Pháo Đài Số: SỐ 4

http://truyenhiepsi.blogspot.com

Tác giả: Dan Brown


Đây không phải là lần đầu David Becker đi dự tang lễ và chứng kiến xác chết, nhưng lần này có một cái gì đó khiến anh cảm thấy vô cùng khó chịu. Đây không phải là một xác chết được vận bộ đồ sang trọng, sạch sẽ nằm yên nghỉ trong chiếc quan tài bọc lụa. Cơ thể này trần truồng, nằm chềnh ềnh trên chiếc bàn nhôm. Anh ta chết mà không nhắm mắt. Thay vì đó, cặp mắt nhìn thẳng lên sàn nhà lộ vẻ tiếc nuối và kinh hoàng.

- Tư trang của anh ta đâu - Becker hỏi bằng tiếng Tây Ban Nha khá sõi.

- Kia kìa - viên trung uy hé môi trả lời, để lộ ra hàm răng vàng khè. Anh ta chỉ đống quần áo và những tư trang cá nhân khác.

- Tất cả đây sao?

- Đúng thế!

Becker hỏi xin một cái thùng giấy. Viên trung uý vội vã đi tìm.

Đó là tối thứ Bảy, và nhà xác Seville đã sắp tới giờ đóng cửa.

Viên trung uý trẻ được lệnh trực tiếp của giám đốc phòng xác dẫn đường cho Becker - dường như vị khách người Mỹ này là người rất có vai vế.

Becker đưa mắt nhìn đống quần áo. Có một hộ chiếu, một cái ví một cặp kính mắc vào chiếc giầy. Còn có thêm một miếng vải len thô mà người bảo vệ đã lấy từ khách sạn nơi người đàn ông này đã ở.

Becker được hướng dẫn khá rõ ràng, cụ thể: Không sờ vào bất kì cái gì. Không đọc một cái gì. Chỉ mang tất cả chúng về Mỹ. Mọi thứ. Không được để sót một thứ gì.

Becker quan sát đống quần áo, cau mày nhăn nhó. NSA định làm gì với đống rác rưởi này chứ?

Viên trung uý trẻ tuổi mang lại về một chiếc hộp nhỏ, và Becker nhanh chóng nhét quần áo vào trong.

Anh ta chọc vào chân tử thi và hỏi:

- Quienes? Gã này là ai?

- Không biết.

- Trông giống người Trung Quốc.

Người Nhật chứ, Becker nghĩ.

- Tội nghiệp gã. Đau tim à?

Becker gật đầu lơ đãng.

- Tôi thấy họ nói vậy - Viên trung uý thở dài, lắc đầu đầy vẻ cảm thông - Nắng ở Seville rất khắc nghiệt. Ngày mai khi đi ra ngoài, anh hãy cẩn thận nhé!

- Cảm ơn! Nhưng tôi sẽ về nhà luôn.

- Anh vừa mới đến cơ mà - Viên trung uý vô cùng ngạc nhiên.

- Tôi biết, nhưng người đàn ông mua vé máy bay cho tôi đang chờ những vật này.

Viên trung uý dường như thấy bị xúc phạm theo đúng kiểu người Tây Ban Nha.

- Ý anh là anh sẽ không chiêm ngưỡng Seville sao?

- Năm ngoái tôi đã đến đây rồi. Quả là một thành phố xinh đẹp. Tôi rất thích ở lại.

- Vậy anh đã thăm La Girilda chưa?

Becker gật đầu. Thực ra anh chưa bao giờ đặt chân lên toà tháp của người Marốc cổ xưa này, nhưng anh đã nhìn thấy nó.

- Thế còn Alcazar?

Becker vừa gật đầu vừa nhớ lại buổi tối anh được thưởng thức điệu nhạc Flamenco của Pacode Lucia ở sân, dưới ánh sao hiền dịu ở một pháo đài được xây từ thế kỷ XIX. Anh ước giá mà đã gặp Susan từ ngày ấy.

- Và tất nhiên cả Christopher Columbus nữa cũng ở đó! - anh thanh niên tươi cười - Ông ấy được chôn cất tại nhà thờ của chúng tôi.

Becker ngửng lên.

- Thật không? Tôi tưởng người ta lưu giữ thi hài của Columbus ở Cộng hoà Domini chứ?

- Chúa ơi! Đồn nhảm đấy! Thi hài của Columbus hiện đang được lưu giữ ở đây, trên đất nước Tây Ban Nha xinh đẹp này. Tôi tưởng anh nói anh đã đi học đại học.

