nói cho Vittoria nghe. Bốn nhánh. Tên sát thủ đã thề rằng thi thể bốn vị Hồng y sẽ bị đóng dấu bốn biểu tượng khác nhau. Để chứng minh rằng những huyền thoại cổ xưa là có thật, hắn đã tuyên bố như vậy. Huyền thoại về ý nghĩa biểu tượng đối xứng của bốn nguyên tố ban đầu cũng cổ xưa như chính Illuminati vậy: Đất, Khí, Lửa và Nước - bốn chữ ấy được chạm khắc với một sự cân xứng tuyệt đối. Và mỗi vị Hồng y sẽ bị khắc lên người một biểu tượng cổ xưa tượng trưng cho những thành tố của khoa học. Các nhà sử học hiện vẫn chưa hết tranh cãi về lời đồn rằng những chữ đó được viết bằng tiếng Anh chứ không phải tiếng Ý. Tiếng Anh có vẻ như là một lựa chọn ngẫu nhiên, mà Illuminati thì không làm gì một cách ngẫu nhiên bao giờ.
Đến trước toà nhà mái vòm, Langdon rẽ vào một lối đi lát gạch. Những hình bóng ma quái vẫn tiếp tục ám ảnh tâm trí anh. Âm mưu của Illuminati bắt đầu chứng tỏ sự kiên trì vô tận của tổ chức này. Hội Illuminati đã thề sẽ im lặng trong một thời gian thật dài, tập hợp sức mạnh và thế lực để đến một ngày lại xuất hiện công khai mà không phải sợ hãi, để thiết lập vị thế của mình, và tiếp tục sự nghiệp đấu tranh của họ giữa thanh thiên bạch nhật. Illuminati không cần phải ẩn mình trong bóng tối nữa. Họ sắp phô diễn sức mạnh của mình, sắp khẳng định với nhân loại rằng những huyền thoại về họ là có thật. Đêm nay chính là thời điểm đó.
Vittoria thốt lên:
- Người hộ tống chúng ta đến rồi kìa.
Langdon ngước nhìn lên và thấy một người lính gác Thuỵ Sĩ đang hối hả băng qua khoảng sân gần đó và tiến về cửa trước.
Trông thấy họ, người lính gác dừng phắt lại. Anh ta trừng trừng nhìn hai người, vẻ như tưởng mình bị ảo giác. Không nói một lời, anh ta quay đi, lôi máy bộ đàm ra. Rõ ràng là người lính này thấy nhiệm vụ vừa được giao là quá kỳ quặc, nên đang vội vàng trao đổi với đầu dây bên kia. Langdon không hiểu được những âm thanh giận dữ vang lên từ trong máy, nhưng thông điệp của chúng thì đã quá rõ ràng. Người lính chùng hẳn xuống, cất máy bộ đàm, rồi quay sang nhìn họ với vè không bằng lòng. Chẳng nói chẳng rằng, người lính dẫn họ vào trong toà nhà.
Cả ba đi qua bốn cánh cửa bằng thép, hai lối đi mở bằng chìa khoá vạn năng, xuống một cái cầu thang, rồi vào một sảnh đợi có hai lớp khoá bảo vệ. Vượt qua một loạt những cánh cống điện tử kỹ thuật cao, họ tiến đến cuối hành lang dài dẫn tới cánh cửa hai lớp rất lớn bằng gỗ sồi. Người lính gác dừng lại, nhìn hai người từ đầu đến chân một lần nữa, miệng lầm bầm điều gì đó, rồi tiến tới bên một hộp kim loại gắn trên tường. Anh ta mở hộp, thò tay vào trong và gõ mật khẩu. Cánh cửa bắt đầu kêu u u, rồi then cửa mở ra.
Người lính quay lại và nói:
- Nhà mái vòm ở sau cánh cửa này.
- Tôi được lệnh dẫn các vị đến đây rồi phải quay về ngay để báo cáo về một việc khác nữa.
- Anh quay về ngay bây giờ đấy à? - Vittoria hỏi.
