KHOẢNG TRỐNG: Số 7

http://truyenhiepsi.blogspot.com

 J. K. Rowling


III

Lúc bắt đầu tiết học thứ hai sau giờ ăn trưa, Stuart Wall “Fats” chuồn ra khỏi trường. Vụ trốn học này có kế hoạch hẳn hoi: từ đêm trước nó đã định cúp hai tiết tin học cuối giờ chiều. Thật ra thì chuồn giờ nào cũng được, nhưng tình cờ thằng bồ ruột Andrew Price (mà Fats gọi là Arf) không cùng lớp với nó trong giờ vi tính, mà Fats có cố cách mấy cũng không làm sao bị đẩy xuống lớp dưới mà học chung với bạn được.

Có lẽ khi chơi với nhau hai thằng đều biết thừa Andrew thần tượng Fats như điếu đổ. Nhưng chính Fats lại thấy nó cần Andrew hơn là ngược lại. Gần đây Fats bắt đầu thấy sự dựa dẫm này có vẻ yếu đuối sao đó, nhưng nó lại lý luận rằng dù không phải vì Andrew thì nó vẫn sẽ cúp hai tiết đó thôi.

Từ một nguồn đáng tin cậy, Fats biết một lối an toàn chuồn ra khỏi khu Winterdown mà không bị ai nhìn thấy từ cửa sổ, đó là bức tường cạnh nhà giữ xe đạp. Thế là nó trèo qua, nhẹ nhàng bám tường tụt xuống bên kia. Nó tiếp đất ngon lành, sải chân đi theo con đường hẹp rồi rẽ trái ra đường chính bụi bặm và nhộn nhịp.

Cảm thấy an toàn, thằng bé châm điếu thuốc rồi tiếp tục đi qua mấy cửa hiệu nhỏ tồi tàn. Qua khỏi năm khối nhà, Fats lại rẽ trái vào con đường đầu tiên vào địa phận khu Fields. Nó nới lỏng nút cà vạt nhưng không tháo hẳn ra, không thèm để ý chuyện dễ bị nhận ra là học sinh cúp học. Fats chẳng bao giờ buồn thêm thắt gì vào đồng phục cho “chất”, kiểu gắn thêm huy hiệu này kia lên ve áo hay chỉnh nút thắt cà vạt cho ra vẻ sành điệu hơn, nó đơn giản tròng đồng phục như kiểu tù nhân coi khinh áo tù.

Cứ theo Fats thấy thì 99% sai lầm của con người phát sinh từ sự hổ thẹn về chính bản thân mình, thế rồi cứ ra sức dối trá để trở thành kiểu người khác hẳn. Sự trung thực là tài sản, vũ khí lẫn hàng rào phòng vệ của Fats. Người ta sợ và sốc khi ta trung thực. Fats phát hiện ra những người khác lúc nào cũng vờ vĩnh và hổ thẹn nên luôn sợ bị lật tẩy. Còn Fats lại bị cuốn hút bởi những gì trần trụi nguyên sơ, những thứ tuy không đẹp đẽ bóng bẩy nhưng trung thực, những thứ dung tục thường làm những người như cha nó thấy nhục nhã và kinh tởm. Fats bỏ công nghiền ngẫm về những vị cứu tinh lẫn những kẻ bị gạt ra lề xã hội; những người bị gắn nhãn điên rồ hay tội lỗi; những con người cao quý lạc điệu bị đám đông mê ngủ tránh xa.

Thật khó, mà cũng thật vinh quang nếu bạn có thể sống đúng với bản chất con người mình, ngay cả khi bản chất ấy là độc ác hay nguy hiểm, mà nhất là khi bản chất ấy là độc ác hay nguy hiểm. Phải can đảm lắm mới không tự mình kinh tởm cái con vật tình cờ nằm trong bản chất chính mình. Mặt khác, còn phải gắng không vờ vịt mình là thứ gì đó khá khẩm hơn con thú trong bản chất ấy: vì nếu cứ đi theo đường ấy rồi đâm ra khoa trương giả dối, cuối cùng sẽ trở thành một ông “Thầy Tủ” khác, giả dối như thế, đạo đức giả như thế. Xác thực và không xác thực là hai từ thường xuất hiện trong đầu Fats; đối với nó, hai khái niệm đó có ý nghĩa cực kỳ rõ ràng tách bạch khi áp dụng cho chính mình lẫn cho những người khác.

Fats tự cho rằng mình có những phẩm chất đích thực cần chú ý bồi đắp thêm nhưng vẫn còn vài nếp suy nghĩ không xác thực vốn là sản phẩm phi tự nhiên sinh ra từ nền giáo dục tệ hại mà nó tiếp nhận, do đó phải loại trừ. Về sau, Fats thử hành động theo những động cơ nó cho là xác thực và gắng phớt lờ hay đè nén cảm giác tội lỗi và lo sợ (không xác thực) mà những hành động kiểu thế đem lại. Rõ ràng kiểu ứng xử này càng rèn luyện nhiều thì càng dễ vận dụng. Nó muốn rèn cho nội tâm mình trơ rắn, không dễ gì tổn thương và không còn sợ bất kỳ hậu quả nào nữa, như vậy nó không còn bị ràng buộc bởi những ý niệm giả dối về cái tốt và cái xấu nữa.