Becker nhún vai.

- Chắc tôi đã để lỡ giờ giảng đó.

- Nhà thờ Tây Ban Nha rất tự hào được bảo quản thi hài của ông ấy.

Nhà thờ Tây Ban Nha. Berker biết ở Tây Ban Nha chỉ có một kiểu nhà thờ duy nhất - đó là nhà thờ của người theo đạo Thiên chúa giáo La mã. Nhà thờ Thiên chúa giáo La mã ở đây thậm chí còn hùng mạnh hơn cả ở thành phố Vantican.

- Tất nhiên chúng tôi không được vinh dự bảo quản - viên trung uý nói thêm - Chỉ một phần thôi.

Becker ngừng xếp đồ, nhìn chằm chằm viên trung uý. Chỉ một phần thôi sao? Anh cố nhịn cười.

- Chỉ một phần thôi sao?

Người sĩ quan gật đầu đầy vẻ tự hào.

- Vâng. Khi nhà thờ lưu giữ thi hài của một người vĩ đại như thế, họ tấn phong ông là thánh và chia sẻ thi hài đó cho các nhà thờ khác vì vậy mà ai cũng có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp đặc biệt của những nhà thờ này.

- Và ở đây các anh có… - Becker cố nén cười.

- Ô! Đó là một phần rất quan trọng! Không giống như việc chúng tôi có một giẻ xương sườn hay một đốt ngón tay như những nhà thờ khác ở Galicia. Anh nên ở lại đây để chiêm ngưỡng.

Becker gật đầu cho phải phép.

- Có thể trên đường về tôi sẽ ghé qua.

- Tiếc quá - Viên trung uý thở dài. Đến tận bình minh nhà thờ mới mở cửa.

- Thế thì lần khác vậy - Becker mỉm cười, nhấc chiếc hộp lên.

- Có lẽ tôi nên đi. Máy bay đang chờ tôi - Nói xong, anh đưa mắt nhìn căn phòng lần cuối.

- Anh có muốn tôi đưa đến sân bay không? Tôi có xe môtô Guzzi ở ngoài cửa.

- Ồ không cảm ơn. Tôi sẽ đi ta-xi.

Becker đã từng lái xe môtô một lần khi anh còn là sinh viên, và suýt chết. Từ đó trở đi, anh không có ý định đi môtô thêm một lan nào nữa, bất kể do ai cầm lái.

- Cho dù anh nói gì đi chăng nữa - viên trung uý vừa nói vừa bước về phía cửa ra vào - Tôi cũng phải tắt đèn.

Becker vòng tay ôm chiếc thùng giấy. Mình đã có hết mọi thứ chưa nhỉ? Anh nhìn lần cuối vào xác chết đang nằm trên bàn. Dưới ánh đèn huỳnh quang, một thân hình trần như nhộng, không một mảnh vải che thân lồ lộ trước mắt anh. Đôi tay biến dạng đã thu hút ánh mắt của Becker. Anh cúi xuống nhìn nó chằm chằm.

Viên trung uý tắt đèn, căn phòng chìm vào bóng tối.

- Khoan đã!

- Bật đèn lên! - Becker ra lệnh.

Đèn nhấp nháy rồi sáng trở lại.

Becker đặt chiếc hộp xuống sàn và tiến lại gần xác chết. Anh cúi xuống và nhìn không chớp mắt vào cánh tay trái của người đàn ông xấu số.

Viên trung uý nhìn theo Becker, nhận xét:

- Rất xấu, đúng không?

Nhưng cái mà Becker chú ý đến không phải là việc cánh tay bị biến dạng. Anh đã phát hiện ra một thứ khác. Quay sang viên trung uý, anh nói:

- Có chắc là mọi thứ đều ở trong hộp chứ?

Người trung uý gật đầu.

- Vâng. Đúng thế.

Becker chống tay vào hông. Một lát sau anh nhặt chiếc hộp lên, mang nó quay lại, và đặt phịch xuống đất. Rất cẩn thận anh giũ tung đống quần áo ra. Sau đó anh dốc ngược đôi giày xuống rồi bóp nó như thể là đang cố gắng vất bỏ một hòn sỏi trong giầy ra.

Sau khi làm xong lần thứ hai, anh bước lại chỗ viên trung uý, cau mày:

- Có chuyện gì chăng?

