J. K. Rowling
VIII
Sáu giờ ba mươi tối, Howard và Shirley Mollison cùng bước vào sảnh nhà thờ Pagford. Shirley ôm một xấp lớn giấy tờ còn Howard mang chuỗi vòng cổ trang trí huy hiệu hai màu trắng xanh của Pagford.
Ván sàn cót két oằn mình dưới sức nặng của Howard khi lão đi thẳng tới chỗ mấy tấm bàn xước xát đã được kê nối vào nhau. Howard thích sảnh đường này chẳng kém mấy cửa tiệm của mình. Đội nữ hướng đạo dùng sảnh vào thứ ba, thứ tư là ngày cho Tổ chức phụ nữ [1]. Đây cũng là nơi tổ chức bán hàng từ thiện và lễ Đại Xá, nơi tổ chức đám cưới lẫn lễ canh thức người quá cố. Nó lưu dấu mùi vị của tất cả những sự kiện đó: mùi quần áo cũ, mùi café, bánh nướng nhà làm, salad thịt nguội, mùi bụi bặm, mùi thân người, nhưng rõ nhất là mùi gỗ và đá lâu năm.
[1] Women’s Institute: Tổ chức tình nguyện tại Anh dành cho phụ nữ, giúp phụ nữa học được những kĩ năng mới và tiếp cận cơ hội giáo dục – chú thích của người dịch.
Shirley lăng xăng lượn lên lượn xuống bày sẵn tài liệu ra bàn. Bà ta rất mê họp hành. Đương nhiên vì bà phồng mũi thích thú được thấy ông chồng chủ trì cả hội, nhưng hơn nữa vì Maureen không có vai trò gì nên không được bén mảng vào đây, thế là bà ta đành bằng lòng nghe những chuyện Shirley chịu rỉ cho.
Mấy ủy viên cánh hẩu với Howard lục tục kéo tới. Ông này oang oang chào hỏi váng cả phòng. Thường hiếm khi nào cuộc họp có đủ mười sáu thành viên, như hôm nay ông ta phỏng chừng cũng chỉ được độ mười hai người.
Aubrey Fawley xuất hiện lúc nửa bàn đã kín chỗ. Ông cui cúi bước vào, trông dáng như người đang cố tiến tới trong cơn gió ngược.
- Aubrey. - Howard phấn khởi la to, tới khi vị khách đặc biệt này xuất hiện lão mới chịu đích thân ra đón. - Khỏe không ông bạn? Julia thế nào? Có nhận được thiếp mời của tôi không đấy?
- Xin lỗi, tôi không...
- Sinh nhật sáu nhăm của tôi đấy mà! Ngay đây nhá, thứ Bảy, ngay sau ngày bầu cử ấy.
- À, vâng vâng. Howard, ngoài kia có một cô đang chờ, nói là bên tạp chí Yarvil và District Gazette. Tên Alison thì phải?
- Thế à, lạ nhỉ? - Howard hỏi lại. - Tôi mới gửi cô ấy bài báo mà, ông biết đấy, đáp lại bài của Fairbrother... Chắc có việc, để tôi đi xem thử.
Lão lo lắng lạch bạch đi ra cửa, vừa khéo gặp Parminder Jawanda tiến vào. Bà này vẫn càu cạu như mọi khi và đi lướt qua luôn không chào hỏi, và duy nhất lần này Howard cũng không buồn chào.
Trên vỉa hè bên ngoài, một phụ nữ tóc vàng còn trẻ, người bè bè cục mịch đang đứng chờ. Cô ta toát ra cái vẻ tươi cười xơn xớt, Howard nhận ra ngay, vốn chính lão cũng luôn khoác cái vẻ ấy hàng ngày. Cô ta đứng ôm cuốn sổ, săm soi nhìn mấy chữ cái đầu họ tên nhà Sweetlove khắc trên hai cánh cửa.
- Xin chào xin chào! - Howard hào hển lên tiếng. - Cô Alison phải không? Tôi là Howard Mollison. Cô bỏ công đi tới tận đây để bảo tôi là tôi viết chẳng ra gì phải không?
Cô ta vội nhành mồm cười đáp lễ, nắm lấy bàn tay Howard chìa ra.
- Đâu có, đâu có, chúng tôi thích lắm. - Cô trấn an lão. - Tôi nghĩ chuyện này càng ngày càng trở nên được nhiều người quan tâm nên muốn đến dự cuộc họp hội đồng, ông không phiền chứ ạ? Báo chí được vào mà phải không ạ. Tôi có xem qua các quy định cả rồi.
Cô ta vừa nói vừa bước luôn về phía cửa.
- Phải phải, báo chí được dự, - Howard núng nính bước theo, lịch sự dừng trước cửa nhường cô này đi trước. - miễn là không phải lúc chúng tôi phải bàn những vấn đề không công khai rộng rãi, chính thế.
Cô liếc nhìn lão, trong ánh sáng lờ mờ lão vẫn thấy rõ cô đang cười.
- Như mấy lời cáo buộc nặc danh đăng trên bảng tin của quý vị phải không? Của Hồn ma Barry Fairbrother đấy?
- Kìa cô bạn thân mến! - Howard khò khè cười lại. - Mấy bài đó đâu có đáng gì mà nhắc tới, phải không? Một hai câu bình luận ngớ ngẩn trên mạng thôi mà?
- Một hai câu thôi sao? Tôi nghe nói có vô khối kia, chỉ có điều là đã được xóa hết thôi.
- Đâu có đâu có, chắc ai nghe nhầm rồi, - Howard đáp. - chỉ hai ba mẩu ngắn thôi, theo tôi biết là thế. Vớ vẩn tuốt. Thật ra tôi nghĩ, - Lão cố biến báo. - đứa nhóc nào nghịch dại đó thôi.
- Đứa nhóc à?
- Ờ thì cô biết đấy, bọn choai choai phá cho vui ấy mà.
- Lẽ nào mấy cô cậu tuổi ấy lại đi công kích ủy viên hội đồng khu? - Cô ta vẫn cười. - Tôi lại nghe là có người bị nhắc tới xong là mất việc luôn đấy. Chắc cũng do bài báo trên website của ông.
- Tôi mới biết đấy. - Howard nói dối. Hôm qua Shirley gặp Ruth ở bệnh viện và khi về đã rỉ cho lão tin này.
- Tôi xem trong lịch thấy hôm nay mọi người định bàn về trung tâm Bellchapel. - Alison nói lúc hai người bước vào sảnh đường sáng trưng. - Cả ông lẫn ông Fairbrother quá cố đều có những lập luận rất thuyết phục... Sau khi đăng bài ông Fairbrother, chúng tôi nhận được kha khá thư gửi về đấy. Biên tập của chúng tôi thích lắm. Sao cũng được, miễn là kích được người ta chịu viết thư...
- Ờ, tôi có được đọc qua, - Howard đáp. - xem ra chẳng ai nói tốt được cho cái trung tâm đó, hả?
Các ủy viên tại bàn đều quay lại nhìn họ. Alison Jenkins bình tĩnh giữ nguyên vẻ tươi cười nhìn lại.
- Để tôi kiếm cho cô cái ghế. - Howard phì phò nhấc ra một cái từ chồng ghế gần đó rồi đặt xuống cách bàn độ bốn thước.
- Cảm ơn ông. - Cô ta tự động kéo xịch ghế lại gần bàn hai thước.