- Linh gác Thuỵ Sĩ không được phép vào bên trong Thư viện bí mật. Nhờ có lệnh trực tiếp từ Giáo chủ Thị thần mà các vị được có mặt ở đây đấy,
- Nhưng chúng tôi sẽ ra ngoài như thế nào?
- Theo nguyên tắc an ninh một chiều. Các vị sẽ không gặp trở ngại gì.
Toàn bộ cuộc hội thoại chỉ vỏn vẹn có thế, người lính gác quay gót và đi ra.
Vittoria bình phẩm điều gì đó, nhưng Langdon không nghe thấy. Tâm trí anh đang bị hút chặt vào cánh cửa hai lớp trước mặt, tò mò muốn khám phá những bí ẩn đằng sau chúng.
Chú thích
(1) Segno: Dấu hiệu.
(2) Dissimulazine: nguỵ trang.
(3) L altair di Scienza: Điện thờ khoa học.
--47--
Dù biết rằng chỉ còn rất ít thời gian, Giáo chủ Thị thần Carlo Ventresca vẫn bước đi thong thả. Cần phải có thời gian để sắp xếp lại những ý nghĩ ngổn ngang trong tâm trí trước khi tham dự nghi lễ cầu nguyện đầu tiên. Đã có quá nhiều sự kiện. Những biến cố trong suốt 15 ngày qua đang đè nặng lên vai khi viên thị thần trẻ tuổi đang một mình sải bước dọc hành lang phía Bắc.
Giáo chủ Thị thần đã làm theo tất cả những chỉ dẫn viết trong thư. Theo đúng nghi thức của toà thánh, sau khi Giáo hoàng tạ thế,
Giáo chủ Thị thần đặt một ngón tay lên động mạch của Đức Thánh Cha, nghe hơi thở của Người và gọi tên Người ba lần để khẳng định rằng Người đã thực sự về nước Chúa. Theo luật, không có khám nghiệm tử thi. Sau đó, ngài đã niêm phong phòng riêng của Giáo hoàng, đập vỡ chiếc nhẫn ngư phủ và con dấu của ngài, rồi lo sắp xếp hậu sự. Sau khi tất cả đã xong xuôi, ngài mới bắt đầu chuẩn bị cho Mật nghị Hồng y để bầu Giáo hoàng mới.
Mật nghị Hồng y, Giáo chủ Thị thần thầm nghĩ. Thử thách cuối cùng. Đây là một trong những truyền thống cổ xưa nhất của Thiên Chúa giáo. Ngày nay, mọi người dường như đều biết trước kết quả, nên nghi thức này bị chỉ trích là nhiêu khê, là giống trò khôi hài hơn là một cuộc bầu cử. Tuy nhiên, ngài hiểu rằng thái độ đó chỉ là kết quả của sự thiếu hiểu biết mà thôi.
Mật nghị Hồng y không phải là một cuộc bàu cử, mà là một nghi lễ chuyển giao quyền lực huyền bí và cố xưa. Một truyền thống vô cùng cổ xưa… sự bí mật, những mảnh giấy gấp làm đôi, nghi thức đốt phiếu bầu, quy trình hoà trộn những hợp chất hoá học, tín hiệu bùng khói…
Đặt chân đến hành lang ngoài mang tên Gregory XIII, Giáo chủ Thị thần thầm băn khoăn không hiểu Hồng y Giáo chủ Mortati có cảm thấy lo lắng hay không. Chắc chắn đức cha cũng đã biết sự vắng mặt của bốn vị được chú ý đặc biệt. Không có họ thì quy trình bỏ phiếu sẽ kéo dài suốt đêm. Việc Hồng y Mortati được tấn phong làm Đại Cử Tri là hoàn toàn đúng đắn, Giáo chủ Thị thần tự trấn an mình. Đức cha là người có đầu óc khoáng đạt, và có quyền được nói thẳng mọi ý nghĩ của mình. Hơn lúc nào hết, đêm nay, Mật nghị Hồng y thực sự cần có một người lãnh đạo ra trò để mà lèo lái.
Lên đến những bậc trên cùng của cầu thang Hoàng gia, Giáo chủ Thị thần Carlo Ventresca tưởng như đang phải đứng trên vách núi cheo leo nhất trong cuộc đời. Từ tít trên cao này, Giáo chủ Thị thần vẫn có thể nghe rất rõ những âm thanh vọng lên từ nhà nguyện Sistine ở dưới kia - những lời trao đổi không mấy thoải mái của 165 vị Hồng y Giáo chủ.