Sự gắn bó với thằng bạn Andrew bắt đầu làm Fats bứt rứt vì đôi khi lúc bên bạn, cái tôi đích thực của nó không bộc lộ ra hết được. Đâu đó trong con người Andrew ẩn chứa những yếu tố thúc đẩy người ta “chơi đẹp”; hơn nữa dạo gần đây, Fats từng bắt gặp cái nhìn khó chịu, bối rối lẫn thất vọng trên gương mặt thằng bạn chí cốt, dù nó gắng che đậy vụng về. Andrew không thích mấy trò trêu chọc hay nhạo báng ai thái quá. Fats cũng không lấy thế làm khó chịu, vì Andrew sẽ hóa ra giả tạo nếu gắng tham gia dù không hẳn muốn, vấn đề là ở chỗ Andrew tỏ ra nghiêng theo cái kiểu đạo đức mà Fats đang càng ngày càng quyết tâm chống lại. Nó cân nhắc chuyện cắt đứt hẳn với Andrew, đó có vẻ là hành động đúng đắn và lạnh lùng để đạt tới sự xác thực hoàn hảo; nhưng mặt khác nó vẫn thích cặp kè với Andrew hơn bất kỳ đứa nào khác.

Fats tin mình tự hiểu bản thân rất rõ; nó khám phá từng ngóc ngách tinh thần với sự tập trung cao độ mà gần đây, nó đã thôi không còn dành cho bất kỳ sự việc nào khác. Nó ngồi hàng giờ nối kết những động cơ, sự mong muốn lẫn nỗi e sợ nội tại, gắng phân tích đâu là cái nó thực sự cảm thấy và đâu là cảm xúc do dạy dỗ mà có. Nó tự xem xét những mối liên hệ gắn bó với mình (chắc chắn trong số những người nó biết không ai từng thành thực đến vậy với chính mình, bọn họ đều đi qua cuộc đời mình một cách phó mặc và lơ mơ): rồi đi đến kết luận rằng Andrew, thằng bạn quen từ khi lên năm, là người nó thấy quý mến nhất; và rằng cho dù giờ nó đã đủ lớn để hiểu mẹ, Fats vẫn giữ mối gắn bó với bà, và thế cũng không có gì sai; và nó khinh ghét thầy “Tủ”, điển hình tối cao của sự không xác thực.

Trên trang Facebook mà Fats bỏ công chăm chút hơn bất kỳ thứ gì khác, nó tô đậm đoạn trích dẫn tìm được trong kệ sách của bố mẹ.

Ta không cần tín đồ, ta nghĩ mình quá hiểm độc đến không tin nổi chính mình... ta kinh sợ cái ngày nào đó được phong thánh... ta không muốn thành thánh, thà làm thằng hề còn hơn... có lẽ ta chính là một gã hề...

Andrew rất thích đoạn này, còn Fats khoái vì thằng bạn tỏ ra ấn tượng đến thế.

Vài giây lúc đi ngang qua nhà cá cược, Fats thoáng nghĩ tới cái chết của Barry Fairbrother, bạn thân của ông bố. Trong ba bước sải ngang qua áp phích cuộc đua ngựa dán sau tấm kính bám bụi của nhà ấy, trong đầu Fats hiện lên gương mặt râu ria của Barry đang kể chuyện cười, lão Tủ thì phá ra cười sùng sục trước cả khi Barry kể xong câu chuyện cười nhạt nhẽo, cái cười đơn giản vì khoái sự hiện diện của ông ta khi đó. Nó không đào sâu những ký ức đó thêm nữa; không cật vấn mình về nguồn cơn nỗi ngần ngại bản năng; nó cũng không tự hỏi liệu người đàn ông đã chết kia trung thực hay giả tạo; gạt bỏ ý nghĩ về Barry Fairbrother và vẻ đau khổ lố bịch của ông bố rồi đi tiếp.

Mấy hôm nay, Fats rơi vào tâm trạng buồn chán kỳ lạ, dù nó vẫn làm bạn bè cười lăn như thường lệ. Hành trình vứt bỏ dần những khuôn thước đạo đức là cuộc tìm kiếm thứ gì đó đã tắt trong nó, thứ Fats đã đánh mất khi qua thời ấu thơ. Cái Fats muốn tìm là một dạng thức tinh khôi, mà lối đi đến đó phải xuyên qua nhiều thứ vốn được mặc định là “có hại”, nhưng đối với nó lại là con đường đích thực để vươn tới sự trung thực, sự thuần khiết. Mọi thứ được người khác răn dạy đã đổi trắng thay đen nhiều tới chóng mặt, đến nỗi Fats đồ rằng cứ làm ngược hẳn những lời khuyên dạy khôn ngoan bị nhồi vào đầu thì sẽ lần tới được sự thật. Nó mong muốn được lao vào cái mê cung tối đen đó và vật lộn với mọi thứ xa lạ lẩn trốn bên trong; muốn đập vỡ cái vỏ sùng đạo và lột trần vẻ đạo đức giả; thèm được phá tan những cấm kỵ rồi ép lấy giọt khôn ngoan từ những trái tim đẫm máu của họ; nó khao khát đạt tới sự khoan dung vượt trên luân lý, và lại được tắm mình trong sự bất tri và đơn giản.

Thế là Fats quyết tâm vi phạm thêm một điều trong mớ quy định ít ỏi của nhà trường mà nó chưa phạm phải, rồi đi thẳng vào khu Fields. Không chỉ vì ở chốn này nhịp đập trần trụi của thực tế gần gũi hơn bất kỳ nơi nào khác nó biết, mà còn vì Fats mong gặp được vài kẻ xấu xa nào đó nó vẫn hằng muốn tìm hiểu, và dù không tự thừa nhận, Fats tới đây còn vì nỗi khao khát hiếm hoi không lời: nó tìm một cánh cửa mở, một sự nhìn nhận từ đầu, một sự chào đón về mái ấm nó thậm chí không biết là mình có.

