Tác giả: Dan Brown
--24--
Micheal Tolland cười rạng rỡ trong khi Rachel Sexton chết sững nhìn mảnh thiên thạch có hoá thạch đang cầm trên tay. Với vẻ đẹp vô cùng tao nhã, cô gái này là biểu tượng của trạng thái phân vân rất đỗi ngây thơ - một em bé gái lần đầu tiên trong đời nhìn thấy ông già tuyết.
"Tôi hiểu rất rõ cô đang cảm thấy gì", Tolland thầm nghĩ…
Chỉ mới cách đây hai hôm. Tolland cũng đã cảm thấy y hệt như vậy. Cả ông ta cũng đã chết điếng vì kinh ngạc. Đến tận lúc này, ý nghĩa khoa học và triết học của phát hiện này vẫn còn khiến ông thấy choáng váng, khiến ông phải suy nghĩ lại về tất cả những gì trước đây mình vẫn tin tưởng.
Tolland đã từng phát hiện ra một số sinh vật biển chưa ai từng thấy, nhưng phát kiến này mới thực sự là bước đột phá. Dù Hollywood vẫn có xu hướng sáng tạo ra hình tượng những người ngoài hành tinh xanh lè, các nhà sinh vật học vũ trụ và những người ham mê khoa học vẫn luôn đồng ý với nhau rằng nếu có được phát hiện, dạng sống bên ngoài trái đất sẽ có ngoại hình của loài bọ.
Côn trùng là một bộ phận của những loài thuộc hệ chân khớp với lớp vỏ ngoài cứng và chân có đốt. Với 1.25 triệu loài đã được biết và khoảng năm trăm loài còn chưa được phát hiện, bọ vượt xa về số lượng so với tất cả các dạng sống khác trên trái đất cộng lại. Chúng chiếm 45% tổng số sinh vật trên hành tinh, và 40% tổng số sinh-thực vật.
Nhưng số lượng của các loài bọ không khiến người ta kinh ngạc bằng sự dẻo dai của chúng. Từ những con bọ cánh cứng Bắc cực cho đến loài bọ cạp mặt trời ở thung lũng chết, các loài bọ ung dung sinh sống ở những nhiệt độ, mức độ khô hạn, và cả áp suất chết người. Chúng cũng chịu được sự tiếp xúc với thứ đáng sợ nhất ngày nay: bức xạ. Khi lần theo dấu vết vụ thử hạt nhân từ năm 1945, các chuyên viên hàng không đã phải mặc quần áo chống xạ để tiến vào khu vực số không, để rồi nhìn thấy dán và kiến sống rất ung dung ở đó cứ như thế chưa từng có gì xảy ra. Các nhà thiên văn học nhận ra rằng lớp vỏ cứng bảo vệ bên ngoài các loài động vật chân đốt đã ban tặng cho chúng khả năng thích nghi tuyệt vời ở những hành tinh nhiễm xạ nặng, nơi không một loài sinh vật nào khác có thể tồn tại nổi.
Có vẻ như các nhà sinh vật học vũ trụ đã đúng, Tolland thầm nghĩ.
Sự sống thông minh bên ngoài vũ trụ mang dáng dấp của loài bọ.
Rachel cảm tưởng như không thể đứng vững.
- Tôi không… tôi không thể tin nổi điều này. - Cô nói, lật đi lật lại mẫu hoá thạch trên tay. - Tôi không thể nào tưởng tượng…
- Phải có thời gian mới trấn tĩnh được. - Tolland nhăn nhở nói. - Phải mất đúng hai mươi tư giờ tôi mới đứng vững lại được đấy.
- Tôi thấy là mới có thêm một người nữa, - một người châu Á cao kều nói, giọng bèn bẹt.
Ngay khi ông này xuất hiện, cả Tolland và Corky dường như đều bị cụt hứng. Rõ ràng là giây phút thần diệu đã tan biễn mất rồi.
- Tiến sĩ Wailee Ming. - ông ta tự giới thiệu. - Giám đốc Viện cổ sinh học ở UCLA.
Người đàn ông này có điệu bộ bảnh choẹ cứng ngắc của nhà quý tộc thời Phục hưng, liên tục đưa tay lên vuốt vuốt chiếc nơ cài trên cổ cái áo lông lạc đà dài đến gối. Wailee Ming rõ ràng thuộc kiểu người không bao giờ chịu để bất kỳ yếu tố ngoại cảnh nào làm hỏng mất vẻ bề ngoài trang trọng của mình.
- Tôi là Rachel Sexton. - Cô vẫn còn chưa hết run rấy khi bắt tay tiến sĩ Ming. Hiển nhiên ông ta cũng là người mà Tổng thống đã mời tới.
- Tôỉ rất lấy làm vinh hạnh, - ông ta nói - được giảng giải bất kỳ điều gì, cô muốn biết có liên quan đến những động vật hoá thạch này.
- Và tất cả những gì cô không muốn biết nữa đấy. - Corky làu bàu.
Ông Ming lại tiếp tục vuốt ve chiếc nơ gài áo:
- Chuyên môn sâu của tôi trong ngành cổ sinh học là các động vật chân đốt đã tuyệt chủng. Dĩ nhiên, đặc điểm nổi bật nhất của loài này là…
- Là chúng phát sinh từ trên một hành tinh chết tiệt nào đó! - Corky ngắt lời.