161 thôi chứ, vị thầy tu trẻ tuổi tự đính chính lại.
Trong khoảnh khắc, Giáo chủ Thị thần tưởng như mình đang rơi thẳng xuống địa ngục, tiếng người gào thét, những lưới lửa trùm kín cơ thể ngài, rồi đất đá và máu từ trời cao trút xuống như mưa.
Sau đó là sự tĩnh lặng.
o O o
Tỉnh dậy, chú bé tưởng mình đang ở trên thiên đàng. Xung quanh cậu cái gì cũng trắng. Ánh sáng tinh khiết và rực rỡ. Chắc nhiều người sẽ nghĩ một đứa bé 10 tuổi thì làm sao hiểu được thiên đàng là thế nào, nhưng Carlo Ventresca thì lại biết rất rõ xứ sở ấy Ngay lúc này đây, cậu bé đang ở trên thiên đàng. Còn có thể ở nơi nào khác được đây? Trong một thập kỷ ngắn ngủi có mặt trên trần thế, Carlo đã cảm nhận được vẻ uy nghi của Chúa trời - tiếng đàn rền vang, mái vòm cao vòi vọi, những bài thánh ca ngân lên cao vút, những tấm kính màu, ánh sáng lấp lánh của đồng và vàng. Ngày nào mẹ Maria cũng đưa Carlo đi lễ nhà thờ.
Nhà thờ chính là nhà của chú bé.
- Tại sao ngày nào mình cũng đi lễ hả mẹ? - Carlo hỏi, tuy cậu bé rất thích được đi lễ.
- Bởi vì mẹ đã hứa với Chúa như vậy, - mẹ cậu trả lời. - Và lời hứa với Chúa quan trọng hơn bất kỳ lời hứa nào khác. Không được thất hứa với Chúa.
Carlo hứa với mẹ là sẽ không bao giờ thất hứa với Chúa. Cậu bé yêu mẹ hơn hết thảy. Mẹ là thiên thần. Đôi khi cậu gọi mẹ là Maria beneddeta - Mary được ban phước lành - dù mẹ không thích thế tí nào. Quỳ cạnh mẹ trong buổi lễ, cảm nhận mùi hương ngọt ngào toả ra từ cơ thể mẹ, chú bé nghe tiếng mẹ rì rầm tụng kinh. Ave Maria, mẹ của đức Chúa xin hãy cầu nguyện cho tội lỗi của chúng con ngay lúc này vào lúc chúng con từ giã cõi trần.
- Cha con đâu? - Carlo hỏi, dù cậu biết rằng cha đã qua đời trước khi chú được sinh ra.
- Bây giờ Chúa chính là cha của con. - Lúc nào mẹ cũng nói như vậy - Con là con của nhà thờ.
Carlo thích điều đó.
- Bất cứ khi nào con cảm thấy sợ hãi, hãy nhớ rằng Chúa chính là cha của con. Chúa sẽ dõi theo từng bước chân con, che chở cho con mãi mãi. Người có những dự định rất lớn lao cho con, Carlo ạ.
Cậu bé tin rằng những gì mẹ nói chính là sự thật. Cậu cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong dòng máu của mình.
Máu…
Máu từ trên trời đổ xuống!
Tĩnh lặng. Sau đó là thiên đường.
Khi luồng sáng rực rỡ ấy bị người ta tắt đi, Carlo nhận ra rằng thiên đường của chú chính là phòng Hồi sức cấp cứu của bệnh viện Santa Clara ở ngoại vi Palermo. Carlo là người duy nhất sống sót khi bọn khủng bố cho nổ tung nhà nguyện nhỏ nơi hai mẹ con đang cầu nguyện trong khi đi du lịch tới khu vực ấy. 37 người thiệt mạng, trong đó có mẹ của Carlo. Chỉ mình Carlo thoát chết. và báo chí đều cho rằng đó là phép nhiệm màu của thánh Francis. Không hiểu vì lý do gì, chỉ mấy giây trước khi nhà nguyện nổ tung, Carlo đã rời khỏi chỗ của cậu gần bên mẹ và đến chỗ hốc tường được bảo vệ để xem tấm thảm thêu minh hoạ sự tích thánh Francis.