Đi bộ ngắm những căn nhà trát vữa quét sơn thay vì nhìn ra từ cửa sổ xe hơi của mẹ, Fats nhận thấy nhiều nhà không hề có hình graffiti hay rác vụn, và thậm chí một số còn (dưới con mắt của nó) học theo cái vẻ hào hoa của các dinh thự tại Pagford với những tấm rèm tuyn và đồ trang trí đặt trên bậu cửa sổ. Khi nhìn từ trên xe, những chi tiết này không nổi bật vì ánh mắt Fats bị hút vào những cánh cửa sổ đóng ván và bãi cỏ đầy rác rưởi. Fats chẳng thú gì mấy căn nhà tươm tất đó. Thứ lôi cuốn nó tới đây là những biểu hiện lồ lộ của của sự lộn xộn và thiếu kỉ cương, dù đó chỉ là mớ hình vẽ bằng sơn xịt tầm thường.

Dane Tully sống đâu đó gần đây (nó không biết chắc nơi nào). Gia đình Tully cực kỳ khét tiếng. Hai anh trai và ông bố tối ngày xộ khám. Nghe nói lần gần nhất Dane đánh nhau (với một gã mười chín tuổi, nghe đồn từ khu Cantermill), cha hắn đã cùng hắn tới chỗ hẹn rồi ở đó phụ Dane nện đám anh trai của đối thủ. Khi trở lại trường, mặt mày thằng Tully rách nát, môi sưng vều, mắt bầm đen. Ai cũng bảo nó đeo cái bộ dạng bất thường đó chẳng qua để khoe mẽ chiến tích.

Fats chắc mẩm mình sẽ hành xử khác hẳn. Để ý tới chuyện người ta nghĩ gì về bộ mặt dập nát của mình là chỉ là trò không xác thực. Fats khoái cứ đánh nhau, rồi thì trở lại nhịp sống bình thường, nếu có ai biết được vụ đó thì chẳng qua do họ tình cờ bắt gặp mà thôi.

Fats chưa bao giờ bị nện, dù càng ngày nó càng tỏ ra khiêu khích. Dạo này, Fats hay tự hỏi lúc vào cuộc đánh nhau thì cảm giác ra sao. Nó đồ là cái tình trạng trung thực mà nó mong đạt tới phải bao gồm bạo lực trong đó, hay ít ra là không ngăn chặn bạo lực. Đối với Fats, tâm thái sẵn sàng đánh nhau hay nghênh chiến cũng là một kiểu dũng cảm cần đạt tới. Nó chưa bao giờ phải viện tới nắm đấm, dùng ba tấc lưỡi đã đủ rồi, nhưng giờ Fats lại đâm ra khinh ghét cái tài miệng lưỡi của chính mình và quay sang sùng mộ hành động bạo tàn trung thực. Nó thận trọng hơn khi tính tới chuyện kiếm “hàng lạnh” lận lưng. Nếu giờ mà kiếm con dao rồi phô phang đây đó thì cũng chỉ là trò mèo thảm hại giả tạo học theo thằng Dane Tully, Fats nghĩ tới đã sởn da gà. Nếu có lúc nào đó thực sự cần thủ dao, nó chắc chắn không làm kiểu thế. Fats không loại trừ khả năng chuyện đó xảy ra, nhưng cũng phải thầm thừa nhận là viễn cảnh ấy khá đáng sợ. Fats sợ những món đồ nhọn có để đâm xé thịt như dao hay kim. Nó là đứa duy nhất ngất xỉu trong đợt trường Thánh Thomas tổ chức cho học sinh tiêm ngừa viêm màng não. Muốn làm Fats mất bình tĩnh, mà chuyện này cực khó, thằng Andrew chỉ cần vung vẩy ống chích thuốc dị ứng quanh người nó, Andrew lúc nào cũng phải kè kè cái ống tiêm bơm sẵn adrenalin này bên người vì dị ứng nặng với lạc. Cứ thấy Andrew ve vẩy ống tiêm hay vờ chọc nó vào người mình là Fats muốn phát bệnh.

Tha thẩn một lúc, Fats chợt để ý bản tên đường Foley. Krystal Weedon sống ở phố này. Hôm nay không chắc cô nàng có đi học không, nhưng chắc chắn nó không muốn bị nghĩ mình cố tình tới đây tìm con bé.

Hai đứa đã hẹn gặp nhau vào tối thứ Sáu. Hôm ấy Fats sẽ xin bố mẹ sang nhà Andrew để cùng làm bài luận môn tiếng Anh. Krystal có vẻ rành rẽ chuyện sắp làm, còn có vẻ mong ngóng nữa. Tới bây giờ thì con bé đã cho phép Fats đưa hai ngón tay vào chỗ nhạy cảm của mình; thằng này cũng cởi được móc áo ngực, và được phép để tay lên bộ ngực phổng phao ấm áp ấy. Trong buổi khiêu vũ hồi Giáng Sinh, nó đã cố ý tán tỉnh cô nàng, dẫn Krystal ra khỏi sảnh trước cái nhìn đầy hoài nghi của Andrew lẫn mấy đứa khác rồi quành luôn vào phòng kịch. Cô nàng có vẻ cũng khá bất ngờ, nhưng đúng như nó dự kiến và mong đợi, chẳng phản kháng gì mấy khi vào trận. Fats chọn Krystal là có chủ đích; thậm chí đã chuẩn bị sẵn những câu trả miếng thật cay phòng khi có đứa nào dám chế nhạo vụ này.