- Đúng thế - Becker nói.

- Chúng ta đã để sót một thứ gì đó…

-----

Tokugen Numataka đang ở văn phòng sang trọng của mình trên tầng cao nhất của một toà nhà chọc trời ở Tokyo. Tất cả nhân viên và đối thủ cạnh tranh đều biết rõ ông ta, một sakuta same - một con cá mập nguy hiểm. Trong vòng ba thập kỷ qua, ông ta luôn vượt trội so với tất cả các đối thủ cạnh tranh ở Nhật Bản; và bây giờ sắp trở thành một người khổng lồ trên thị trường thế giới.

Ông ta đang hoàn tất cuộc làm ăn lớn nhất trong đời - một cuộc làm ăn có thể tạo dựng tương lai cho Tập đoàn Numatech trở thành một Microsoft của tương lai. Mạch máu của ông sôi lên như có thuốc kích thích. Thương trường là chiến trường - Và chiến trường thì luôn sôi động.

Mặc dù ba hôm trước, Tokugen Numataka nghi ngờ về cuộc gọi đó, nhưng hôm nay ông biết đó chính là sự thật. Tự dưng ông ta được món hời trên trời rơi xuống. Chúa đã chọn ông ta.

o O o

- Tôi có một phiên bản chìa khoá giải mã của Pháo Đài Số - Một giọng Mỹ - Ông có muốn mua không?

Numataka suýt bật cười thành tiếng. Ông ta biết đó là một âm mưu. Tập đoàn Numatech đã bỏ ra một khoản tiền khồng lồ để có được thuật toán mới của Ensei Tankado, và bây giờ một đối thủ cạnh tranh với Numatech đang giở trò, hòng biết được số tiền mà Numatech trả cho cuộc đấu giá này.

- Anh có chìa khoá giải mã - Numataka giả vờ quan tâm.

- Tôi có. Tôi là North Dakota.

Numataka nén cười. Ai mà chẳng biết North Dakota. Tankado đã nhiều lần tiết lộ với cánh báo chí về một cộng sự bí mật.

Tankado quả là rất khôn ngoan khi có một người cộng sự, bởi vì ngay cả ở Nhật Bản, giới kinh doanh cũng sẵn sàng giở đủ mọi trò đê tiện. Ensei Tankado không thể an toàn. Chỉ cần một hành động thái quá của một hãng phần mềm đang khao khát có chìa khoá giải mã, ngay lập tức nó sẽ được công khai, và không một hãng phần mềm nào trên thế giới không bị tổn thất.

Numataka hít một hơi thuốc xì gà Umani và định chơi xỏ lại.

- Anh đang muốn bán chiếc chìa khoá giải mã? Thú vị đây. Thế Ensei Tankado có ý kiến gì không?

- Lòng trung thành của tôi không dành cho ngài Tankado. Ông ấy thật là ngốc vì đã tin tưởng tôi. Chiếc chìa khoá giải mã này đáng giá gấp hàng trăm lần cái giá mà tôi được trả để giữ nó cho ông ta.

- Tôi rất tiếc - Numataka nói - Chỉ riêng chiếc chìa khoá giải mã của anh thì chẳng có nghĩa lý gì với tôi. Khi phát hiện ra hành động của anh, Tankado chỉ việc công bố phiên bản mà anh ta giữ, và nó sẽ tràn ngập trên thị trường.

- Ông sẽ nhận được cả hai chiếc - giọng nói đầu dây bên kia lên tiếng - Của Tankado và cả của tôi..

Numataka bịt ống nghe và cười phá lên. Ông ta không thể không hỏi:

- Anh muốn bao nhiêu cho cả hai chiếc chìa khoá?

- Hai mươi triệu đôla Mỹ.

Hai mươi triệu đôla Mỹ. Gần bằng cái giá mà Numataka đã đưa ra trong cuộc đấu giá.

- Hai mươi triệu? - Ông ta giả vờ thở kinh ngạc - Điên rồ!"

- Tôi đã trông thấy thuật toán đó. Tôi cá là nó đáng giá như thế.

Mẹ kiếp, Numataka nghĩ. Nó đáng giá gấp mười lần số tiền đó ấy chứ.

- Nhưng thật không may - Ông ta nói giọng mệt mỏi vì trò đùa này - Cả tôi và anh cùng biết là ngài Tankado sẽ không bao giờ tán thành việc này. Hãy nghĩ đến những hậu quả nếu vụ việc này được đưa ra pháp luật.