Ming nhăn mặt và hắng giọng.
- Đặc điểm quan trọng nhất của loài này là nó hoàn toàn khớp với những nguyên tắc phân loại của Darwin.
Rachel ngước nhìn lên. Họ còn có thể phân loại con bọ này sao?
- Ý ông là các giới, bộ và loài chứ gì?
- Chính xác. - ông ta nói. - Nếu được tìm thấy trên trái đất, loài này sẽ được xếp vào nhóm động vật đẳng túc cổ và được xếp vào một họ gồm có hai ngàn loài chấy rận.
- Chấy rận à? - Cô hỏi. - Nhưng to thế này cơ mà.
- Khi phân loại, người ta không quan tâm đến kích thước. Mèo nhà và hổ có họ với nhau. Con bọ hoá thạch này cũng có thân mình dạng dẹt, bảy đôi chân, và một cái túi sinh sản giống hệt của loài một gỗ, bọ tròn, bọ chét bờ biển, và bọ tuyết. Các mãu hoá thạch khác còn cho thấy những đặc điểm..
- Những mẫu hoá thạch khác?
Ming liếc sang Corky và Tolland:
- Cô ấy không biết à?
Tolland lắc đầu.
Ngay lập tức khuôn mặt ông Ming sáng bừng lên:
- Cô Sexton ạ cô chưa được nghe kể phần hay nhất của câu chuyện đâu.
- Còn có nhiều mẫu hoá thạch khác nữa. - Corky nói chen vào, cố góp phần quan trọng về mình, - Nhiều lắm. - ông ta hối hả mở một phong bì lớn và lấy ra tờ giấy khổ lớn. Rồi ông trải tờ giấy lên bà,. trước mặt Rachel - Sau khi khoan vài mũi, chúng tôi đã thả xuống đó một camera X quang. Đây là anh chụp X quang tảng đá đó.
Rachel nhìn tấm ảnh X quang trước mắt, và phải ngồi thụp xuống ghế. Bức ảnh ba chiều cho thấy trong tảng đá ấy còn có khoảng vài chục sinh vật hoá thạch nữa.
- Những chứng tích của thời kỳ đồ đá cũ, - ông Ming nói, thường được tìm thấy rất tập trung. Trong đa số các trường hợp, bùn kẹp chặt cả một cộng đồng sinh vật.
Corky cười toe toét:
- Chúng tôi cho rằng tảng đá này là hoá thạch của cả một ổ. - Ông ta đưa tay chỉ một con bọ - Đây chắc là con mẹ.
Rachel nhìn con bọ mà ông ta chỉ, và há hốc miệng. Con bọ đó phải dài đến hai foot.
Chấy rận khổng lồ đúrng không nào? - ông ta hỏi.
Rachel sững sờ gật gật khi cô hình dung con rận to bằng lát bánh mì lượn vè vè trên hành tình xa xôi nào đó.
- Trên hành tinh chúng ta, - ông Ming nói, - Các loài bọ có kích thước nhỏ bé do tác động của trọnh lực, chúng không thể phát triển to hơn lớp vỏ cứng bên ngoài được. Tuy nhiên, trên một hành tinh có trọng lực yếu hơn, chúng có thể phát triển những kích thước to lớn hơn nhiều.
- Hãy tưởng tượng chúng ta phải đập những con muỗi to bằng con kền kền. - Corky bông đùa, cầm lấy mẫu đá trên tay Rachel và bỏ tõm vào túi áo.
Ông Ming quắc mắt:
- Ông không được phép lấy trộm thứ đó!
- Ông bình tĩnh, khi nào đưa được tảng đá lên thì có những tám tấn cơ mà.
Thói quen phân tích của Rachel bắt đầu quay trở lại.
- Nhưng làm sao mà sinh vật vũ trụ lại giống trên trái đất đến thế? Ý tôi là làm sao, mà loài vật này lại trùng khớp với cách phân loài theo quan điểm của Darwin?
- Hay lắm, - Corky nói, - cô có tin hay không thì tuỳ, nhưng các nhà thiên văn học đều dự đoán là sinh vật trong vũ trụ sẽ giống trên trái đất này.
- Tại sao lại thế? - Cô hỏi. - Sinh vật này xuất xứ từ môi trường hoàn toàn xa lạ cơ mà.
- Thuyết đa sinh. - Corky cười hết cỡ.
- Ông nói cái gì cơ?
- Thuyết đa sinh nói rằng sự sống trên trái đất xuất xứ từ một hành tinh khác.
Rachel đứng dậy.
- Ông đang phung phí thời gian đấy.
Corky quay sang Tolland:
- Mike này, cậu chuyên về các biển nguyên thuỷ đấy.
Tolland có vẻ sung sướng được góp chuyện.
- Trước đây đã có thời trái đất không hề có sự sống, Rachel ạ. Thế rồi chỉ qua một đêm, các dạng sự sống phát triển ào ạt. Nhiều nhà sinh vật học cho rằng sự sống là kết quả của quá trình kết hợp kỳ diệu giữa một số yếu tố trong lòng biển nguyên thuỷ. Nhưng người ta chưa bao giờ tái tạo được giả thuyết đó trong phòng thí nghiệm, nên các nhà thần học đã chớp lấy cơ hội đó để khẳng định vai trò của Chúa, rằng không có sự sống nếu Chúa không thối sự sống vào biển nguyên thuỷ.