- Nếu thích khoai chiên thì việc đếch gì phải vào quầy xà lách.

Nó đã nghĩ sẵn lối lập luận kiểu đấy, nhưng cuối cùng cũng huỵch toẹt ra.

- Thì tụi mày cứ việc tự sướng đi, còn tao khoái chơi tay đôi.

Câu này làm mấy thằng kia hết dám cười. Fats dám chắc kể cả Andrew cũng phải nuốt vào bụng câu chế nhạo về cách chơi của nó, chúng khâm phục vì Fats dám tỉnh bơ theo đuổi mục tiêu có thực duy nhất. Rõ ràng Fats đã chọn cách thức trực tiếp nhất để nắm lấy thứ nó muốn, không đứa nào dám cãi trước cái sự thật đã xảy ra đó, và Fats dám cá thằng nào thằng nấy đều đang dằn vặt tự hỏi sao không đủ can đảm mà thử cách đó để cũng được như thế.

- Giúp đây một việc nhé, và đừng nói với mẹ đây, được không? - Fats thì thầm vào tai Krystal khi hai khuôn miệng ướt át nóng hổi tạm buông nhau ra để thở, trong lúc đó ngón tay nó liên tục rờ rẫm ngực cô nàng.

Cô nàng chỉ cười thầm rồi hôn nó nồng nhiệt hơn. Krystal không hỏi vì sao mình được chọn, mà thực ra cũng chẳng thắc mắc gì cả; có vẻ như hai đứa cũng giống nhau, thích thú trước phản ứng của những người khác và lấy làm tự hào trước con mắt bối rối của đám người quan sát, dù bị mấy đứa bạn Fats ngấm ngầm khinh ghét. Fats và Krystal hầu như không nói gì nữa trong suốt ba lần hì hụi tiếp sau đó. Cả ba lần, Fats đều là người bắt đầu nhưng cô nàng lúc nào cũng sẵn sàng đáp ứng, xoay trở nâng mình cho thằng này dễ loay hoay. Tối thứ sáu là lần đầu tiên hai đứa gặp mà có hẹn trước. Fats mua sẵn cả bao cao su.

Có vẻ vụ cúp học rồi cuốc bộ đến tận khu Fields cuối cùng cũng đáng đồng tiền bát gạo, dù trước khi bắt gặp bảng tên đường, Fats không hề nghĩ tí gì đến Krystal (nhưng lúc nào cũng mơ tới bộ ngực sớm phì nhiêu và đường hầm hớ hênh tuyệt vời đó).

Fats quay người đi ngược lại, châm điếu thuốc mới. Không hiểu sao khi nhìn tên đường Foley, nó thấy mình có mặt ở đây lúc này có gì đó không đúng. Hôm nay khu Fields có vẻ nhạt nhẽo và khó dò, thứ nó tìm kiếm và hi vọng sẽ nhận ra khi bắt gặp dường như đang giấu mình đâu đó. Nó đi ngược trở lại trường.


IV

Không ai trong số họ trả lời điện thoại. Khi trở về văn phòng của đội Bảo Vệ Trẻ Em, Kay bấm hàng loạt số điện thoại trong gần hai giờ liền, để lại lời nhắn yêu cầu gọi lại: nào là y tá cộng đồng của nhà Weedon, bác sĩ gia đình, nhà trẻ Cantermill và trung tâm cai nghiện Bellchapel. Trước mặt cô là hồ sơ Terri Weedon để mở, bèo nhèo chồng đống.

- Lại chơi thuốc, phải không? - Alex cất tiếng hỏi, chị ngồi chung phòng làm việc với Kay. - Lần này thể nào đằng Bellchapel cũng xúc chị ta ra ngoài cho rảnh nợ. Chị ta lúc nào cũng bảo sợ thằng Robbie bị đưa đi, thế mà đâu có nhịn nổi.

- Đây là lần thứ ba chị ta vào Bellchapel rồi đấy. - Una chêm vào.

Sau những gì mắt thấy tai nghe, chiều hôm đó Kay quyết định đã tới lúc đánh giá lại ca này, như vậy phải tập hợp hết các chuyên gia có liên đới trách nhiệm với Terri Weedon. Cô liên tục ấn nút quay số lại trong khi tranh thủ làm mấy việc khác, chiếc điện thoại của họ đặt trong góc văn phòng réo liên tục rồi tự động kêu đánh cách chuyển qua chế độ trả lời tự động. Văn phòng bộ phận Bảo Vệ Trẻ Em chật ních và lộn xộn, bốc mùi sữa thiu vì Alex và Una có thói quen đổ tách cà phê thừa vào chậu cây ngọc giá ủ rũ trong góc.

Mấy ghi chép gần đây của Mattie nguệch ngoạc không ra hàng lối gì, gạch xóa lung tung, ngày tháng sai lệch và không hoàn chỉnh. Nhiều tài liệu quan trọng không có trong hồ sơ, tỉ như lá thư trung tâm cai nghiện gửi tới hai tuần trước. Hỏi thẳng Alex và Una còn nhanh hơn.

- Lần đánh giá trước là… - Alex nhăn mày nhìn chậu ngọc giá. - hơn một năm trước, tôi nghĩ thế.

- Rõ ra lúc đó họ nghĩ Robbie ở với chị ta sẽ OK. - Kay nói, nghiêng đầu kẹp ống nghe vào vai trong lúc lục lọi mớ giấy tờ của lần đánh giá trước trong bìa hồ sơ căng phồng.