- Thưa quý vị, - Howard giới thiệu. - tối nay cuộc họp chúng ta có sự tham dự của báo giới nhé. Đây là cô Alison Jenkins của tờ Yarvil và District Gazette.
Vài người tỏ ra thích thú, nhưng đa số chỉ liếc nhìn đầy nghi ngờ. Howard quay lại vị trí đầu bàn, Shirley và Aubrey đều đang thắc mắc nhìn lão.
- Hồn ma Barry Fairbrother - Lão hạ giọng nói lúc rón rén đặt mông xuống cái ghế nhựa (cách đây hai cuộc họp, một chiếc từng gãy sụm suống dưới sức nặng của lão). - và Bellchapel. Tony kia rồi! - Đột nhiên lão đổi giọng la to làm Aubrey giật nảy người. - lại đây Tony... ta chờ Herry với Sheila thêm vài phút nhá?
Hôm nay tiếng rì rầm trò chuyện khẽ hơn mọi khi. Alison Jenkins chưa gì đã bắt đầu ghi chép lia lịa vào sổ. Howard bực dọc nghĩ đây là tại thằng cha Fairbrother chết tiệt! Chính hắn khi trước mời nhà báo tới dự họp chứ ai. Howard thoáng nghĩ Barry sống hay Barry-Ma cũng hệt như nhau, toàn gây chuyện rắc rối.
Parminder cũng mang cả chồng tài liệu tới cuộc họp như Shirley. Bà đặt tờ chương trình họp lên trên chồng tài liệu vờ đọc để đỡ phải chuyện trò với ai. Đầu óc bà thực sự đang hướng về người phụ nữ ngồi ngay sau lưng mình. Chính tờ Yarvil và District Gazette đã đăng bài về vụ đột quỵ của bà Catherine Weedon và khiếu nại của gia đình về bác sĩ điều trị. Báo không đăng rõ tên Parminder nhưng chắc chắn người viết biết danh tính bác sĩ đó. Có khi Alison cũng dính líu tới bài đăng nặc danh về Parminder trên website hội đồng cũng nên.
Thôi bình tĩnh đi, mình lại thành ra giống Colin mất rồi.
Howard đã đứng dậy đọc lời xin phép không tham dự cuộc họp của các thành viên vắng mặt rồi yêu cầu hội đồng xem lại biên bản cuộc họp lần trước, Parminder hầu như không nghe được lão nói gì, mạch máu đập thùm thụp trong tai bà.
- Giờ nếu không ai phản đối, - Howard tuyên bố. - ta sẽ bàn về mục tám và chín trước vì ủy viên hội đồng quận Fawley cần trình bày về hai mục này, mà ông lại không nán lại lâu được...
- Chỉ đến tám rưỡi thôi. - Aubrey vừa nói vừa liếc nhìn đồng hồ.
- Vâng, thế nếu không ai phản đối... không có nhỉ? Xin mời ông, Aubrey.
Aubrey trình bày vấn đề một cách giản dị, khách quan, sắp có đợt xét lại ranh giới hành chính, lần đầu tiên có ý kiến cho rằng Pargord nên chuyển lại khu Fields cho Yarvil. Khi đó Yarvil phải gánh một phần chi phí không bao nhiêu dùm cho Pagford, đổi lại Yarvil sẽ được một số cử tri tự do bầu cho Đảng khác ngoài chính phủ hiện tại, những phiếu này có thể làm nên chuyện với Yarvil nhưng chỉ lãng phí ở Pagford, vì từ thập niên 50, thị trấn này luôn là khu vực bầu cử an toàn đối với đảng Bảo Thủ. Toàn bộ tiến trình này sẽ diễn ra đơn giản và suôn sẻ dưới lập luận vỏ bọc là Yarvil chi tiền cho hầu hết các dịch vụ của khu Fields vì khu này là một phần của nó.
Aubrey kết luận, nếu Pagford muốn cắt bỏ khu đất khỏi địa giới của mình, thì nên bày tỏ mong muốn làm thế vì lợi ích của hội đồng quận.
- … cần một thông điệp rõ ràng, thuyết phục từ quý vị - Ông nói. - tôi thực sự tin rằng lần này...
- Trước nay có ăn thua gì đâu. - Một chủ trại ngắt lời giữa tiếng rì rầm tán đồng.
- Nhưng mà đã khi nào ta được mời trình bày quan điểm của mình về vụ này đâu John. - Howard đáp.
- Thế thì ta nên xác định cho rõ quan điểm của hội đồng là gì đã rồi hãy tuyên bố công khai thì hơn, phải không? - Parminder lên tiếng, giọng lạnh như nước đá.
- Được rồi, - Howard ôn tồn đáp. - thế chị phát biểu trước nhé, bác sĩ Jawanda?
-Tôi không biết có quý vị nào ở đây đã đọc bài viết của Barry trên tờ Gazette chưa? - Parminder bắt đầu. Trước mọi ánh mắt đang đổ về mình, bà cố gạt khỏi đầu ý nghĩ xoay quanh bài đăng nặc danh về mình hay cô phóng viên đang ngồi sau lưng. - Tôi nghĩ những luận điểm trong bài về việc giữ khu Fields thuộc về Pagford rất xác đáng.
Parminder nhìn Shirley, bà này tuy cúi mặt ghi chép nhưng vẫn không giấu nổi nụ cười rất nhẹ.
- Chứng minh bằng cách nói về lợi ích cho những người như con bé Krystal Weedon ấy hả? - Betty, một phụ nữ lớn tuổi ngồi cuối bàn lên tiếng. Parminder ghét cay ghét đắng bà này.
- Bằng cách nhắc cho chúng ta nhớ những người sống ở khu Fields cũng là một phần của cộng đồng này. - Bà đáp.
- Họ lúc nào cũng nghĩ mình chuyển từ Yarvil tới mà, - Ông chủ trại nói. - trước nay vẫn thế.
- Tôi còn nhớ - Betty chen vào. - con bé Krystal đó từng xô một đứa nhỏ lọt xuống sông.
- Không đúng - Parminder giận dữ nói. - lúc đó con gái tôi cũng có mặt, là đo hai thằng bé đánh nhau... nhưng dù sao...
- Tôi thì lại nghe là do Krystal Weedon làm. - Betty khăng khăng.
- Bà nghe nhầm rồi. - Parminder đột nhiên hét lớn.
Cả bàn sững sờ. Chính bà cũng sựng lại. Tiếng hét dội khắp sảnh đường cũ kĩ. Parminder nghẹn cứng họng, bà cúi đầu nhìn chằm chằm tờ chương trình họp trước mặt, tiếng John văng vẳng như từ đâu xa lắm.
- Đúng ra Barry tự minh họa bằng chuyện của mình thì thuyết phục hơn con bé đó nhiều. Ông ta có được nhiều thư từ trường Thánh Thomas.
- Vấn đề là - Một phụ nữ khác lên tiếng. - cả trăm đứa phá làng phá xóm mới được một Barry.
- Cốt yếu là, họ là dân Yarvil, - Một ủy viên nam tóm gọn. - họ phải thuộc về Yarvil.
- Không phải thế, - Parminder cố ghìm giọng nhưng tất cả đều im bặt lắng nghe như thể đợi bà hét lên lần nữa. - hoàn toàn không phải thế. Cứ nhìn nhà Weedon đi. Toàn bộ bài viết của Barry xoay quanh họ. Nhiều năm trước họ vốn là gia đình ở Pagfords này nhưng...