- Nhưng chúng ta nghiên cứu thiên văn học, - Corky tuyên bố, và đi đến kết luận về một cách giải thích khác hẳn cho sự phát triển có tính bùng nổ của sự sống trên trái đất.
- Thuyết đa sinh. - Rachel nhắc lại, lúc này cô đã hiểu họ đang nói về cái gì. Trước đây cô đã từng nghe nói về nội dung của thuyết này nhưng không biết tên của nó. - Thuyết cho rằng một tảng thiên thạch đã rơi xuống biển nguyên thuỷ, mang những mầm vi khuẩn xuống trái đất.
- Bing gô! - Corky nói. - Rồi chúng kết hợp với nhau và tạo ra sự sống.
- Và nếu thuyết đó đúng, - Rachel nói, - thì tổ tiên của sự sống trên trái đất và ngoài vũ trụ là một.
- Bing gô đúp!
Thuyết đa sinh, Rachel thầm nghĩ, không lột tả hết được ý nghĩa của nó. - Nghĩa là mẫu hoá thạch này không chỉ cho thấy có sự sống bên ngoài trái đất, mà nó còn chứng minh rằng thuyết đa sinh là đúng… Là sự sống bắt nguồn từ vũ trụ.
- Bing gô! - Corky hồ hởi gật đầu. - Về mặt kỹ thuật thì tất cả chúng ta đều là người ngoài hành tinh!. Ông ta đặt hai tay lên trán giả làm ăng ten, mắt nheo lại, lưỡi tắc tắc y như giôdng côn trùng.
Tolland nhìn Rachel cười đầy hàm ý:
- Và anh chàng này là sinh vật tiến hoá cao nhất đấy.
--25--
Bước đi trong bán sinh quyển với Michael Tolland, Rachel Sexton cảm tưởng như có lớp sương mù hư ảo đang bao vây lấy mình.
Corky và Ming đi sát đằng sau cô.
- Cô không sao chứ? Tolland nhìn cô và hỏi.
Rachel ngước lên nhìn ông ta, nở nụ cười yếu ớt.
- Cảm ơn ông. Chắc chỉ vì có quá nhiều sự kiện.
Cô nhớ lại một phát kiến của NASA vào năm 1996 – ALH 84001 - một thiên thạch từ sao Thuỷ mà NASA tuyên bố rằng có chứa các vi khuẩn hoá thạch. Buồn thay, chỉ vài tuần sau buổi họp báo ầm ĩ của NASA, một số nhà khoa học dân sự lên tiếng chứng minh rằng dấu vết của sự sống thực ra chỉ là cặn bã của dầu lửa tạo ra bởi sự ô nhiễm trên trái đất. Sai lầm đó đã khiến uy tín của NASA bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Tờ New York Time đã nhân cơ hội này châm biếm NASA và đặt cho nó cái tên mới: NASA - không phải lúc nào cũng chuẩn xác (NASA - NOT ALWAYS SCIENATFICALLY ACCURATE).
Cũng trong cùng số báo ấy, nhà cổ sinh học Steephn Jay Gould đã đúc kết lại toàn bộ vấn đề của phát kiến mang ký hiệu ALH84001 bằng cách chỉ ra rằng bằng chứng trên hòn đá chỉ là những hoá chất đã được dùng để suy diễn thái quá, chẳng phải là xương hay vỏ ngoài của sinh vật xa lạ nào hết.
Tuy nhiên, lần này NASA đã tìm ra những chứng cứ không thể chối cãi. Không một nhà khoa học đa nghi nào có thể lên tiếng để chất vấn những mẫu hoá thạch này. NASA lần này không trưng ra bức ảnh lờ mờ về hình dạng được cho là của một con vi khuẩn nữa họ đưa ra hẳn những mẫu đá mà trên đó người ta có thể dùng mắt thường quan sát những cấu trúc sinh học hiện lồ lộ trước mắt. Con chấy dài bằng bàn chân!
Rachel bật cười nhớ lại mình đã từng say mê bài hát Những con nhện sao Thuỷ của ca sĩ David Bowie đến mức nào. Chắc không từ ngữ nào có thể lột tả được niềm vui sướng vô bờ của chàng ca sĩ đồng tính người Anh đó khi anh ta được biết đến phát kiến này.
Trong khi lời và giai điệu của bài hát vẫn đang văng vẳng trong tâm trí Rachel thì Corky vượt lên đi bên cạnh cô.
- Mike đã khoe với cô về bộ phim tài liệu chưa?
- Chưa, - cô đáp, - nhưng tôi rất muốn được nghe.
Ông ta vỗ lưng Tolland:
- Kể đi. anh bạn. Hãy cho cô ấy biết vì sao Tổng thống Hoa Kỳ lại quyết định mời một chuyên gia bơi bằng ống thở làm bộ phửn tài liệu về thời khắc quan trọng nhất trong lịch sử khoa học tự nhiên đi.
Tolland hét lên:
- Thôi đi Corky, tôi xin anh đấy.
- Thôi được để tôi nói vậy. - Corky nói và len vào giữa hai người. - Có thể cô đã biết rằng tối nay Tổng thống sẽ tổ chức cuộc họp báo để công bố cho cả thế giới biết sự kiện trọng đại này. Và bởi vì phân nửa dân số thế giới chỉ là những kẻ thông minh nửa vời nên ông ấy đã yêu cầu Mike diễn giải câu chuyện này một cách đơn giản cho phù hợp với họ.