- Lần đó không phải xét xem thằng bé có được ở với chị ta hay không, mà là có nên trả nó về với mẹ hay không. Thằng bé được giao cho người khác nuôi dưỡng vì Terri bị khách làng chơi đánh phải nhập viện. Được ra viện một cái là chị ta lồng lộn đòi lại thằng Robbie. Chị ta tham gia lại chương trình cai nghiện của Bellchapel, thôi chơi thuốc và cũng cố gắng ra trò. Mẹ chị ta hứa sẽ giúp một tay. Thế là chị ta đón được thằng bé về nhà, và chỉ vài tháng sau lại tiếp tục bắn thuốc.

- Nhưng người hứa giúp đỡ đâu phải mẹ của Terri, phải không? - Kay hỏi, đầu cô bắt đầu phát nhức vì gắng đọc cho ra những con chữ xộc xệch to cộ của Mattie. - Đó là bà nội chị ta, nghĩa là bà cố thằng bé. Vậy chắc bà cụ có tới, nhưng sáng nay Terri bảo bà bị ốm sao đó. Vậy bây giờ nếu chỉ có mình Terri chăm sóc thằng bé…

- Đứa con gái lớn mười sáu tuổi rồi, - Una nói. - chủ yếu là nó chăm em nó đấy.

- Thế thì cô bé này chăm trẻ không giỏi lắm đâu. - Kay nhận xét. - Sáng nay khi tôi đến thăm thằng bé nom khá tệ.

Cô đã từng thấy những trường hợp còn tệ hại hơn nhiều: những lằn roi, vết lở loét, vết thương, vết đốt, những chỗ bầm tím, ghẻ lở, chấy rận; trẻ chưa dứt sữa lê la trên thảm đầy phân chó, bò lê vì xương gãy, có lần cô còn chứng kiến (và giờ hãy còn mơ thấy cảnh đó) một đứa bị gã cha dượng tâm thần nhốt năm ngày liền trong tủ chạn. Vụ đó có lên bản tin đài quốc gia. Với Robbie thì mối đe dọa trực tiếp nhất chính là đống thùng nặng trong phòng khách, thằng bé cứ gắng trèo lên đó khi thấy làm thế được Kay chú ý. Trước khi về, Kay đã cẩn thận san đống thùng thành hai chồng thấp hơn. Terri không ưa cô làm thế, cũng không thích nghe Kay dặn dò phải thay cái tã ướt sũng cho thằng cu. Cô ta mất kiên nhẫn, văng tục và đâm cáu tuy còn hơi say thuốc, quát bảo Kay cút xéo và đừng có léo hánh tới nữa.

Di động của Kay réo lên. Người phụ trách cai nghiện chính cho Terri gọi tới.

- Tôi tìm cô suốt mấy hôm nay. - Giọng phụ nữ nghe gắt gỏng. Mãi một lúc sau bà ta mới nghe thủng rằng Kay không phải Mattie, nhưng chuyện đó chẳng khiến bà đỡ cáu là bao.

- Phải, chúng tôi vẫn đang theo dõi chị ta, nhưng mới tuần trước kết quả xét nghiệm vẫn là dương tính. Chị ta mà chơi thuốc một lần nữa thôi là lên đường. Bên này còn hai chục người đang xếp hàng chờ thế chân chị ta để được vào chương trình cai nghiện đây, chắc mấy người đó biết tận dụng cơ hội hơn. Chị ta cai lần này là tới lần thứ ba rồi.

Kay không đả động đến chuyện cô biết Terri sáng nay vừa chơi thuốc xong.

- Các chị có ai còn paracetamol không? - Kay hỏi Alex và Una sau khi nghe bà tư vấn cai nghiện tuôn ra cả tràng về chuyện Terri hay vắng mặt và chả có tiến triển gì, rồi dập máy.

Kay chiêu mấy viên thuốc với trà âm ấm, cô chẳng còn sức đứng dậy đi đến máy nước lạnh đặt ở ngoài hành lang. Căn phòng ngột ngạt, quạt tản nhiệt quay vù vù bên trên. Khi ánh sáng mặt trời bên ngoài mờ dần, nguồn sáng từ bóng đèn tuýp trên bàn làm việc của cô nổi hẳn lên, nhuộm giấy tờ trên bàn ngả sang màu vàng nhàn nhạt, những dòng chữ đen lít nhít tưởng như dài bất tận.

- Họ sắp đóng cửa Trung tâm Bellchapel rồi, cô cứ chờ mà xem. - Una nói, cô đang ngồi làm việc trên máy tính, đâu lưng với Kay. - Phải cắt giảm ngân sách mà. Hội đồng chỉ chi tiền cho một nhân viên tư vấn cai nghiện. Hội đồng Pagford sở hữu tòa nhà. Tôi nghe nói họ đang định tút tát lại chút đỉnh rồi cho mối nào béo bở hơn thuê. Họ dành tòa nhà làm trung tâm cai nghiện nhiều năm rồi còn gì.

Thái dương Kay đập thùm thụp. Địa danh mới được nhắc tới làm cô buồn lòng. Vừa mải nghĩ, cô vừa làm cái việc từng thề là không làm sau khi anh ta không gọi cô tối hôm trước: Cô cầm di động lên bấm số văn phòng Gavin.

- Công ty Edward Collins và Cộng Sự nghe đây ạ, - Một giọng nữ trả lời sau ba hồi chuông. Doanh nghiệp tư nhân lúc nào cũng trả lời máy nhanh nhẹn thế, lợi nhuận phụ thuộc vào đó mà.