- Họ chuyển tới sống ở Yarvil...
- Vì ở đây không kiếm được chỗ nương thân - Parminder cô giữ bình tĩnh. - quý vị đâu có muốn phát triển khu mới ở ngoại ô thị trấn.
- Xin lỗi nhé! - Betty đỏ mặt tía tai vênh mặt nhìn Parminder. - Chị đâu có ở đây mà biết mấy chuyện khi trước.
Mọi người lao xao quay ra bàn luận riêng từng nhóm lẻ với nhau, Parminder không để lọt tai nổi câu nào. Cổ họng bà se thít, không dám nhìn vào mắt bất kỳ ai.
- Hay là ta giơ tay biểu quyết nhé? - Howard từ cuối bàn lớn tiếng đề nghị, tiếng lào xào lắng bặt. - Ai muốn phản ảnh với hội đồng quận là Pagford vui lòng cắt khu Fields khỏi phạm vi quản lý của thị trấn và định lại ranh giới khu?
Tay Parminder nắm chặt trong lòng, móng bấm sâu vào lòng bàn tay. Xung quanh loạt soạt tiếng ống tay áo giơ lên.
- Tuyệt lắm. - Howard đắc thắng kêu to. - Thế, tôi sẽ thảo đề xuất với Tony và Helen rồi gửi mọi người cùng xem qua, rồi là tiến hành thôi. Tuyệt vời!
Vài ủy viên vỗ tay. Mắt Parminder nhòa đi, bà vội chớp lia lịa. Tấm chương trình nhòe nhoẹt lúc xa lúc gần. Rồi đột nhiên nhận ra sự im lặng kéo dài quá lâu, bà ngẩng nhìn lên. Howard vừa rồi quá bốc nên đã phải moi bình thuốc xịt ra dùng cho dễ thở, các ủy viên khác đang chú mục nhìn lão đầy quan tâm.
- Được rồi, thế thì - Howard cuối cùng cũng bỏ ống xịt xuống mỉm cười, mặt mày còn đỏ lưỡng. - nếu không ai có ý kiến gì khác thì... - Lão ngừng một lúc lâu. - tới mục chín, Bellchapel. Ông Aubrey cũng có mấy lời phát biểu về trung tâm.
Barry sẽ không để chuyện này xảy ra. Ông ấy sẽ phản bác. Ông ấy sẽ khiến John phải bật cười mà ngả về phía chúng ta. Đúng ra ông ấy phải viết về chính mình chứ không phải Krystal... mình đã khiến ông ấy phải thất vọng...
- Cảm ơn anh Howard. - Aubrey lên tiếng, mạch máu bên tai Parminder càng đập dữ dội, bà bấm sâu thêm móng tay vào. - Như quý vị đã biết, quận đang cắt giảm đáng kể ngân sách...
Bà ta vẫn luôn yêu tôi, và chẳng giấu những lúc cứ nhìn tôi đăm đắm...
- … và một trong những hạng mục chúng tôi sẽ xem xét là Bellchapel - Aubrey nói - Tôi nghĩ tôi sẽ góp lời về chuyện này, vì như quý vị đã biết, tòa nhà thuộc quyền quản lý của khu...
- Và hợp đồng cho thuê gần đáo hạn rồi. - Howard tán đồng. - Đúng thế.
- Nhưng đâu có ai khác muốn thuê tòa nhà cũ kĩ đó nữa, phải không? - Một viên kế toán về hưu ngồi cuối bàn lên tiếng. - Nó xuống cấp nhiều rồi, theo tôi biết là thế.
- Tôi thì tôi tin là sẽ tìm được người thuê mới thôi - Howard thoải mái đáp. - nhưng đó không phải vấn đề. Vấn đề là ở chỗ ta có thấy trung tâm làm được gì hay không...
- Chuyện đó chẳng liên quan gì. - Parminder cắt lời. - Hội đồng khu không có trách nhiệm đánh giá trung tâm có hoạt động hiệu quả hay không. Ta đâu có tài trợ cho chỗ đó thì đâu có trách nhiệm đánh giá.
- Nhưng chúng ta sở hữu tòa nhà. - Howard vẫn cười rất lịch sự - thế nên thiết nghĩ cũng hợp lẽ thôi nếu ta muốn xét tới...
- Nếu cần xem thông tin về hoạt động trung tâm, tôi nghĩ điều quan trọng nhất là phải xem xét đồng đều nhiều mặt. - Parminder nói.
- Tôi rất xin lỗi. - Shirley lên tiếng, nhìn lướt về phía Parminder. - Chị vui lòng đừng ngắt lời chủ tọa được không, bác sĩ Parminder? Vì rất khó ghi biên bản nếu mọi người cứ ngắt lời nhau thế này. Ấy đấy, nói thế mà chính tôi lại đang ngắt lời người khác rồi đây. - Bà ta mỉm cười xoa dịu. - Xin lỗi nhé.
- Tôi cho rằng hội đồng vẫn muốn kiếm nguồn thu từ tòa nhà đó - Parminder không đếm xỉa gì tới Shirley. - mà theo tôi biết hiện không có khách hàng nào đang chờ thuê cả. Vì vậy tại sao phải cân nhắc việc có nên chấm dứt hợp đồng cho thuê hay không.
- Trung tâm đó mà chữa chạy gì - Betty phản đối. - cấp thêm thuốc cho dân nghiện thì có. Họ mà dọn đi là tôi mừng.
- Ở cấp quận, chúng tôi cũng đang phải đối mặt với nhiều quyết định rất khó khăn. - Aubrey Fawley tiếp lời. - Chính phủ muốn cấp chính quyền địa phương phải tiết kiệm được hơn một tỉ bảng. Chúng tôi không thể nào tiếp tục duy trì các dịch vụ theo cách trước giờ. Đó là thực tế.
Parminder căm ghét đám ủy viên hội đồng xun xoe quanh Aubrey, nhịp nhàng gật gù nuốt từng lời phát ra bằng cái giọng trầm trầm ngân nga đó. Bà biết thừa có người gọi mình là “Tai Cụp”.
- Các nghiên cứu cho thấy rằng việc dùng chất gây nghiện bất hợp pháp tăng lên trong thời kỳ suy thoái. - Parminder nói.
- Đó là do họ tự chọn thôi - Betty nói. - có ai bắt họ xài thuốc đâu.
Bà ta nhìn quanh bàn tìm sự ủng hộ, Shirley mỉm cười khuyến khích.
- Chúng ta đang phải đứng trước nhiều lựa chọn khó khăn. - Aubrey nhắc lại.
- Thế nên ông phải liên kết với Howard - Parminder lại ngắt lời. - và quyết định thúc đẩy trung tâm đôi chút bằng cách tống họ ra khỏi tòa nhà đó phải không.
- Tôi nghĩ có nhiều cách dùng tiền hiệu quả hơn là đổ vào cho cái đám tội phạm đó. - Viên kế toán lên tiếng.
- Còn tôi thì chỉ muốn cắt hết mọi trợ cấp cho bọn họ thôi. - Betty bồi thêm.
- Tôi được mời tới dự buổi họp này là để trình bày cho quý vị cùng hiểu rõ tình hình ở cấp quận như thế nào - Aubrey bình tĩnh nói. - chứ không có ý gì khác đâu, bác sĩ Jawanda.