- Cảm ơn anh. Corky. Hay ho lắm. - Ông ta nói rồi quay sang nhìn Rachel - ý anh ấy là có quá nhiều dữ liệu khoa học khô khan thuần tuý cho nên Tổng thống tin, là một bộ phim tài liệu với những hình ảnh phong phú sẽ khiến cho đại đa số người Mỹ thấy dễ hiểu hơn, vì không phải ai cũng có bằng thạc sĩ và tiến sĩ về vật lý học.
- Cô biết không - Corky nói với Rachel. - Tôi còn nghe kể rằng Tổng thống Hoa Kỳ là fan hâm mộ ruột của Đại dương kỳ thú nữa kia. - Ông ta vừa nói vừa giả vờ lúc lắc cái đầu ra vẻ kinh ngạc - Zach Herney - kẻ thống trị cả thế giới - vẫn thường yêu cầu thư ký ghi lại các chương trình của Mike để xem cho thư gĩan sau những ngày làm việc căng thẳng cơ đấy.
Tolland nhún vai:
- Phải nói ông ta là người có gu đấy.
Lúc này Rachel càng thấy rõ kế hoạch của Tổng thống tỉ mỉ và tài tình đến mức nâo. Chính trị là một trò chơi trên các phương tiện truyền thông. Rachel có thể tưởng tượng trước cử tri cả nước sẽ thấy hào hứng đến thế nào khi khuôn mặt đáng tin cậy như Michael Tolland xuất hiện trong buổi họp báo. Zach Herney đã chọn đúng người cần chọn để quảng cáo cho phát kiến phi thường của NASA Những kẻ hoài nghi sẽ chẳng có cơ hội lên tiếng chỉ trích những dữ liệu của Tổng thống một khi chúng đã được đích thân các nhà khoa học tiếng tăm xác thực.
Corky nói tiếp:
- Để hoàn thành bộ phim tài liệu này, Mike đã phỏng vấn tất cả các nhà khoa học dân sự cũng như các chuyên viên của NASA. Tôi xin thề có huân chương danh dự của tôi rằng cô sẽ là nhân vật tiếp theo được phỏng vấn đấy.
Rachel quay sang ông ta:
- Tôi á? Ông đang nói cái gì vậy? Tôi làm gì có chút kiến thức chuyên môn nào! Tôi chỉ là chuyên viên tổng hợp tin thôi mà.
- Thế tại sao Tổng thống lại yêu cầu cô đến đây?
- Ông ta vẫn chưa nói cho tôi biết lý do.
Corky thoáng cười:
- Cô là chuyên viên sẽ tổng hợp và xác minh tin này cho Nhà Trắng đúng không nào?
- Đúng, nhưng không phải trên phương diện khoa học.
- Và cô còn là con gái của chính người đang xây dựng cương lĩnh tranh cử dựa trên vấn đề chi tiêu của NASA, đúng không?
Rachel bắt đầu hiểu ra vấn đề.
- Thưa cô Sexton, phải thừa nhận rằng những lời do chính cô nói ra sẽ làm cho bộ phim tài liệu có thêm sức thuyết phục. Nếu Tổng thống đã mời cô đến đây thì chắc chắn ông ấy sẽ yêu cầu cô tham gia đấy.
Rachel một lần nữa nhớ đến lời phỏng đoán của William Pickering rằng cô sẽ bị lợi dụng.
Tolland nhìn đồng hồ đeo tay:
- Chúng ta đi thôi, chắc sắp kéo được lên rồi đấy.
- Kéo được lên cái gì cơ? - Rachel hỏi.
- NASA đang cho kéo tảng thiên thạch đó lên. Chắc sắp lên đến mặt đất rồi.
- Các ông cho kéo lên tảng đá nặng tám tấn đang bị chôn sâu dưới 200 foot băng đá ư?
Corky trông đầy hào hứng:
- Chẳng lẽ cô tưởng NASA định bỏ tàng đá hi hữu này nằm im ở chỗ mà họ đã phát hiện ra nó ư?
- Không, nhưng… - Không có dấu hiệu nào cho thấy người ta đang tổ chức trục vớt tảng đá đó lên hết. - Thế NASA định kéo nó lên bằng cách nào?
Ông ta liền đáp:
- Chuyện nhỏ! Cô nên nhớ rằng quanh đây có vô số nhà khoa học chuyên về tên lửa đấy.
- Bậy nào! - Ming mắng ông ta và quay sang nói với Rachel - Bác sĩ Marlinson rất thích trêu chọc mọi người. Sự thật là mọi người đã phải bàn cãi về chuyện làm thế nào để đưa được tảng đá đó lên. Và tiến sĩ Mangor đã đưa ra một biện pháp rất khả thi.
- Tôi chưa được gặp tiến sĩ Mangor.
- Nhà băng hà học tại Trường Đại học New Hampshire đấy.
Tolland nói tiếp.
- Đó là nhà khoa học dân sự thứ tư và là người bên ngoài cuối cùng được Tổng thống mời đến. Và ông Ming nói đúng đấy chính Mangor đã có phương pháp khả thi.
- Thế à? - Rachel nói. Thế anh chàng đó đã đưa ra phương pháp gì vậy.