- Vui lòng cho tôi nói chuyện với anh Gavin Hughes. - Kay nói, nhìn chằm chằm xuống hồ sơ của Terri.

- Xin hỏi ai đầu dây đấy ạ?

- Kay Bawden. - Kay đáp.

Cô không nhìn lên, tránh bắt gặp cái nhìn của Alex hay Una. Thời gian chờ đợi dường như dài vô tận.

(Hai người họ gặp nhau ở tiệc sinh nhật anh trai Gavin tại London. Kay không quen ai ở đó trừ người bạn kéo cô đi chung cho có hội. Gavin khi đó vừa chia tay với Lisa, anh ta đã ngà ngà, nhưng trông vẫn đàng hoàng, đáng tin cậy, khác hẳn kiểu đàn ông Kay thường qua lại. Anh trút bầu tâm sự vụ chia tay rồi cùng về căn hộ của cô trên đường Hackney. Khi hai người còn ở xa nhau anh ta rất nhiệt tình, cứ cuối tuần lại lên thăm và gọi điện cho cô thường xuyên; thế nhưng, khi cô may mắn tìm được việc ở Yarvil dù lương thấp hơn rồi rao bán căn hộ ở Hackney, thì anh ta lại có vẻ rụt vòi….)

- Máy anh ấy đang bận, chị có muốn chờ máy không ạ?

- Vâng, có. - Kay khổ sở đáp.

(Nếu chuyện giữa cô và Gavin không đi tới đâu... Nhưng họ phải ổn. Cô đã dời nhà vì anh, đổi việc vì anh, thậm chí khiến con gái rời nơi chôn rau cắt rốn cũng vì anh. Chắc hẳn anh không thể nào để cô làm thế nếu không có ý định nghiêm túc, phải không? Hẳn anh phải cân nhắc mọi hậu quả khi họ chia tay, khi đó suốt ngày chạm mặt nhau trong thị trấn Pagford bé tí này hẳn cũng ngại ngần chứ?)

- Đường dây thông rồi ạ. - Người thư ký báo, Kay lại phập phồng hi vọng.

- Chào em. - Gavin nói. - Em sao rồi?

- Em khỏe. - Kay nói dối, vì Alex và Una đang nghe được. - Hôm nay anh suôn sẻ chứ?

- Bận tối mặt. - Gavin đáp. - Còn em?

- Cũng vậy.

Cô im lặng đợi, áp chặt điện thoại vào tai, vờ như anh đang nói với cô, vờ nghe thinh lặng.

- Thế, tối nay anh có muốn mình gặp nhau không? - Cuối cùng cô đành khổ sở hỏi.

- Ờ... chắc không được rồi. - Anh ta đáp.

Sao anh lại không chắc? Anh bận cái gì?

- Anh có việc phải làm... vụ bà Mary, vợ ông Barry ấy. Bà ấy muốn anh làm người hộ tang. Thế nên anh phải... Chắc anh phải tìm hiểu xem hộ tang thì phải làm những việc gì, đại loại thế.

Đôi khi, nếu cô không đáp mà cứ im lặng thế, mặc cho cái lý do chẳng đâu vào đâu của anh ta tự bốc hơi, thì chính anh ta sẽ đâm ra xấu hổ và chịu nhân nhượng.

- Mà chắc việc ấy cũng không mất cả buổi tối đâu. - Anh ta nói. - Xong việc mình có thể gặp nhau, nếu em muốn.

- Vâng, được. Anh có muốn sang nhà em không, mai vẫn phải đi làm mà?

- À, ờ... cũng được.

- Mấy giờ, anh? - Cô gặng, ép anh ta phải ra quyết định ít nhất về một chuyện.

- Anh không chắc... độ chín giờ hơn nhỉ?

Sau khi anh ta cúp máy, Kay còn áp chặt ống nghe vào tai một lúc nữa rồi cố ý nói cho Alex và Una nghe: “Em cũng thế. Gặp sau nhé anh yêu.”

V

Vì làm giáo viên tư vấn định hướng nên giờ giấc của Tessa thất thường hơn chồng. Cô thường đợi đến hết buổi để lái chiếc Nissan đón luôn cậu con trai về nhà, còn ông chồng Colin (Tessa không bao giờ gọi chồng là ông “Tủ”, dù cô biết mọi người đều gọi ông thế, kể cả các phụ huynh cũng nhiễm cách gọi của con mình) thì lái chiếc Toyota về sau độ một, hai giờ gì đó. Nhưng hôm nay Colin ra bãi giữ xe cùng về với Tessa lúc bốn giờ hai mươi, lúc đám học trò hãy còn chen chúc đổ ra cổng chính rồi lên xe hơi bố mẹ hay xe buýt đưa đón miễn phí.

Bầu trời màu xám sắt lạnh lẽo như mặt dưới tấm khiên úp chụp. Làn gió sắc lạnh tung diềm những tấm váy và làm những chiếc lá non rung xào xạc; kiểu gió hiểm độc buốt cóng xoáy vào gáy và phía sau đầu gối, những điểm yếu nhất trên cơ thể; nó làm người ta thậm chí không được hưởng cái thú mộng mơ chút đỉnh để tạm xa rời thực tế. Lúc vào xe dập cửa rồi mà Tessa vẫn còn bực bội, cứ như vừa có ai đâm sầm vào cô mà không nói lời xin lỗi.