Người gọi ngập ngừng:

- Thế nếu ngài Tankado không còn sống nữa?

Numataka suýt cười phá lên, nhưng lại gật đầu đầy quyết đoán:

- Nếu Tankado không còn sống nữa - Numataka suy nghĩ - Thì tôi và anh sẽ có một cuộc mua bán.

- Tôi sẽ liên lạc lại! - giọng nói lên tiếng, rồi máy bị cúp.







HƯƠNG 15 -

Becker cúi nhìn xác chết. Thậm chí nhiều giờ sau khi chết, gương mặt của một người châu Á này vẫn hằn các vệt hồng hồng do bị cháy nắng. Các phần khác đều tái nhợt, xám xịt, trử một phần vết thâm tím trên ngực anh ta.

Có lẽ là CPR (phương pháp hồi sức cho tim), Becker ngẫm nghĩ. Đáng tiếc là không có tác dụng.

Anh lại tiếp tục nghiên cứu đôi bàn tay tử thi. Lần đầu tiên anh gặp đôi bàn tay thế này. Mỗi bàn tay chỉ gồm ba ngón xẹo và vặn xoắn. Tuy nhiên, sự dị dạng này không phải là cái mà Becker để mắt tới.

- Hừm, tôi sẽ… - Tử góc bên kia vườn, viên trung uý làu bàu - Anh ta là người Nhật đấy, không phải người Trung Quốc đâu.

Becker ngẩng đầu lên. Anh ta đang cầm hộ chiếu của người đã chết.

- Tốt hơn là anh không nên xem nó - Becker yêu cầu. Đừng, đừng đọc bất cứ thử gì.

- Ensei Tankado… sinh tháng Một…

- Làm ơn đi mà - Becker lịch sự nói - Hãy để nó lại chỗ cũ.

Viên sĩ quan nhìn chằm chằm vào quyển hộ chiếu một hồi rồi ném nó về đống quần áo.

- Gã này có chiếc visa loại 3. Anh ta có lẽ đã ở đây hàng năm trời rồi.

Becker lấy bút chọc vào tay nạn nhân.

- Có thể anh ta đã sống ở đây.

- Không. Tuần trước anh ta mới đến đây.

- Có thể anh ta đang chuẩn bị chuyến đến đây - Becker sẵng giọng.

- Vâng, có thể lắm. Tuần đầu bận rộn nên say nắng rồi đau tim. Khổ thật.

Becker phớt lờ lời nói của viên sĩ quan và quan sát kỹ bàn tay.

- Anh có cho rằng anh ta đã không đeo bất kì một loại trang sức nào khi chết không?

Viên sĩ quan ngấng đầu thảng thốt.

- Trang sức ư?

- Đúng thế. Hãy nhìn đây!

Viên sĩ quan tiến lại gần.

Da tay trái của Tankado chứng tỏ rằng anh ta đã bị cháy nắng, mọi chỗ trừ một vòng thịt nhỏ quanh ngón út.

Becker chỉ vào vòng thịt tái nhợt.

- Hãy nhìn này. Tại sao chỗ này không bị cháy nắng? Có vẻ như là anh ta đã đeo một chiếc nhẫn.

Viên sĩ quan tỏ vẻ vô cùng ngạc nhiên.

- Một chiếc nhẫn ư? - Đột nhiên anh ta lúng tứng. Sau một hồi nghiên cứu ngón tay của tử thi, anh ta thẽ thọt thốt lên - Lạy Chúa! Câu chuyện này có thật sao?

Becker đột nhiên thấy rất nôn nao.

- Anh vừa nói cái gì?

Viên sĩ quan lắc đầu.

- Lẽ ra tôi phải nói từ trước… nhưng tôi tưởng gã đó chỉ là một gã gàn gàn dở dở.

- Gã nào - Becker nghiêm mặt.

- Gã đã gọi điện trong trường hợp rất khẩn cấp. Một khách du lịch người Canada nào đó. Luôn mồm nhắc đến chiếc nhẫn. Lão nói tiếng Tây Ban Nha dở kinh khủng.

- Ông ta nói rằng ngài Tankado có đeo một chiếc nhẫn?

Viên trung uý gật đầu, lôi từ túi áo ra một điếu Ducado, nhìn thấy biển cấm hút thuốc lá, anh ta do dự rồi cuối cùng vẫn châm lửa.