- Anh chàng à? - Ông Ming cười thoảng - tiến sĩ Mangor là một phụ nữ đấy.
- Cái đó còn phải bàn thêm đã. - Corky làu bàu và quay sang Rachel - Tiện thể xin báo trước là tiến sĩ Mangor sẽ ghét cô cho mà xem.
Tolland nhìn Corky đầy bực bội.
- Này, tôi đảm bảo thế đấy!. Ông ta vẫn khăng khăng. - Cô ta đâu có thích phải cạnh tranh.
Rachel chẳng hiểu tí gì:
- Tôi không hiểu, cạnh tranh gì cơ?
Tolland bảo cô:
- Cô đừng để ý làm gì cho mệt. Đáng tiếc là Hội đồng Khoa học Quốc gia quên không thẩm định một sự thật rằng Corky vẫn còn là một đứa trẻ vị thành niên. Cô và tiến sĩ Mangor sẽ hợp nhau ngay thôi. Cô ấy là người rất giỏi việc và được tôn vinh là một trong những chuyên gia băng hà học hàng đầu thế giới. Cách đây mấy năm, cô ấy còn đến tận Nam Cực để nghiên cứu sự trôi dạt của băng hà nữa cơ.
- Lạ thật. - Corky nói, - tôi nghe nói bên Đại học New Hampshire đã đóng tiền để cử cô ta xuống đó để họ được yên ổn một thời gian đấy chứ.
- Lại còn thế này nữa chứ, - tiến sĩ Ming nghiêm trang nói - tiến sĩ Mangor còn suýt nữa mất mạng ở đó nữa đấy! Cô ấy gặp bão, bị lạc và phải sống bằng mỡ cá voi những năm tuần liền rồi mới được tìm thấy.
Corky thì thầm vào tai Rachel:
- Nghe nói chẳng ai chịu đi tìm cô ta cả.
--26--
Ngồi chung xe với ngài Thượng nghị sĩ, Gabrielle Ashe cảm tưởng con đường từ đài CNN trở về dài hơn hẳn lệ thường. Trên cùng hàng ghế với cô. Thượng nghị sĩ đang nhìn ra ngoài đường, rõ ràng rất hả hê về cuộc tranh luận vừa rồỉ.
- Họ lại phái Tench đi tranh luận trên truyền hình chiều nay nữa. - Ông ta nở một nụ cười rất điển trai nhìn Gabrielle - Nhà Trắng sợ thật rồi.
Gabrielle gật đầu, nhưng bụng không đồng tình. Khi Marjorie lên xe, cô thoáng nhìn thấy vẻ mặt thoả mãn của bà ta. Vẻ mặt ấy khiến Gabrielle lo lắng.
Điện thoạỉ cầm tay của ngài Thượng nghị sĩ đổ chuông, ông vội lục túi. Giống như những chính trị gia khác, Sexton có vài số điện thoại khác nhau, tuỳ tầm quan trọng của đối tác mà ông chọn số để cho họ. Người đang gọi lúc này được xếp vào loại quan trọng bậc nhất; vì được ông cho số cá nhân, số mà đến cả Gabrielle cũng còn ngần ngại mỗi khi phải gọi.
- Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton xin nghe. - Giọng ông du dương.
Vì trong xe khá ầm ĩ nên Gabrielle không thể nghe thấy tiếng của người gọi, nhưng ngài Thượng nghị sĩ thì nghe rất chăm chú và hồ hởi trả lời.
- Tuyệt lắm. Tôi rất hài lòng nhận được điện của anh. 6 giờ có được không? Tuyệt. Tôi có một căn hộ ở ngay thủ đô Washington. Kín đáo. Tiện nghi. Anh có địa chỉ rồi đúng không?
- Thế thì hẹn gặp tối nay.
Sexton tắt máy, đầy vẻ mãn nguyện.
- Một fan hâm mộ mới của Thượng nghị sĩ à? - Gabrielle hỏi.
- Số lượng fan đang tăng theo cấp số nhân. - Ông trả lời. - Đây là một gã rất nặng ký.
- Hẳn rồi. Gặp ngài tại nhà riêng?
Sexton vẫn thường bảo vệ sự riêng tư của mình chẳng khác nào một con sư tử bảo vệ nơi trú ẩn duy nhất của nó. Ông nhún vai:
- Ừ. Tôi muốn tạo mối quan hệ thân tình. Một khoảng thời gian riêng tư sẽ rất có lợi. Thỉnh thoảng cũng rất cần những mối quan hệ cá nhân kiểu này, cô biết không. Để tạo dựng niềm tin ấy mà.
Gabrielle gật đầu, lôi lịch trình làm việc của Thượng nghị sĩ ra xem.
- Có xếp ông ta vào lịch làm việc không ạ?
- Khỏi cần, đằng nào tối nay tôi cũng định chỉ ở nhà thôi.
Gabrielle tìm thấy trang lịch ngày hôm nay và Thượng nghị sĩ đã viết tay hai chữ P.E. vào ô buổi tối, có thể là chữ viết tắt của việc riêng – "buổi tối riêng tư", hoặc "mặc xác thiên hạ" - không ai biết chắc từ chính xác trong đầu ông là gì. Thỉnh thoảng Thượng nghị sĩ vẫn dành cho mình một buổi tối P.E. - trong căn hộ riêng ấy tắt bỏ điện thoại và tận hưởng thú vui riêng của mình - nhấm nháp rượu Brandy cùng vài người bạn cũ và gạt hẳn chính trị ra khỏi đầu.