- Mời Helen. - Howard nói to, giơ tay mời một ủy viên khác đang giơ tay, cô này nãy giờ cố nói ra ý kiến của mình mà không được.
Parminder không còn nghe chị ta nói gì nữa. Bà cũng quên hẳn chồng tài liệu nằm dưới tờ chương trình mà Kay Bawden đã dày công chuẩn bị: số liệu thống kê, thông tin về những trường hợp cai nghiện thành công, lợi ích của việc dùng methadone so với heroin, các nghiên cứu phản ánh chi phí cũng như khía cạnh tài chính, xã hội của nạn nghiện hút. Mọi thứ xung quanh bà lung lay tan chảy. Bà biết mình sắp bùng nổ khủng khiếp chưa từng có. Không còn đường hối hận. Không thể ngăn chặn. Giờ chỉ có thể nhìn nó diễn ra. Quá trễ, quá trễ rồi...
-... sự trao quyền. - Aubrey Fawley vẫn đang nói. - Những người đó đúng nghĩa là cả đời không hề làm việc một ngày nào.
- Và thực sự - Howard tiếp lời. - giải pháp cho vấn đề này rất đơn giản trực tiếp. Cứ ngừng dùng thuốc là được thôi.
Lão quay lại tự mãn cười với Parminder: - Thuật ngữ trong ngành gọi cách này là “chặn nguồn để cắt cơn” phải không bác sĩ?
- Theo ý ông thì họ phải tự chịu trách nhiệm vì thói nghiện ngập của mình và phải tự biết thay đổi hành vi phải không? - Parminder hỏi.
- Tóm lại là thế.
- Trước khi họ làm nhà nước tiêu tốn thêm nhiều tiền của nữa?
- Chính xác…
- Vậy thì ông - Parminder cao giọng, cơn điên giận lặng lẽ cuốn xoáy lấy bà - Howard Mollison, ông có biết mình đã làm dịch vụ y tế tiêu tốn bao nhiêu nghìn bảng chỉ vì ông hoàn toàn không thể ngừng nhồi nhét đồ ăn vào người hay không?
Howard đỏ rần từ cổ lên mặt.
- Ông có biết chi phí đặt tim nhân tạo, rồi thuốc men, rồi tiền nằm viện dài ngày là bao nhiêu không? Rồi cả những cuộc thăm khám của bác sĩ vì ông bị suyễn, ông cao huyết áp, và cả cái chứng viêm da gớm ghiếc chỉ vì không muốn giảm cân?
Giọng của Parminder đã vút lên thành tiếng thét, các thành viên khác bắt đầu lào xào phản ứng thay cho Howard, Shirley đã đứng bật dậy, Parminder vẫn gào thét, tay vung vẩy mớ giấy tờ xộc xệch.
- Bác sĩ gì mà không giữ bí mật cho bệnh nhân. - Shirley cũng gào lên. - Quá đáng! Đúng là quá đáng mà!
Parminder bước thẳng ra cửa, giữa tiếng nấc điên giận, bà còn kịp nghe Betty kêu gọi lập tức đuổi bà khỏi hội đồng. Bà đi như chạy khỏi sảnh nhà thờ, biết rõ mình vừa gây chuyện tày trời. Giờ bà chỉ mong được bóng đêm nuốt chửng, được biến mất mãi mãi.
IX
Tờ Yarvil và District Gazette đã thận trọng lựa lời khi tường thuật cuộc họp hội đồng gay gắt nhất từ trước đến nay, trong ký ức mọi người ở đây. Nhưng chẳng ích gì, bài báo đã cắt xén kĩ càng đó cộng thêm lời kể của những người dự họp hôm đó vẫn làm dấy lên làn sóng buôn chuyện. Tệ hơn, trang đầu tờ tạp chí còn nhắc tới những cuộc tấn công mạng dưới tên người đã chết, mà theo Alison Jenkins là “gây ra nhiều phẫn nộ và đồn đoán. Xem thêm chi tiết ở trang bốn”. Dù báo không nói rõ ai bị cáo buộc vì tội gì, nhưng lúc nhìn thấy “những luận điệu nghiêm trọng” và “hành động vô đạo đức” trên báo in, Howard còn thấy buồn bực hơn là đọc bài đăng trên web.
- Ta phải tăng cường an ninh cho website ngay khi bài đầu tiên xuất hiện mới phải. - Lão nói với vợ và bà bạn làm ăn lúc ngồi trước lò sưởi gas.
Trận mưa xuân lặng lẽ lấm tấm rơi trên cửa sổ, bãi cỏ vườn sau lấp lánh những giọt nước li ti. Howard lạnh run, lão cố ấp lấy hơi ấm tỏa ra từ mớ than giả xếp trong lò. Nhiều ngày nay, hầu như khách nào ghé hiệu thực phẩm và quán café cũng bàn tán về những bài đăng nặc danh, hồn ma Barry Fairbrother và cơn cuồng nộ của Parminder Jawanda trong cuộc họp hội đồng. Howard ghét nghe người ta xì xào về những điều bà ta đã gào lên trong cuộc họp. Lần đầu tiên trong đời lão thấy không thoải mái ngay trong cửa hiệu của mình và phải lo lắng về địa vị vững như bàn thạch của mình tại Pagford này. Cuộc bầu cử tìm người thay thế cho Barry Fairbrother sẽ diễn ra ngay hôm sau, Howard hào hứng lạc quan nhưng vẫn không gạt hẳn được tâm trạng bứt rứt lo lắng.
- Vụ này tai hại quá. Quá tai hại đi. - Lão lặp lại.
Lão thò tay xuống bụng định gãi nhưng rụt lại, chịu đựng cơn ngứa ngáy với vẻ mặt kẻ tử vì đạo. Lão vẫn còn chưa quên câu bác sĩ Jawanda hét lên trước hội đồng và nhà báo. Howard và Shirley đã tìm thông tin về Hội đồng y khoa trung tâm, đến tận nơi gặp bác sĩ Crawford và gửi thư khiếu nại chính thức. Từ khi đó Parminder không thấy đến chỗ làm nữa, chắc chắn bà ta hối hận vì cơn bùng phát đó của mình. Dù vậy, Howard vẫn không quên nổi vẻ mặt của bà ta khi gào lên với lão. Cái vẻ căm thù sâu sắc đó làm lão sốc.
- Người ta nói chán rồi cũng quên thôi. - Shirley đoán chắc.
- Không đâu - Howard đáp. - tôi không chắc thế đâu. Đẹp mặt thật. Hội đồng khu. Cãi vã ngay trước mũi phóng viên. Aubrey nói trên quận người ta không hài lòng chút nào. Vụ này làm đề nghị của ta về khu Fields yếu hẳn đi. Cãi nhau trước mặt người ngoài thế đấy, chẳng ra làm sao... không ra vẻ hội đồng đại diện cho tiếng nói thị trấn gì hết.
- Có mà. - Shirley cười khẽ. - Đâu có ai ở Pagford này thích khu Fields, hầu như thế.
- Từ bài báo đó mà xét, có vẻ như cánh ta nhằm vào bọn ủng hộ khu Fields, đe dọa đám đó. - Howard nhăn nhó cố nhịn gãi. - Ừ thì Aubrey hiểu cánh ta không làm thế, nhưng cô phóng viên đó viết thành ra khác. Nói cho bà biết, nếu Yarvil làm cho hình ảnh của ta trở nên tệ hại hay kém năng lực... bao nhiêu năm này họ luôn cố tìm cơ hội chiếm quyền khu ta đấy.