Vừa co đầu gối cho vừa chỗ ngồi chật hẹp cạnh ghế lái, Colin vừa kể cho Tessa nghe chuyện thầy vi tính vừa báo cáo hai mươi phút trước

-... không có đó. Suốt hai tiết liền không ló mặt vào. Tay ấy bảo thấy nên gặp anh để báo trực tiếp. Thể nào ngày mai vụ này cũng lan khắp phòng giáo viên cho xem. Đúng ý hắn mà. - Colin bực bội tuôn một tràng rồi tiếp luôn, nhưng giờ Tessa biết không phải chuyện về ông thầy vi tính nữa. - Nó lại chĩa hai ngón tay thối vào tôi như mấy lần trước.

Chồng cô mệt tái cả người, cặp mắt đỏ của ông hằn quầng thâm, đôi bàn tay đặt trên quai cặp hơi giần giật. Tay ông khá đẹp, khớp ngón lớn, những ngón tay thuôn dài, không khác mấy bàn tay cậu con trai. Gần đây Tessa có chỉ ra điểm giống nhau này cho chồng và con thấy, nhưng hai bố con đều chẳng mảy may quan tâm gì tới nét giống nhau đó.

- Em nghĩ con nó không... - Tessa bắt đầu, nhưng Colin đã lại mở máy.

- Thế, cho nên nó sẽ bị cấm túc như mấy đứa khác, ở nhà tôi cũng sẽ trị nó tới nơi tới chốn. Cho nó biết mùi, nghe không? Xem nó còn dám nhăn nhở nữa thôi. Đầu tiên cứ cấm túc nó một tuần cái đã, cứ chờ mà xem.

Tessa nuốt luôn câu đối đáp dang dở, nhìn ra đám học sinh mặc quần áo đen đang so vai chúi đầu bước vội, vừa khép chặt thêm chiếc áo khoác mỏng, tóc bị gió thổi cả vào miệng. Một đứa lớp đầu cấp má phúng phính, ngơ ngác ngóng người nhà chưa thấy đến. Đám học sinh chợt tẽ ra, Fats nhún nhảy bước tới, bên cạnh là Arf Price như thường lệ, gió thổi tóc lõa xõa xuống gương mặt gầy gò. Đôi lúc, từ góc nhìn và ánh sáng thế nào đó, trông Fats như một ông già. Trong cơn rã rời, Tessa thoáng thấy thằng bé hoàn toàn xa lạ, không hiểu sao nó lại đi về phía xe mình nhỉ, và làm sao mình phải trở ra giữa cái lạnh cắt da cắt thịt đó để mở cửa cho nó chứ. Vậy mà khi thằng bé tiến đến hơi nhoẻn miệng cười với mẹ, nó lập tức trở lại thành đứa con cưng cô yêu thương bất kể chuyện gì. Cô xuống xe, nhẫn nại chịu đựng làn gió buốt cắt da trong khi thằng bé chui vào xe cùng cha, ông này chẳng buồn nhúc nhích mảy may.

Xe de khỏi bãi đỗ, vượt mấy chiếc xe buýt miễn phí cho học sinh, chạy xuyên Yarvil, qua mấy dãy nhà xấu xí xập xệ của khu Fields rồi rẽ vào đường vòng, tăng tốc về Pagford. Tessa quan sát Fats qua kính chiếu hậu. Thằng bé ngồi lún trong ghế sau vơ vẩn liếc ra ngoài cửa sổ, như thể hai bậc phụ huynh ngồi trước chỉ là hai người xa lạ tình cờ cho nó đi nhờ.

Colin đợi đến khi xe rẽ vào đường vòng mới hỏi - Mày đi đâu trong giờ vi tính chiều nay hả?

Tessa không nhịn được lại liếc vào gương. Thằng nhỏ đang ngáp. Dù không bao giờ thừa nhận chuyện này với Colin, nhưng có lúc cô thấy Fats thật sự đang “đấu” riêng với ông bố trước khán giả là tất cả mọi người trong trường. Cô biết nhiều chuyện về con vì trong giờ tư vấn, học sinh kể với cô mấy chuyện đó một cách ngây thơ hay ranh mãnh.

Cô ơi, Fats hút thuốc cô có bực không? Ở nhà cô có cho nó hút không?

Cô vùi kín cái tin tình cờ nghe được này, chẳng hề hé răng với chồng hay con trai dù nó khiến lòng cô trĩu nặng.

- Đi dạo, - Fats đáp tỉnh khô. - cho duỗi cặp cẳng già một chút.

Colin xoay phắt lại trên ghế, rướn người kéo căng cả dây an toàn ra mà gào, chân tay vướng vít với cái cặp và áo khoác. Khi mất bình tĩnh, giọng ông cứ vống lên nghe như hét bằng giọng nam cao. Trong suốt thời gian đó, Fats vẫn ngồi im cười khẩy, kệ ông bố gào thét chửi rủa, mấy câu chửi cũng không tới nỗi thô tục lắm vì Colin vốn không ưa chửi bậy, ông biết tự kìm chế khi buộc phải nói năng như thế.

- Cái đồ vênh váo láo toét... chết dầm mày đi. - Ông hét, mắt Tessa ầng ậng nước, con đường trước mặt cô nhòe nhoẹt, cô biết thằng con sẽ còn làm cái giọng chửi the thé cao vống của Colin tăng âm gấp đôi vì vụ Andrew Price sáng mai.

Fats bắt chước dáng đi của thầy Tủ giống tuyệt cú mèo, cô có thấy nó làm chưa?

- Sao mày dám nói năng với bố mày như vậy hả? Sao mày dám cúp tiết hả?