- Lẽ ra tôi nên nói một điều gì đó, nhưng thằng cha đó điên rồ không chịu được.

Becker nhăn mặt. Những lời nói của Strathmore vang vọng trong tai anh: "Tôi muốn tất cả mọi thứ Ensei Tankado mang theo bên mình. Tất cả. Không để sót bất kì một cái gì, thậm chí là một mẩu giấy thừa bé tẹo".

- Chiếc nhẫn bây giờ ở đâu? - Becker hỏi.

Viên sĩ quan thả một hơi thuốc:

- Đó là một câu chuyện dài.

Có một điều gì đó mách bảo Becker rằng đây không phải là một tin tốt lành.

- Dù gì anh cũng phải kể cho tôi.

-----

Susan Fletcher ngồi trước máy ở Node 3. Node 3 là một phòng kín, cách âm, khuất sau tầng một, nơi các nhân viên mật mã làm việc. Một lớp kính dày hai inch với một mặt cong cho phép các nhân viên mật mã có được bức tranh toàn cảnh đại sảng trung tâm Crypto, đồng thời ngăn không cho ai nhìn từ ngoài vào trong phòng.

Ở phía cuối Node 3 đặt mười hai chiếc máy vi tính được đặt quây thành hình tròn. Mục đích là để khuyến khích các nhân viên mật mã trao đối ý kiến, và để nhắc rằng họ là một phần của một êkíp lớn - giống như là các hiệp sĩ giải mã ngồi Bàn Tròn.

Vậy mà, mỉa mai thay, ngay trong Node3 vẫn có những điều được coi là bí mật.

Được mệnh danh là cái cũi. Node 3 không giống với tất cả các phòng khác của Crypto, được thiết kế để đem lại cảm giác khoan khoái giống như ở nhà, những chiếc thảm trải nhà sang trọng, hệ thống âm thanh công nghệ cao, chiếc tủ lạnh chất đầy đồ ăn, thức uống, một gian bếp nhỏ, sân bóng rổ Nerf. Lãnh đạo NSA am hiểu rất tường tận về Crypto, đừng có bao giờ đổ vài tỷ đô la vào một chiếc máy vi tính giải mã nếu không dụ được những người thông minh nhất trong những người thông minh theo dõi và sử dụng nó.

Nhón chân trên đôi giày Salvatore Ferragamo đế bằng, Susan rón rén đặt chân lên những tấm thảm dày cộp để bước ra ngoài.

Nhưng viên chức nhà nước được hưởng lương cao đều được khuyến khích không nên khoa trương sự giàu có của mình. Điều này chẳng bao giờ làm Susan phải bận tâm - cô luôn cảm thấy hài lòng với căn hộ nhỏ bé, chiếc ô tô hiệu Volvo và chiếc tủ quần áo khiêm nhường. Nhưng giày dép lại là một vấn đề khác. Thậm chí hồi còn là sinh viên, cô sẵn sàng mua những đôi đắt nhất chỉ đơn giản chỉ vì cô thích chúng.

Chân đau thì chẳng thế mơ leo lên được đến trời, dì cô đã từng nói thế. Và một khi đã đến được nơi cần đễn, chúng ta thực sự được mãn nguyện.

Susan cho phép mình nghỉ một lúc rồi lại lao vào công việc. Cô tìm phần mềm dò tìm và chuẩn bị định dạng nó, mắt liếc nhìn địa chỉ e-mail mà Strathmore đã đưa.

NDAKOTA@ARA.ANON.ORG

Người đàn ông tự xưng là North Dakota có một địa chỉ thư điện tử nặc danh, nhưng Susan chắc chắn nó sẽ nhanh chóng không còn là nặc danh nữa. Phần mềm dò tìm sẽ xâm nhập vào ARA, gửi đến North Dakota, rồi sau đó sẽ gửi lại những thông tin liên quan đến địa chỉ Internet thật của anh ta.

Nếu như mọi thứ suôn sẻ, phần mềm sẽ nhanh chóng xác định được vị trí của North Dakota, và Strathmore sẽ có thể lấy được chìa khoá giải mã. Khi David tìm ra phiên bản của Tankado thì cả hai chiếc chìa khoá có thể sẽ đều bị phá huỷ, quả bom hẹn giờ của Tankado sẽ trở nên vô dụng như một khối thuốc nổ không có ngòi.