- Không có đâu. - Shirley lập tức trả lời - Chuyện đó không thể nào xảy ra đâu.
- Tôi nghĩ chuyện này chấm dứt rồi. - Howard mải nghĩ về khu Fields, phớt lờ bà vợ. - Tôi nghĩ chúng ta đã làm được. Ta sẽ cắt bỏ được cái đám đó.
Bài báo lão đã tốn biết bao thời gian chứng minh cặn kẽ khu Fields và trung tâm cai nghiện là cống rãnh, là vết nhơ của Pagford lại bị át mất do scandal của Parminder và hồn ma Barry Fairbrother. Howard đã hoàn toàn không còn cảm thấy tí gì cảm giác khoan khoái lúc đọc bài đăng đầu tiên buộc tội Simon Price, trước khi cô vợ nhà ấy chưa gọi điện năn nỉ, lão không hề nghĩ chuyện gỡ xuống.
- Hội đồng quận gửi email cho tôi - Lão kể với Maureen. - hỏi hàng đống câu về website. Họ muốn ta nói rõ dùng những biện pháp nào để chống lại hành động phỉ báng đó. Họ cho rằng an ninh website quá lỏng lẻo.
Shirley thấy đụng chạm, đáp lạnh tanh: - Em nói rồi, em đã giải quyết vụ này, Howard.
Hôm qua cháu một người bạn của Howard và Shirley đến chơi lúc Howard đang ở cửa hàng. Cậu này đang theo học tin học. Cậu nói với Shirley là nên bỏ website quá dễ hack này đi và nhờ một ai “biết rõ mình làm gì” để thiết kế trang mới.
Shirley hiểu chưa tới một phần mười mớ thuật ngữ kĩ thuật cậu thanh niên tuôn vào tai bà. Bà chỉ biết “hack” nghĩa là thâm nhập trái phép, rồi khi chàng sinh viên ngừng ba hoa, bà tự nhiên có cảm giác Hồn ma xoay xở kiếm được mật khẩu của mọi người bằng cách cài bẫy họ trong những cuộc nói chuyện bình thường.
Thế là bà gửi email yêu cầu tất cả mọi người đổi mật khẩu và đừng thông báo mật khẩu với với bất kỳ ai. Thế là bà coi như mình “đã giải quyết vụ này.”
Về chuyện đóng website mà bà vừa là quản trị vừa là gác cổng, bà không làm gì, cũng không nhắc tới chuyện đó với Howard. Bà lo website mới với đủ loại phương tiện bảo mật mà anh chàng siêu đẳng này muốn thiết kế vượt ngoài khả năng hiểu biết của mình. Ngay như bây giờ bà cũng đã phải căng hết sức rồi, mà bà thì quyết bám chặt lấy cái chân quản trị website.
- Nếu Miles được bầu... - Shirley cất tiếng nhưng Maureen đã khàn khàn ngắt lời. - Mong là không có bài đăng kinh tởm nào nhắm vào cậu ta. Mong là không có điều tiếng gì về cậu ấy.
- Ai cũng biết Miles chẳng liên quan gì cả. - Shirley lãnh đạm đáp.
- Thật thế hả? - Maureen hỏi, Shirley nhìn mà phát ghét. Mụ có quyền gì mà ngồi ngay trong nhà bà và nói nghịch ý bà? Mà tại sao Howard lại gật đầu đồng tình với mụ kia chứ?
- Đó đúng là điều tôi lo đấy. - Lão nói. - Giờ ta cần Miles hơn lúc nào hết, để gây dựng lại liên kết trong hội đồng. Sau khi mụ Tai Cụp làm om sòm lên hội đồng còn chưa biểu quyết được về vụ Bellchapel nữa. Ta cần Miles thắng cử.
Shirley đã bỏ ra khỏi phòng để tỏ ý phản đối Howard về phe với Maureen. Bà cáu kỉnh loay hoay với mớ cốc tách trà trong bếp, nghĩ bụng sao mình không bưng lên hai tách thôi cho mụ Maureen biết thân biết phận.
Dù sao Shirley vẫn cứ thấy hâm mộ Hồn ma. Kẻ đó đã vạch trần sự thật về những kẻ ngang ngạnh xấu xa bà vốn không ưa hay coi thường. Chắc chắn cử tri Pagford cũng sẽ nhìn nhận mọi sự như bà và bầu cho Miles chứ không phải cái gã Colin Wall đáng tởm kia.
- Khi nào ta đi bầu đây? - Shirley hỏi Howard lúc lanh canh bưng khay trà vào phòng, cố tình phớt lờ Maureen. (Con trai của hai người họ sẽ nằm trong danh sách kiểm phiếu kín chứ liên quan gì tới mụ.)
Rồi bà bực điên người khi Howard bảo cả ba người họ sẽ cùng đi sau khi đóng cửa hàng.
Miles Mollison cũng lo lắng chẳng kém gì cha, mấy câu đùa của anh ta về những sự cố ảnh hưởng tới cơ hội thắng cử ngày mai nhạt nhẽo chưa từng thấy. Ngay sáng hôm đó, anh ta vào cửa hàng tiện lợi phía sau quảng trường và tình cờ nghe được đoạn đối thoại giữa người phụ nữ đứng sau quầy thu ngân và ông khách lớn tuổi.
- … Mollison lúc nào cũng nghĩ ông ta như vua của Pagford vậy. - Ông không để ý vẻ mặt cứng đơ của cô thu ngân. - Tôi thích Barry Fairbrother hơn. Đúng là bi kịch. Bi kịch. Con trai nhà Mollison lập di chúc cho chúng ta mà, tôi nghĩ chắc anh ta tự mãn lắm.
Miles bình tĩnh lùi khỏi hiệu, mặt mày đỏ ửng như cậu học trò. Anh không biết ông già nói năng hoa mỹ đó có phải tác giả mấy bài đăng nặc danh không. Miles vốn bao bọc trong niềm tin dễ chịu rằng mình khá được ưa mến, giờ niềm tin đó đã lung lay, anh ta không thể ngừng tưởng tượng giả sử ngày mai không ai bỏ phiếu cho mình thì sẽ thế nào.
Tối đó, lúc thay đồ đi ngủ, anh lặng lẽ ngắm bóng vợ trong tấm gương trên bàn trang điểm. Nhiều ngày nay anh cứ mở miệng nhắc tới cuộc bầu cử là cô chế nhạo ngay. Giá mà tối nay anh có được chút động viên, chút an ủi. Anh cũng thấy muốn vợ. Đã lâu lắm rồi mới thế. Giờ nghĩ lại, lần cuối hình như vào đêm trước khi Barry gục chết. Vợ anh đã hơi ngà ngà. Dạo này cô hay uống chút đỉnh.
- Công việc thế nào? - Anh hỏi, nhìn cô vợ đang tháo áo lót qua gương.
Samantha không đáp ngay. Cô xoa xoa mấy vệt hằn đỏ trên vùng da dưới cánh tay do áo lót quá chật rồi đáp, không nhìn chồng: - Thật ra tôi đang định nói chuyện đó với anh đây.
Cô không muốn bàn tới chuyện này. Cô đã cô trì hoãn suốt nhiều tuần lễ nay.
- Roy đề nghị tôi đóng cửa hàng. Làm ăn đang không tốt lắm.