Colin nổi khùng tiếp tục quát tháo, Tessa phải chớp mi cho nước mắt rơi ra khi ngoặt về hướng Pagford, xuyên ngang quảng trường, băng qua cửa hàng Mollison và Lowe, đài tưởng niệm chiến tranh và tiệm rượu Black Canon; cô rẽ trái ngay nhà thờ Thánh Michael và Các Thánh vào phố Church Row, cuối cùng cũng tấp được vào nhà. Lúc này, giọng gào của Colin đã hóa khàn khàn, còn gò má của Tessa đã đẫm nước mắt mặn chát. Khi ra khỏi xe, thái độ Fats chẳng mảy may thay đổi sau cơn lôi đình của ông bố, nó thản nhiên tự mở khóa cửa bước vào rồi ung dung bỏ lên lầu không buồn ngoảnh lại.

Colin ném chiếc cặp vào hành lang tối om rồi quay lại nhìn Tessa. Nguồn sáng duy nhất từ ô kính màu phía trên cửa trước hắt màu kỳ dị nửa đỏ nửa xanh lên mái đầu bắt đầu hói đang rung rung kích động của Colin.

- Cô thấy chưa? - Ông vung tay quát. - Thấy tôi phải chịu đựng cái thứ ôn dịch gì chưa?

- Có. - Cô đáp, rút một nắm khăn giấy trong hộp đặt trên bàn ngoài hành lang lau mặt và xỉ mũi. - Em thấy rồi.

- Nó chẳng hề để tâm một tí nào bố mẹ nó đang gặp chuyện gì nữa - Colin bắt đầu nấc khan nghẹn ngào, như đứa trẻ bị viêm họng. Tessa vội đi tới, vòng hai tay quanh người Colin, quãng trên eo một chút, vốn lùn và mập mạp nên cô chỉ ôm được đến chỗ ấy. Ông khom người ôm chặt lấy cô; qua lần áo khoác, cô cảm thấy người ông run rẩy và lồng ngực phập phồng.

Vài phút sau, cô nhẹ nhàng đẩy ông ra, đưa ông vào bếp rồi pha một bình trà mới.

- Em định mang ít thịt hầm sang nhà chị Mary. - Tessa vừa nói vừa vuốt ve bàn tay chồng khi cả hai đã ngồi với nhau đươc một lúc. - Một nửa gia đình chị ấy đang ở đó rồi. Khi nào em về mình đi ngủ sớm nhé.

Ông gật đầu, khịt mũi, cô khẽ hôn vào đầu ông trước khi bước ra tủ lạnh. Lúc cô quay lại với cái đĩa lạnh toát nặng trĩu, ông vẫn ngồi nguyên bên bàn, hai tay ôm chặt lấy cốc trà, mắt nhắm nghiền.

Tessa để món thịt hầm bọc trong túi nhựa xuống bậu cạnh cửa chính, khoác cái áo len xanh mà cô hay mặc thay áo khoác nhưng không mang giày. Cô nhón chân trần lên chỗ đầu cầu thang rồi bước nặng chân hơn qua tầng hai lên gác mái.

Có con gì như chuột chạy lướt qua khi cô đến trước cửa. Cô gõ gõ cửa cho Fats đủ thời gian tắt món gì đó đang xem trên mạng, mà cũng có thể là điếu thuốc lá mà nó không ngờ cô biết.

- Sao ạ?

Cô đẩy cửa. Cậu con trai đang vờ vĩnh cúi mình trên cái cặp đi học.

- Hết lúc rồi hay sao mà con chọn đúng ngày hôm nay cúp học hả?

Fats đứng thẳng dậy, người lẻo khoẻo, nó cao vượt hẳn bà mẹ.

- Con có đi học. Chỉ vào trễ chút thôi, tại ông thầy Bennett không để ý. Đúng là vô tích sự.

- Stuart, trời ơi. Làm ơn thôi đi.

Có khi cô cũng muốn quát vào mặt đám trẻ mình tư vấn ở trường. Cô muốn gào to lên. Các em phải chấp nhận bản chất của người khác nữa chứ. Các em tưởng điều đó có thể cò kè, dàn xếp, phán sao thì người ta tin vậy hay sao. Các em phải biết là chúng ta cũng như các em vậy, các em phải hiểu mình đâu phải là ông Trời.

- Bố con đang rất buồn, Stu. Vì chuyện bác Barry. Con có hiểu được không?

- Có. - Fats đáp.

- Ý mẹ là, con cũng sẽ cảm thấy thế nếu giả sử Arf sắp chết.

Fats không đáp, cũng không tỏ vẻ gì, nhưng cô cảm nhận được sự khinh miệt đầy khoái trá của nó.

- Mẹ biết con nghĩ, con với Arf khác hẳn loại người như cha con và bác Barry...

- Không phải thế. - Fats đáp, nhưng cô biết nó nói thế chỉ để mau kết thúc cuộc nói chuyện.

- Mẹ sẽ đem ít đồ ăn sang nhà cô Mary. Xin con đấy, Stuart, đừng có làm bố con bực lúc mẹ vắng nhà đấy. Nhé con, Stu.

- Vâng. - Nó nhún vai, cười cười đáp. Cô biết dù mình chưa bước hẳn ra ngoài, thằng nhỏ đã nghĩ sang chuyện riêng và chẳng buồn để ý gì đến cô nữa.





XEM TIEP CHUONG http://truyenhiepsi.blogspot.com

Blog Truyện Hiệp Sĩ

truyenhiepsi

Truyện được sưu tầm chia sẻ trên các web miễn phí...

Tìm Kiếm Truyện

Theo dõi blog!

Nhận bài viết mới qua email. Chỉ cần nhập địa chỉ email của bạn dưới đây nếu bạn muốn đăng ký!