Chúa đã gọi mình lên đó, Carlo tự nhủ. Người muốn cứu mình.
Carlo phải chịu rất nhiều đau đớn. Cậu bé vẫn nhớ như in hình ảnh mẹ đang quỳ trong nhà nguyện, gửi chú một cái hôn gió, rồi ngay sau đó là tiếng nổ dữ dội, cơ thể ngọt ngào của mẹ bị xé toang thành từng mảnh. Cậu bé thấy ngay trước mắt tội ác của con người. Máu đồ như suốt. Máu của mẹ! Máu của Maria được ban phước lành!
Chúa sẽ dõi theo con và luôn chở che cho con, mẹ đã nói với Carlo như thế.
Nhưng lúc ấy có thấy Chúa đâu!
Thế rồi, như để chứng minh rằng lời nói của mẹ là đúng, một vị tu sĩ tìm đến bệnh viện. Không phải ai khác, mà chính là đức cha Giám mục. Cha cầu nguyện cho Carlo. Phép nhiệm màu của thánh Francis. Khi Carlo bình phục hẳn, cha thu xếp cho chú ở trong một nhà tu nhỏ liền kề nhà thờ lớn nơi ngài trụ trì.
Carlo được các tu sĩ nuôi nấng, dạy dỗ, thậm chí chú bé còn trở thành phụ lễ cho những người bảo trợ mới của mình. Đức giám mục gợi ý bảo Carlo nhập học ở một trường công lập, nhưng cậu bé từ chối. Nhà thờ là nơi khiến chú thấy hạnh phúc nhất. Lúc này cậu đã thực sự được sống trong ngôi nhà của Chúa. Đêm nào Carlo cũng cầu nguyện cho mẹ.
Chúa đã cứu mình vì một lý do nào đó, cậu bé thầm nghĩ. Lý do đó là gì nhỉ?
16 tuổi, theo luật của nước Ý, Carlo buộc phải tham dự khoá huấn luyện quân dự bị trong hai năm. Đức giám mục bảo rằng nếu vào học ở trường dòng, cậu sẽ không phải gia nhập quân dự bị. Và Carlo đã trả lời rằng cậu bé dự định sẽ vào học trường dòng, nhưng trước hết cậu cần phải hiểu rõ thế nào là tội lỗi đã.
Đức giám mục không thể hiểu nối.
Carlo tin rằng nếu định dành cả đời trong nhà thờ để chiến đấu với tội lỗi thì trước tiên cần phải hiểu thật rõ về tội lỗi. Và làm gì có nơi nào thuận tiện cho việc đó hơn trại lính đây! Quân đội thì phải sử dụng súng đạn. Một trái bom đã cướp đi mạng sống của mẹ Maria được ban phước lành!
Đức giám mục ra sức khuyên can, nhưng Carlo đã quyết.
- Hãy cẩn trọng, con của ta. - Đức giám mục dặn dò. - Con hãy nhớ rằng nhà thờ vẫn luôn đợi con quay trở lại.
Hai năm quân ngũ của Carlo là thời gian thật khủng khiếp. Thời thơ ấu của anh thật yên tĩnh và đầy ắp những suy tưởng. Trong quân ngũ không có chỗ cho cả sự yên tĩnh lẫn suy tưởng. Lúc nào cũng ồn ào. Chỗ nào cũng thấy những cỗ máy to lớn. Không có nổi một giây phút yên bình. Dù hàng tuần những người lính cũng dự lễ Mi sa trong doanh trại, nhưng Carlo không thể cảm nhận được sự hiện diện của Chúa trong tâm hồn những người đồng ngũ của anh. Tâm trí của họ quá động loạn, và họ không thể nào thấy được Chúa.