Miles sẽ cực sốc khi biết tình hình thực sự của cửa hàng. Chính cô cũng sốc khi viên kế toán mô tả rõ tình hình bằng những từ trần trụi trực tiếp nhất. Cô vừa hiểu rõ vừa không hiểu. Thật lạ, có những chuyện bộ não hiểu nhưng con tim lại từ chối chấp nhận.
- Ồ, - Miles bất ngờ. - nhưng em vẫn giữ website bán hàng chứ?
- Ừ, - Cô đáp. - vẫn giữ website đó.
- À thế thì tốt. - Miles động viên. Anh chờ gần một phút để tỏ ý tôn trọng tin xấu về cửa hàng rồi mới hỏi. - Hôm nay em chắc chưa đọc tờ Gazette phải không?
Cô vợ rướn người với lấy cái áo ngủ bỏ trên gối, anh khoan khoái ngắm trọn khuôn ngực vợ. Chắc chắn sex sẽ giúp anh thư giãn.
- Đúng là tiếc quá, Sam ạ. - Anh nói, bò sẵn lên giường, chờ tới lúc được vòng tay ôm vợ khi cô mặc xong áo ngủ. - Vụ cửa hàng đấy. Chỗ đó rất khá. Em mở nó cũng được... mười năm rồi nhỉ?
- Mười bốn. - Samantha sửa.
Cô biết anh đang muốn gì. Cô những muốn bảo anh chồng đi mà tự sướng rồi bỏ ra phòng khác mà ngủ, nhưng thế chắc chắn sẽ có cãi cọ nặng nề, mà cô chẳng muốn gì hơn là hai ngày tới được đi London cùng Libby, mặc áo thun cô mua cho cả hai mẹ con và được ở gần sát Jake với mấy chàng khác trong nhóm nhạc suốt buổi tối. Giờ toàn bộ niềm vui hiện tại của Samantha đều xoay quanh chuyến đi đó. Hơn nữa sex sẽ khiến Miles nguôi bớt, anh ta gần đây cứ bực bội vì cô bỏ không dự sinh nhật Howard.
Thế là cô để chồng ôm hôn mình. Cô nhắm mắt bò lên người anh, tưởng tượng đang cưỡi lên Jake trên bãi biển trắng muốt hoang vắng, cô mới mười chín tuổi còn chàng hai mốt. Rồi cô hình dung Miles ngồi trên thuyền điên giận nhìn họ qua ống nhòm từ xa.
X
Chín giờ sáng ngày diễn ra cuộc bầu cử tìm người thay thế vị trí của Barry, Parminder rời Nhà Giáo Sĩ Cũ đi lên nhà Wall ở phố Church Row. Bà gõ gõ cửa và đợi, cuối cùng Colin cũng ló ra.
Cặp mắt đỏ ngầu của ông thâm quầng, chỗ xương má cũng xám đen, da trong nhợt ra, quần áo hóa thùng thình, ông vẫn chưa đi làm lại được. Tin Parminder gào lên thông tin y tế bí mật của Howard trước mặt mọi người khiến ông tạm thời khá hơn, mấy hôm trước lại có một Colin mạnh mẽ ngồi trên ghế da vờ ra vẻ tự tin sẽ giành chiến thắng có lẽ không bao giờ tới.
- Mọi chuyện ổn chứ? - Ông thận trọng hỏi, khép cửa lại sau lưng bà.
- Vâng, ổn, - Bà đáp. - tôi nghĩ ông muốn cùng tôi đi bỏ phiếu chỗ sảnh nhà thờ.
- Tôi... không. - Ông ta yếu ớt đáp. - Xin lỗi.
- Tôi biết ông cảm thấy gì, Colin. - giọng Parminder hơi rắn lại. - Nhưng nếu ông không bỏ phiếu nghĩa là họ sẽ thắng. Tôi không để họ thắng đâu. Tôi sẽ xuống đó, bỏ phiếu cho ông, tôi muốn ông đi với tôi.
Parminder đang tạm thời nghỉ việc. Nhà Mollison đã khiếu nại với tất cả mọi cơ quan tổ chức nào họ lần ra được địa chỉ, bác sĩ Crawford khuyên bà nên nghỉ một thời gian. Không ngờ khi nghỉ như thế bà thấy thật tự do. Nhưng Colin vẫn lắc đầu. Bà thoáng thấy mắt ông có ngấn nước.
- Tôi không thể đâu Minda.
- Có thể. - Bà quả quyết. - Ông có thể, Colin. Phải đứng lên chống lại họ chứ. Hãy nghĩ tới Barry.
- Nhưng tôi không thể... tôi xin lỗi... tôi...
Ông nấc lên rồi òa ra khóc. Khi trước ông từng khóc như thế trong phòng khám bệnh của bà, nức nở tuyệt vọng vì bao nhiêu nỗi sợ hãi vây bủa từng ngày một trong đời.
- Thôi nào? - Bà an ủi, không hề lúng túng kéo tay dẫn ông vào bếp, dúi cho ông cuộn giấy rồi chờ cho cơn nức nở chuyển thành nấc cục. - Thế Tessa đâu rồi?
- Đi làm. - Ông thút thít, lau mắt.
Trên bàn có tờ thiệp mời dự sinh nhật lần thứ sáu lăm của Howard Mollison, có ai đó đã xé nó thành hai mảnh gọn ghẽ.
- Tôi cũng nhận được một tấm thế, - Parminder an ủi. - trước buổi tối quát vào mặt lão. Nghe này Colin, ông đi bầu...
- Tôi không thể. - Colin thì thầm.
- Chứng tỏ họ không thể hạ gục ta.
- Nhưng họ làm rồi thôi. - Colin đáp.
Parminder phá lên cười. Colin há hốc mồm nhìn bà giây lát rồi cũng phá ra cười hô hố nghe như tiếng sủa của con chó lớn.
- À thì họ đẩy ta khỏi chỗ làm - Parminder nói. - và hai ta đều chẳng ai muốn ra khỏi nhà này, nhưng ngoài mấy chuyện đó ra thì tôi nghĩ ta đều đang rất sung sức, thật đấy.
Colin bỏ kính ra chấm chấm mắt, nhoẻn cười.
- Nào Colin. Tôi sẽ bầu cho anh. Vẫn chưa phải là kết thúc mà. Sau khi tôi nổi khùng mắng Howard Mollison rằng lão là thứ rác rưởi ngay trước mặt toàn thể hội đồng lẫn phóng viên báo địa phương…
Colin lại phá ra cười, bà thấy vui vui. Từ dạo tết Năm mới đến nay ông không mấy khi cười, có chăng thì đều nhờ Barry.
- … họ quên cả bỏ phiếu về vụ buộc trung tâm cai nghiện phải dọn khỏi tòa nhà Bellchapel cơ mà. Làm ơn đi nào. Mặc áo khoác vào. Ta sẽ cùng xuống đó.
Vẻ tươi cười của Colin lập tức tắt ngóm. Ông ta nhìn chằm chằm hai bàn tay to tướng cứ lóng ngóng xoa xát vào nhau như rửa tay khô.
- Colin, đã kết thúc đâu. Ông sẽ tạo nên sự khác biệt đấy. Người ta có ưa gì nhà Mollison đâu. Ông mà vào được hội đồng thì phe ta đấu tranh được mạnh hơn nhiều. Làm ơn đi mà, Colin.