Gabrielle nhìn ông ngạc nhiên:
- Thế là Thượng nghị sĩ để cho công việc xen vào những buổi tối đặc biệt được đánh dấu P.E. - ấn tượng thật.
Một hôm tôi đã tình cờ gặp gã này trong lúc rảnh rỗi. Và chúng tôi đã chuyện trò một lúc. Có vẻ rất hợp nhau.
Gabrielle rất muốn hỏi xem người bí ẩn vừa gọi là ai, nhưng Thượng nghị sĩ tỏ ra không muốn tiết lộ. Cô đã học được thói quen không tọc mạch khi không phải lúc.
Chiếc xe rẽ ra khỏi đường vành đai và hướng về phía văn phòng của Sexton. Gabrielle liếc nhìn tờ thời gian biểu lần nữa và chợt linh cảm rằng Thượng nghị sĩ đã biết trước sẽ có cuộc gọi này.
--27--
Một giàn giáo ba chân cao khoảng 18 foot làm bằng vật liệu composit được dựng lên trên nền băng, bên trong bán sinh quyển, trông nửa giống tháp Effel, nửa giống giàn khoan dầu. Rachel quan sát và không thể tưởng tượng nổi làm thế nào mà giàn giáo này có thể kéo được tảng đá lên.
Bên dưới giàn giáo, mấy chiếc tời đã được vít vào những đĩa thép gắn chặt vào nền băng bằng bu lông. Những sợi dây cáp lớn được lồng vào chiếc tời và một loạt ròng rọc phía trên cao. Từ những chiếc ròng rọc ấy, các sợi cáp buông thẳng xuống những lỗ khoan trên băng dưới chân giàn giáo. Mấy nhân viên lực lưỡng của NASA lần lượt kéo căng sợi dây cáp. Mỗi lần kéo, sợi dây lại nhích lên vài inch, chẳng khác gì những thuỷ thủ đang kéo dây neo.
Chắc chắn mình đang bỏ sót một chi tiết nào đó rất quan trọng, Rachel thầm nghĩ khi cùng mọi người đến gần giàn giáo. Có vẻ như những anh chàng này đang kéo tảng đá lên xuyên qua băng.
- Mẹ kiếp, đều tay vào! - Một giọng nữ thé thé cất lên.
Rachel ngước mắt lên và thấy một phụ nữ mặc bộ quần áo ấm màu vàng dính đầy dầu mỡ. Dù chị ta đang quay lưng vê phía mình, Rachel đoán ra ngay đây là người đang chỉ đạo toàn bộ nhóm người này. Vừa ghi ghi chép chép, chị ta vừa oai vệ đi tới đi lui y như một huấn luyện viên đang cơn thịnh nộ.
- Đồ đàn bà các anh chỉ được cái suốt ngày kêu mệt!
Corky gọi lớn:
- Norah ơi, đừng bắt nạt mấy anh chàng tội nghiệp đó nữa, ra đây vui vẻ với anh nào!
Chị ta không thèm quay lại:
- Lại Marlinson hả? Nghe giọng nói eo éo là nhận ra ngay! Về ăn no cho lớn đã rồi quay lại đây nói chuyện với chị nhé!
Corky quay sang nói với Rachel:
- Đấy, cô ta là thế đấy.
- Tôi nghe thấy đấy nhá, anh chàng thiên văn học kia. - Tiến sĩ Mangor đốp lại, vẫn không ngừng ghi ghi chép chép - Nếu anh định sờ đít tôi thì nhớ là riêng cái quần đã nặng 30 pound rồi đấy.
- Đừng nghĩ thế - Corky cũng nói lớn - anh không say mê cặp mông của em đâu, anh yêu tính đanh đá cá cầy của em cơ!
- Thế à?
Corky cười lớn:
- Này Norah, tin buồn đây, em không phải là phụ nữ duy nhất được Tổng thống mời đến đây đâu.
- Dĩ nhiên. Tổng thống mời cả anh nữa còn gì.
Tolland giờ mới lên tiếng:
- Norah, xuống đây một chút, anh giới thiệu với em một người nào.
Nghe thấy giọng Tolland, Norah lập tức dừng tay và quay lại.
Dáng vẻ đanh đá của chị ta cũng biến mất ngay tức khắc.
- Mike! Mấy tiếng rồi em chưa nhìn thấy anh đấy! - Mặt cô ta sáng bừng lên.
- Anh phải chỉnh sửa bộ phim.
- Đoạn phỏng vấn em thế nào?
- Trông em rất xinh đẹp.
- Nhờ có các kỹ xảo đặc biệt đấy. - Corky nói chêm vào.
Khuôn mặt nhăn nheo của Tolland hơi ửng đỏ lên khi ông ta giới thiệu:
- Norah, anh xin giới thiệu với em: Rachel Sexton. Cô Sexton làm bên tình báo và đến đây theo lời mời của Tổng thống. Cha cô ấy chính là Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton.
Lời giới thiệu làm Norah có vẻ hơi bất ngờ.