Susan kiểm tra hai lần địa chỉ hiện ra trước mặt cô và nhập thông tin vào phần kiểm tra dữ liệu đúng. Cô thích thú cười thầm khi thấy Strathmore không thể tự gửi phần mềm dò tìm này được.

Rõ ràng là ông ta đã gửi đi hai lần, nhưng cả hai lần đều nhận được địa chỉ e-mail của Tankado chứ không phải của North Dakota. Đó là một sai lầm rất dễ hiểu; có thể Strathmore đã thay đổi trường dữ liệu, vì vậy phần mềm dò tìm đã tìm không đúng account cần tìm.

Susan nhập xong thông tin một lát thì chiếc máy vi tính kêu lên một tiếng bíp.

PHẦN MÊM DÒ TÌM ĐÃ ĐƯỢC GỬI.

Bây giờ thì chỉ việc ngồi chờ.

Susan bỗng nhiên thở dài, cô thấy có lỗi vì đã phản ứng quá mạnh đối với chỉ huy của mình. Nếu có một ai đó đủ năng lực để một mình giải quyết vấn đề, thì người đó không thể là ai khác ngoài Trevor Strathmore. Ông thực sự là một thiên tài trong việc thu phục những người thách thức mình.

Sáu tháng trước, khi EFF khui ra vụ một tàu ngầm mà NSA dùng để cài máy nghe trộm vào hệ thống đường dây điện thoại dưới nước, Strathmore đã khôn ngoan tung thông tin rằng chiếc tàu ngầm đó thực ra đang chở chất thải độc hại phi pháp. Ngay lập tức, EFF và các nhà bảo vệ đại dương đã mất nhiều thời gian tranh luận xem thông tin nào là đúng đến nỗi cuối cùng các phương tiện thông tin đại chúng trở nên mệt mỏi và bỏ qua toàn bộ vụ việc. Trước bất kỳ hành động nào, Strathmore đều lên kế hoạch kĩ lưỡng, tỉ mỉ.

Cũng giống những nhân viên khác của NSA, Strathmore đã sử dụng một phần mềm do NSA xây dựng, được gọi là BrainStorm- một phần mềm chương trình máy tính có khả năng nêu ra tất cả các khả năng diễn biến của sự việc nhằm bảo mật sự tồn tại của TRASTLR.

BrainStorm là tên một thử nghiệm tình báo nhân tạo mà các tác giả của nó đã dựa trên nguyên lý nhân quả. Lúc đầu nó được chế tạo để phục vụ cho các cuộc vận động chính trị như là một phương pháp tạo ra các mô hình xử lý thông tin trong "một môi trường chính trị cụ thể". Được nạp một khối lượng dữ liệu khổng lồ, chương trình này đã tạo ra một môi trường ảo - một mô hình giả thuyết về sự tương tác giữa các biến cố chính trị, bao gồm các nhân vật chính trị lỗi lạc, nhân viên của họ, những mối quan hệ cá nhân với nhau, những vấn đề nóng bỏng, những động cơ cá nhân được tính toán dựa trên những tiêu chí khác nhau như giới tính, tính cách, sắc tộc, tiền bạc và quyền lực. Sau đó người sử dụng có thể nhập một sự kiện mang tính giả thuyết vào và BrainStorm sẽ dự đoán những ảnh hưởng của sự kiện đó đối với môi trường này.

Là một thiết bị TFM (Time-Line, Flowchart, Mapping) nó là một công cụ hữu ích để vạch ra những chiễn lược phức tạp và dự đoán những điểm yếu của chiến lược đó. Và đó chính là lý do tại sao chỉ huy Strathmore thường xuyên sử dụng BrainStorm. Susan cho rằng bên trong máy tính của Strathmore có thể có những kế hoạch có khả năng làm biến đổi cả thế giới.

Mình đã không phải với ông ấy, Susan tự nhủ.

Tiếng mở cửa Node 3 làm cô giật mình.

Strathmore thình lình xuất hiện.

- Susan! David vừa gọi điện về. Đã có một manh mối.

XEM TIEP CHUONG http://truyenhiepsi.blogspot.com

Blog Truyện Hiệp Sĩ

truyenhiepsi

Truyện được sưu tầm chia sẻ trên các web miễn phí...

Tìm Kiếm Truyện

Theo dõi blog!

Nhận bài viết mới qua email. Chỉ cần nhập địa chỉ email của bạn dưới đây nếu bạn muốn đăng ký!