- Được rồi. - Ông ta đáp sau vài giây im lặng rồi phát hoảng vì sự táo gan của chính mình.
Đoạn đường đi bộ ngắn, không khí tinh sạch tươi mới, mỗi người đều nắm chặt trong tay phiếu đăng ký bầu cử. Nhà thờ không có cử tri nào khác ngoài hai người họ. Mỗi người đều vạch một dấu chữ chéo thật đậm bằng bút chì cạnh tên Colin rồi rời đi, nhẹ cả người.
Tới trưa Miles Mollison mới đi bỏ phiếu. Lúc ngang phòng anh bạn đồng sự, anh ta dừng chân.
- Tôi nghỉ đi bỏ phiếu đây Gav. - Anh ta nói.
Gavin chỉ chỉ vào ống nghe đang áp chặt vào tai, gã đang nói chuyện với công ty bảo hiểm của bà Mary.
- Ồ, được rồi, tôi đi bỏ phiếu đây Shona. - Miles quay sang cô thư ký.
Nhắc khéo rằng anh đang cần hai người họ ủng hộ tính ra cũng chẳng hại gì. Miles bước nhanh xuống thang, trực chỉ tiệm Ấm Đồng. Ở đó sau khi ngắn gọn bàn bạc với vợ trong không khí hậu-làm-tình, anh thỏa thuận được sẽ gặp chị vợ rồi hai người sẽ cùng đến nhà thờ bỏ phiếu.
Sáng nay Samantha nghỉ hẳn ở nhà, để cô phụ việc tự trông cửa hàng. Cô biết mình không thể trì hoãn báo cho Carly cái tin cửa hàng sắp đóng và cô này phải mất việc, nhưng cô không buộc mình làm nổi chuyện ấy trước chuyến đi London nghe hòa nhạc cuối tuần này. Lúc Miles xuất hiện với vẻ cười phấn khích, cô lập tức thấy sôi máu.
- Bố không đến à? - Câu đầu tiên anh ta hỏi là thế.
- Bên cửa hàng sẽ đi sau khi đóng cửa. - Samantha đáp.
Lúc cô và Miles bước vào, sảnh có hai bà cụ khác đang trong phòng bỏ phiếu. Samantha đứng chờ, nhìn mái tóc uốn màu xám sắt, chiếc áo khoác dày nặng và cặp mắt cá chân nặng nề của họ. Một ngày nào đó, trông cô cũng sẽ như thế. Lúc rời đi, bà cụ lưng khòm hơn để ý thấy Miles liền cười nói: - Tôi mới bỏ phiếu cho cậu đấy.
- Cảm ơn bà nhiều. - Miles vui vẻ đáp.
Samantha bước vào phòng bỏ phiếu, nhìn chằm chằm hai cái tên: Miles Mollison và Colin Wall, tay cầm chiếc bút chì được buộc một đầu vào sợi dây. Cô viết nguệch ngoạc: “tao thù Pagford chết toi” trên tờ phiếu, gấp kĩ lại rồi bước ra, lạnh lùng bỏ vào khe thùng phiếu.
- Cảm ơn cưng. - Miles nói, vỗ nhẹ lưng vợ.
Tessa Wall trước nay chưa khi nào không đi bầu cử, nhưng trên đường đi làm về, cô chạy ngang nhà thờ mà không hề dừng lại. Ruth và Simon Price suốt ngày bàn tính nghiêm túc hơn về chuyện dời đến Reading. Lúc dọn bàn bếp để ăn tối, Ruth vứt luôn mấy tấm thẻ đăng ký bầu cử.
Gavin thì chẳng khi nào định đi bầu. Giả sử Barry còn sống ra ứng cử thì may ra gã sẽ đi, nhưng Miles thì khác, gã không hề định giúp tay này đạt được mục tiêu cuộc đời của hắn. Đúng năm giờ ba mươi, gã bực bội đứng dậy thu dọn vì đã chẳng còn cớ gì thoái thác ăn tối cùng Kay. Đúng là tẻ ngắt, mà lại ngay lúc công ty bảo hiểm có vẻ chuyển theo hướng có lợi cho Mary, gã nóng lòng muốn tới báo cho bà biết tin ấy. Thế nghĩa là gã phải giữ cái tin này lại đến tận ngày mai vì gã chẳng muốn bỏ phí nó khi báo qua điện thoại.
Kay vừa mở cửa cho gã đã tuôn ra cả tràng liến thoắng, thường khi nào cô không vui mới như thế.
- Xin lỗi nhé, ngày hôm nay chẳng ra làm sao. - Cô nói luôn dù gã chẳng phàn nàn gì, hai người cũng chẳng chào hỏi gì nhau. - Em về trễ, giờ phải nấu nốt bữa tối đã, anh vào đi.
Từ trên lầu vọng xuống tiếng trống và tiếng bass dập ầm ĩ. Gavin cũng lấy làm lạ, sao hàng xóm không ai nói gì nhỉ. Kay để ý thấy gã nhìn lên trần liền giải thích: - À, Gaia đang cáu vì cậu nhóc nào đó nó thích hồi còn ở Hackney đi chơi với cô khác ấy mà.
Cô nắm chặt ly rượu đang uống dở, hớp một ngụm to. Cô thấy áy náy vì đã gọi Marco de Luca là “cậu nhóc nào đó”. Mấy tuần trước khi hai mẹ con rời London, cậu gần như loanh quanh suốt trong nhà họ. Kay thấy cậu ta rất duyên dáng, ý tứ và tháo vát. Cô mà có được đứa con trai như thế thì còn gì bằng.
- Con bé sẽ chịu được thôi. - Kay gạt qua mớ hồi ức, quay lại với chỗ khoai tây đang luộc. - Nó mười sáu tuổi mà. Tuổi này hay làm quá lên lắm. Anh rót rượu mà uống.
Gavin ngồi xuống bên bàn, gã chỉ mong Kay bảo được Gaia hạ nhỏ nhạc. Cô cứ phải gần như hét lên với gã giữa tiếng bass sầm sập, tiếng nắp chảo lạch cạch và tiếng quạt thông gió ầm ĩ. Gã lại nhớ đến sự tĩnh lặng dịu dàng trong căn bếp rộng rãi của Mary, cô thật lòng biết ơn gã, cô ấy cần gã.
- Sao? - Gã hỏi to, Kay vừa hỏi gã gì đó.
- Em hỏi là anh đã đi bầu chưa?
- Bầu?
- Bầu cử hội đồng ấy! - Cô giải thích.
- Không, - Gã đáp. - anh chẳng quan tâm.
Gã không chắc cô có nghe được câu đáp không. Cô lại lép nhép gì đó, mãi tới khi cô bưng dao nĩa ra bàn, gã mới nghe được rõ.
- … thực sự đáng ghê tởm, hội đồng khu mà lại đi thông đồng với Aubrey Fawley. Miles mà trúng cử thì trung tâm Bellchapel coi như xong...
Cô chắt nước nồi khoai, tiếng nước đổ xuống lại nhấn chìm giọng cô lần nữa.
- Nếu cái bà ngớ ngẩn đó không mất tự chủ thì có khi ta sẽ nhiều khả năng thắng cử hơn rồi. Em đưa cho bà ta cả đống tài liệu về trung tâm, chắc bà ta chẳng dùng tới tờ nào. Bà ấy chỉ gào vào mặt Howard Mollison là lão ấy quá béo thôi. Mà nói về chuyện thiếu chuyên nghiệp...