- Tôi không có ý định giả vờ hiểu tất cả những gì ông ấy vừa nói đâu nhé. - Chị ta không buồn cởi găng tay ra khi chìa ra bắt tay Rachel một cách khá hờ hững. - Chào mừng cô đến nơi tận cùng của trái đất.
Rachel mỉm cười. Cô ngạc nhiên thấy Norah Mangor có vẻ mặt khôn ngoan và đáng yêu, dù điệu bộ có hơi đanh đá. Mái tóc xám của chị ta được cắt ngắn trông khá sinh động, và hai con mắt thì rất sắc sảo và tinh tường - hai viên pha lê trong suốt. Rachel thích vẻ tự tin của người phụ nữ này.
- Norah, - Tolland bảo chị ta - Em có thể bớt chút thì giờ để giải thích cho Rachel hiểu công việc em đang làm không?
Norah nhướng lông mày:
- Đã có hai ông anh đây làm việc đó rồi còn gì nữa? Anh ơi là anh!
Corky rên lên:
- Thấy chưa Mike? Tôi đã bảo cậu rồi mà.
Norah dẫn Rachel đi quanh giàn giáo xem xét, còn Tolland và những người khác vừa đi vừa nói chuyện phía sau.
- Cô có nhìn thấy những lỗ khoan bên dưới giàn giáo này không? - Norah giơ tay chỉ, giọng nói chát chúa vừa rồi giờ chuyển thành say sưa khi chị ta kể về công việc đang tiễn hành.
Rachel gật đầu, nhìn sâu xuống bên dưới những lỗ khoan. Mỗi lỗ có đường kính khoảng một foot và đều có một sợi dây cáp được giòng qua.
Đó là những lỗ khoan còn lại khi chúng tôi khoan lấy mẫu đá và chụp X quang tảng thiên thạch. Bây giờ chúng tôi tận dụng những lỗ khoan này để giòng móc sắt xuống và bắt vít vào tảng đá. Sau đó thả những sợi cáp sắt dài khoảng hai trăm foot xuống để khớp vào các móc sắt đó, và giờ đây chỉ cần kéo lên là xong. Mấy anh chàng ẻo lả kia sẽ phải kéo khoảng hai tiếng đồng hồ nữa thì tảng đá mới lên được.
- Có một chỗ tôi chưa hiểu. - Rachel nói. - Tảng đá bị chôn sâu dưới lớp băng đá rất dày cơ mà. Làm sao mà kéo lên được?
Norah đưa tay chỉ luồng sáng màu đỏ tươi chiếu thẳng từ đỉnh giàn giáo xuống một lỗ nhỏ. Rachel đã nhìn thấy luồng sáng đó từ trước nhưng lại ngỡ đó chỉ là chiếc đèn thông thường dùng để đánh dấu vị trí làm việc của họ, vị trí của viên đá.
- Đó là chiếc đèn bán dẫn chiếu tia laze. - Norah nói.
Rachel quan sát luồng sáng kỹ hơn và nhận thấy đúng là nó đã khiến cho băng chảy nước, tạo thành một lỗ thủng nhỏ xíu, và những tia sáng đỏ chiếu xuống tận tít bên dưới.
- Luồng sáng đó rất nóng. - Chị ta nói. Chúng tôi vừa nung nóng tảng thiên thạch vừa kéo lên từng tí một.
Rachel kinh ngạc hiểu ra kế hoạch của người phụ nữ này vừa đơn giản vừa thông minh đến mức nào. Norah chỉ cần chiếu luồng sáng ấy xuống băng cho đến khi nó khoan được một lỗ thủng xuyên qua lớp băng dày và nung nóng tảng thiên thạch. Tảng đá không thể bị chùm tia làm cho nóng chảy, nhưng nó hấp thu nhiệt lượng của tia laze, ấm lên, và làm cho băng bao quanh nó tan chảy ra. Trong khi các chàng trai của NASA kéo nó lên, cả sức ép lẫn nhiệt lượng của tảng đá sẽ khiến băng tan, tạo thành lối lên cho chính nó. Lượng băng tan thành nước sẽ chảy xuống lấp đầy lỗ hổng phía bên dưới tảng thiên thạch khổng lồ. - lấp đầy chỗ trống.
Giống như dùng con dao nóng để cắt một khoanh bơ.
Norah chỉ tay vào những chàng nhân viên của NASA:
- Vì máy cũng không thể chịu được sức nặng của tảng đá này nên tôi phải dùng sức người.
- Xạo đấy! - Một trong những anh chàng đang làm việc nói xen vào - Vì chị ta muốn chúng tôi phải nhễ nhại mồ hôi nên mới bịa ra thế này!
- Làm gì mà nóng thế, - Norah không chịu kém cạnh - Mấy anh chàng ỏn ẻn nhà anh chả kêu lạnh suốt mấy hôm nên tôi mới phải ra tay cứu chữa cho chứ. Kéo tiếp đi.
Tất cả bọn họ cười phá lên.
- Những chóp nhọn kia dùng làm gì? - Rachel hỏi và chỉ vào những chiếc cọc hình chóp màu cam trông như cọc tiêu trên đường cao tốc xếp quanh chân giàn giáo chẳng theo một trật tự nào. Cô cũng đã nhìn thấy những chiếc cọc tương tự được xếp xung quanh toà nhà.