Carlo căm ghét cuộc sống mới này là chỉ mong được nhanh chóng trở về nhà. Nhưng anh vẫn quyết tâm thực hiện cho xong dự định của mình. Anh cần phải nhìn rõ thế nào là tội lỗi. Vì anh cương quyết từ chối học bắn súng, họ đành phải dạy anh cách lái máy bay cứu thương. Carlo ghét tiếng ồn và mùi xăng nồng nặc của máy bay trực thăng nhưng ít ra thì nhờ nó anh có thể bay lên trời cao, để được gần mẹ trên thiên đàng. Khi được thông báo rằng một phần nội dung trong chương trình học sẽ là nhảy dù, Carlo khiếp sợ.
Nhưng không còn sự lựa chọn nào khác.
Chúa sẽ che chở cho mình, anh tự nhủ.
Nhưng lần nhảy dù đầu tiên hoá ra lại mang đến cho Carlo cảm giác vui sướng chưa từng thấy. Anh tưởng như mình được bay tới bên Chúa. Carlo muốn thu nhận tất thảy mọi thứ vào lòng… sự tĩnh lặng… cảm giác bồng bềnh… khuôn mặt mẹ hiện lên nơi những đám mây trắng cuồn cuộn đang lao vút lên cao khi anh rơi tự do xuống mặt đất. Chúa có những dự định lớn lao cho con đấy Carlo ạ. Sau khi mãn hạn quân dịch, Carlo quay về tu viện.
Thế mà đã 23 năm trôi qua.
Giờ đây, đặt chân lên từng bậc thang dẫn xuống nhà nguyện, Giáo chủ Thị thần Carlo Ventresca cố hiểu thật thấu đáo chuỗi sự kiện đã khiến ngài phải đứng trước ngã rẽ khác thường này.
Hãy dẹp mọi sợ hãi, ngài tự bảo mình. và dâng trọn đêm nay cho Chúa.
Đã trông thấy cánh cửa lớn bằng đồng của nhà nguyện Sistine với bốn lính canh Thuỵ Sĩ đang gác bên ngoài. Những người lính kéo chốt, mở toang cánh cửa. Mọi mái đầu trong phòng đều quay lại. Giáo chủ Thị thần đưa mắt nhìn khắp lượt những chiếc áo chùng đen và khăn choàng đỏ trước mặt mình. Ngài hiểu ra dự định của Chúa đối với bản thân mình. Định mệnh của Giáo hội đang được đặt trọn vào tay ngài.
Giáo chủ Thị thần đưa tay làm dấu rồi bước qua ngưỡng cửa.
--48--
Ngồi trong chiếc xe đưa tin chuyên dụng đang đỗ ở phía Đông quảng trường St. Peter, Gunther Glick, phóng viên của đài BBC, đang thầm nguyền rủa công việc được tổng biên tập giao cho. Mục tổng hợp tin hàng tháng mà anh làm lần đầu đã được ca ngợi hết lời là sắc bén, đáng tin cậy, và rất nhiều thông tin. Ấy thế mà giờ này anh phải ngồi chết dí ở đất Vatican để đợi tin về Giáo hoàng.
Anh tự nhắc mình rằng đưa tin cho đài BBC thì danh giá hơn và không thể nào giống việc ngồi bịa tin vịt cho tờ British Tattler, nhưng kiểu này thì nhất định không thể coi là đưa tin được.
Công việc của Glick cực kỳ đơn giản. Đơn giản đến mức quá đáng. Anh phải ngồi đây mà chờ mấy lão già cóc đế bí mật bầu ra một lão trùm sò cũng già cóc đế. Sau đó anh sẽ đứng trước ống kính máy quay, thực hiện một mẩu tin kéo dài 15 giây, lấy cảnh Vatican làm nền.
Thông minh gớm.
Glick không thể ngờ đài BBC giờ vẫn còn cử phóng viên đến tận nơi để đưa những tin rác rưởi kiểu này. Mấy ông lớn của làng truyền thông Hoa Kỳ đêm nay có thấy mặt mũi đâu. Đời nào họ thèm tới! Mà làm thế là quá đúng. Họ chỉ cần xem đài CNN, tóm lấy những nét chính, rồi cho người đứng nói trước một tấm phông màu xanh, sau đó ghi chồng lên một đoạn phim thật nào đó. MSNBC thậm chí còn có cả thiết bị tạo tiếng gió và mưa trong trường quay để cho những thước phim y như thật. Người xem bây giờ có cần sự thật nữa đâu, họ chỉ cắn giải trí và thư giãn mà thôi.