Gavin có nghe nói về vụ bác sĩ Jawanda nổi điên trước mặt mọi người. Thật ra gã thấy chuyện đó cũng hơi buồn cười.
- … Tình trạng bất ổn định thế này ảnh hưởng rất xấu tới nhân viên trung tâm, chứ đừng nói gì là bệnh nhân.
Gavin không đủ sức vờ tỏ ra tiếc thương hay căm phẫn nữa, gã chỉ thấy hoảng vì xem ra Kay dính chặt vào cái mớ bòng bong rối rắm này cùng với cả loạt nhân vật có mặt có mũi ở đây. Thế nghĩa là cô ta đang cắm rễ ngày càng sâu tại Pagford này. Giờ muốn bẩy được cô đi thì còn phải khốn khổ chán.
Gã quay đầu nhìn ra mảnh vườn không được xén tỉa thường xuyên ngoài cửa sổ. Cuối tuần này gã có hứa sẽ giúp Fergus làm vườn. Nếu may mắn, biết đâu bà Mary sẽ lại mời gã ở lại ăn tối, và nếu thực thế gã sẽ có cớ không đi bữa tiệc sinh nhật thứ sáu lăm của Howard. Miles cứ làm như gã trông mong vụ đó lắm.
- … muốn giữ nhà Weedon nhưng không, Gillian nói ta không thể chỉ chọn thứ ngon nhất trên bàn tiệc. Anh có nghĩ làm thế là chọn thứ dễ ăn không?
- Xin lỗi, sao? - Gavin hỏi lại.
- Mattie đã trở lại làm việc rồi. - Cô nói, gã phải nặn óc ra mới nhớ nổi đó là đồng nghiệp mà cô đang phải choàng việc. - Em muốn tiếp tục làm việc với nhà Weedon, đôi lúc mình có xúc cảm đặc biệt với một gia đình nào đó mà, nhưng Gillian không cho phép. Điên thật đấy.
- Trước giờ không phải chỉ có mình em muốn giữ nhà Weedon đâu. - Gavin nhận xét. - Theo những gì anh nghe được thì là thế.
Kay phải ghìm lắm mới không bật lại. Cô kéo khay phi-lê cá hồi ra khỏi lò nướng. Tiếng nhạc từ phòng Gaia to đến nỗi cô cảm thấy cái khay cũng rung rung. Cô dằn mạnh nó xuống bệ.
- Gaia! - cô gào lên làm Gavin giật nảy mình, bước thẳng lại phía chân cầu thang. - GAIA! Vặn nhỏ xuống! Mẹ bảo rồi đấy nhé! VẶN NHỎ XUỐNG!
Tiếng nhạc giảm được độ một decibel. Kay trở vào bếp, lóng ngóng xoay tới xoay lui. Trước lúc Gavin tới, hai mẹ con vừa cãi nhau một trận tệ hại chưa từng có. Gaia nói thẳng ý định gọi cho ông bố xin được chuyển về ở với ông.
- Thế hả, thế chúc may mắn nhé! - Kay gào lên.
Mà có khi Brendan đồng ý thì sao. Anh ta bỏ đi lúc Gaia mới được một tháng tuổi. Giờ Brendan đã cưới vợ và có thêm ba đứa nữa. Anh ta có nhà to, việc tốt. Nhỡ anh ta đồng ý nhận con bé thật thì sao?
Gavin cũng mừng là không phải chuyện trò gì suốt bữa ăn, tiếng nhạc ầm ầm lấp đầy khoảng im lặng, gã có thể yên ổn mà mơ tưởng về Mary. Ngày mai, gã sẽ kể với Mary rằng công ty bảo hiểm đang ngỏ ý muốn thỏa thuận, rồi cô ấy sẽ biết ơn và khâm phục mình...
Gã sắp vét sạch đĩa mới để ý Kay không hề ăn miếng gì. Cô chỉ đang nhìn gã chằm chằm, cái vẻ ấy làm gã bất an. Hay là gã có làm gì để lộ ra chuyện đang tơ tưởng...
- Thậm chí anh còn không buồn cố gắng nữa, - Kay cay đắng nói. - thậm chí anh còn không thèm vờ quan tâm nữa, Gavin.
Gã cố tìm lối thoát thân nhẹ nhàng.
- Kay, anh mệt cả ngày mà - Gã nói. - anh xin lỗi vì không nghe kịp hết mấy tình tiết chính trị địa phương...
- Em không có trách chuyện đó. - Kay nói. - Nhưng anh ngồi đó mà hồn để đâu đâu, thật... thật quá đáng. Anh muốn gì hả Gavin?
Gã thấy hiện ra trong đầu gian bếp của Mary và gương mặt ngọt ngào của bà.
- Em phải năn nỉ anh mới chịu gặp - Kay nói. - khi chịu đến rồi thì anh lại tỏ cái vẻ chẳng muốn đến chút nào.
Cô những mong nghe gã nói “không phải đâu”. Tới lúc này, lời từ chối chỉ như câu đối phó cho qua. Họ đang trượt ngày càng nhanh tới thời điểm khủng hoảng mà Gavin vừa mong vừa sợ xảy ra.
- Nói tôi nghe anh muốn gì đi - Kay mệt mỏi lên tiếng. - cứ nói ra đi.
Cả hai đều nhận thấy mối dây tình cảm đã đứt rời từng mảnh dưới sức nặng những điều Gavin không chịu thốt ra. Cảm giác như cả hai đều sẽ thoát khỏi nỗi đau khổ hiện thời nếu gã chịu nói thẳng những điều mà gã không muốn, thậm chí là không bao giờ muốn bộc lộ, nhưng theo cách nào đó, những lời ấy sẽ giải thoát cho cả hai.
- Anh không muốn chuyện xảy ra thế này. - Gavin thành thực nói. - Anh không cố tình đâu, Kay. Anh rất xin lỗi, nhưng anh nghĩ anh yêu Mary Fairbrother mất rồi.
Rõ ràng cô không hề ngờ đến chuyện này.
- Mary Fairbrother. - Cô lặp lại.
- Anh nghĩ - gã tiếp (nói về chuyện này, lòng gã vừa đắng vừa ngọt; gã biết mình đang làm tổn thương cô, nhưng ngoài cô ra gã đâu còn ai để nói). - tình cảm này ươm mầm từ lâu rồi. Anh không nhận ra, ý anh là, hồi Barry còn sống, anh chưa khi nào...
- Tôi nghĩ ông ấy là bạn thân nhất của anh cơ đấy. - Kay thì thầm.
- Đúng thế mà.
- Ông ấy mới chết có vài tuần!
Gavin không muốn nghe những lời như thế.
- Kìa - gã phân trần - anh đang cố tỏ ra thành thật với em còn gì. Anh muốn xử sự công bằng với em mà.
- Anh muốn xử sự công bằng ấy hả?
Gã từng tưởng tượng cảnh chia tay ầm ĩ, nhưng cô chỉ ứa nước mắt nhìn gã mặc áo khoác vào.
- Anh xin lỗi - gã nói rồi bước khỏi nhà cô, lần cuối.
Lúc ra đến vỉa hè, gã phấn chấn đi như bay ra xe. Cuối cùng thì tối nay gã cũng có thể kể cho Mary nghe vụ công ty bảo hiểm rồi.