Đó là loại dụng cụ điển hình của giới băng hà học. - Norah trả lời. Chúng tôi gọi là SHABA. Dùng để báo cho mọi người biết nguy hiểm. Cô nhấc một chiếc cọc lên, để lộ ra lỗ khoan hình tròn sâu hoắm xuống trên mặt băng. - Không nên dẫm chân vào đây.
Rồi chị ta để lại chiếc cọc vào chỗ cũ. - Chúng tôi phải khoan băng để kiểm tra độ tiếp nối cấu trúc của nó. Tương tự như bên ngành khảo cố học, niên đại của một vật thường được quy định bởi độ dày của những lớp bao phủ bên trên nó. Càng ở dưới sâu thì niên đại của nó càng lớn. Do đó, chúng tôi tính toán lớp băng phủ lên trên một vật để tìm ra niên đại chính xác của vật đó. Cần phải tiến hành khoan những vị trí khác nhau trên cùng một bề mặt để đảm bảo rằng đây là một phiến băng liền, chưa một lần bị ảnh hưởng của động đất, khe nứt, tuyết lở, vân vân…
- Thế các vị thấy dòng sông băng này thế nào?
- Hoàn hảo. - Norah đáp. - Một phiến băng liền hoàn hảo. Không một dấu vết dị thường nào. Vì thế chúng tôi xếp tảng thiên thạch này vào loại "rơi êm". Nó đã nằm yên trong sông băng, không động cựa, không ai chạm đến suốt từ năm 1716.
Rachel lại hỏi:
- Làm thế nào mà biết được chính xác đến từng năm?
Câu hỏi dường như khiến Norah ngạc nhiên.
- À, đó chính là lí do người ta đã mời tôi đến đây đấy. Tôi biết đọc băng mà. - Chị ta chỉ tay vào một dãy những chiếc cọc hình nón trên băng. Cọc nào trông cũng giống như một trạm điện thoại công cộng, lại có cắm những lá cờ màu da cam ở trên. Những lỗ khoan kia chính là bảng ghi chép của băng đấy. - Rồi Norah dẫn Rachel đến bên một chiếc cọc - Nếu nhìn kỹ sẽ thấy có những lớp khác nhau.
Rachel cúi xuống và bất ngờ nhìn thấy dường như có những lớp băng với độ dày mỏng, độ sáng và trong suốt khác nhau. Có tầng chỉ mỏng bằng tờ giấy, có tầng dày đến gần một inch.
Cứ sau mỗi mùa đông thì phiến băng lại có thêm một lớp tuyết mới. - Norah nói. Và mỗi mùa xuân nó lại tan đi mất một lớp. Cho nên mỗi lớp là dấu vết của một năm. Người ta thường bắt đầu đếm tử lớp, trên cùng, tức là từ mùa đông sau cùng.
- Giống như đếm những vòng tròn trong một thân cây phải không?
- Không hoàn toàn đơn giản như vậy, cô Sexton ạ. Trong trường hợp này ta phải đo đạc những lớp chồng lên nhau dày tới cả trăm foot cần phải lấy các dấu hiệu khí hậu học làm chuẩn - lượng tuyết rơi, các chất ô nhiễm trong không khí, đại loại như thế.
Lúc này thì Tolland và những người khác đến bên họ. Ông ta mỉm cười nói với Rachel:
- Cô thấy hiểu biết của cô ấy về băng tuyết có đáng nể không?
- Thật kỳ lạ! - Rachel cảm thấy vui sướng khi được gặp lại ông ta. - Đúng thế chị ấy vô cùng hiểu biết.
- Và nhân tiện xin nói thêm, con số 1917 mà Norah đưa ra là hoàn toàn chính xác. NASA cũng đã tìm ra đúng con số đó trước khi chúng tôi đặt chân tới nơi này. Tiến sĩ Mangor đã tự khoan băng, tự tiến hành kiểm tra, và làm việc độc lập khi xác minh phát kiến của NASA.
Điều này quả là ấn tượng.
- Còn một sự trùng lặp ngẫu nhiên nữa. - Norah nói thêm - 1716 cũng chính là năm mà những nhà thám hiểm đầu tiên ghi nhận hiện tượng một quả cầu lửa lớn rơi xuống phía bắc Canada. Tảng thiên thạch này ngày ấy đã được đặt tên là "Jungersol Fall" - tên của người dẫn đầu đoàn thám hiểm đó.
- Vì thế - Corky nói tiếp. - niên đại của tảng đá và các sự kiện lịch sử là những bằng chứng để chứng minh rằng chúng ta đang xem xét chính tảng thiên thạch mà Jungersol đã quan sát được năm 1716.
- Tiến sĩ Mangor ơi! - Một trong những anh chàng đang kéo tời kêu lớn:
- Nhìn thấy chiếc khoá yếm trên cùng rồi đây này!
- Sắp xong việc rồi đây, các chàng trai. - Norah nói. - Giây phút lịch sử đây!
Chị ta trèo lên chiếc ghế ngay cạnh đó và lấy hết sức nói thật to:
- Năm phút nữa thôi, hỡi anh em!
Từ khắp mọi ngóc ngách trong bán sinh quyển, y như bầy chó của Pavlov nghe thấy tiếng chuông báo giờ cho ăn, các nhà khoa học bỏ hết những việc đang làm và đổ về khu vực giàn giáo.
Norah Mangor hai tay chống nạnh nói:
- Nào, chúng ta cùng kéo Titanic lên nào.