Glick ngồi nhìn qua cửa kính xe, mỗi lúc một thêm buồn chán. Trước mắt anh, hình khối những toà nhà của Vatican nhô cao trên nền trời như một bằng chứng buồn thảm về những gì bàn tay con người có thể tạo ra nếu họ thực sự quyết tâm.
- Suốt đời mình đã tạo ra được cái gì chưa nhỉ? - Anh chợt nói to ý nghĩ của mình. - Chưa thì phải.
- Thế thì đừng có cố quá nữa. - Một giọng phụ nữ cất lên ngay cạnh anh.
Glick giật nảy người. Anh gần như quên hẳn rằng trong xe còn có một người nữa. Glick quay xuống hàng ghế sau. Chinita Macri, kỹ thuật viên camera đi cùng với anh, đang lặng lẽ ngồi lau kính mắt. Lúc nào cũng thấy chị ta lau kính. Chinita là người da đen, nhưng thích được gọi là người Mỹ gốc Phi, một cách nói đầy oai vệ và bảnh choẹ. Và chị ta không bao giờ cho phép mọi người quên điều đó. Người phụ nữ này khá kỳ cục, nhưng Glick thích thế. Và dĩ nhiên anh phải tận dụng người bạn đồng hành này.
- Có chuyện gì thế hả Gunther? - Chinita hỏi.
- Chúng ta đang làm cái quái gì ở đây thế nhỉ?
Chinita vẫn tiếp tục lau kính:
- Chứng kiến một sự kiện trọng đại.
- Mấy ông già tự giam mình trong phòng tối mà trọng đại à?
- Anh biết là sau khi chết anh sẽ xuống thẳng địa ngục, đúng thế không nào?
- Đang ở đó rồi thì đúng hơn.
- Nói tôi nghe xem nào. - Giọng Chinita sao nghe giống giọng nói của mẹ anh đến thế.
- Tôi muốn bỏ cuộc quá rồi.
- Trước đây anh viết cho tờ à?
- Đúng thế, nhưng chẳng làm được gì tiếng tăm cả.
- Thôi mà, tôi nghe nói anh đã viết một bài cực kỳ xuất sắc về cuộc sống tình dục bí mật của Nữ hoàng với những người hoàn toàn xa lạ.
- Cảm ơn.
- Này, mọi sự đang tốt đẹp dần lên đấy. Tối nay anh sẽ làm nên 15 giây lịch sử của ngành truyền hình.
Glick rên lên. Ngay lúc này anh như đã nghe thấy giọng nói của người dẫn chương trình: "Cảm ơn Gunther, thông tin thật tuyệt - Sau đó người này sẽ đưa mắt nhìn sang hướng khác và chuyển sang bản tin thời tiết. - Có lẽ chúng ta nên chuyển sang mục tiếp theo".
Macri cười phá lên:
- Không cần có chút kinh nghiệm nào à? Lại còn chòm râu kia nữa chứ! Quên chuyện đó đi.
Glick đưa tay lên sờ chòm râu đỏ trên cằm.
- Để thế này trông tôi thông minh sáng láng hơn đấy chứ.
Điện thoại trong xe đổ chuông, vừa đúng lúc để tránh cho Glick một thất bại nữa.
- Có khi là tổng biên tập đấy, - anh nói, lòng chợt tràn đầy hi vọng. - Biết đâu ông ấy định bảo chúng ta về làm tin tại trường quay.
- Về đề tài này ấy à? - Macri cười lớn. - Anh chỉ được cái mơ hão.
Glick trả lời điện thoại với phong thái điềm tĩnh nhất anh có thể nặn ra được:
- Gunther Glick, BBC, đưa tin trực tiếp tại thành phố Vatican.
Từ đầu dây bên kia vang lên giọng đàn ông đặc sệt chất Trung Đông:
- Nghe cho kỹ nhé. - Ông ta nói - Tôi sắp cho anh đổi đời đấy.
