Tác giả: Dan Brown
--122--
Vẫn mặc nguyên bộ đồ ngủ, Zach Herney đang ngồi bên bàn làm việc, trong phòng bầu dục, đầu ong ong. Ông vừa được thông báo về một rắc rối mới.
Marjorie Tench đã chết.
Các trợ lý của Herney nói rằng họ có thông tin cho thấy Tench đã lái xe đến đài tưởng niệm FDR để gặp riêng William Pickering.
Giờ đây, khi cả Pickering cũng mất tích, mọi người đang lo rằng cả ông ta cũng đã bị sát hại.
Gần đây, Tổng thống đã có những bất đồng đáng kể đối với Pickering. Cách đây mấy tháng, ông được biết Pickering đã mượn danh ông để làm một số chuyện phi pháp với lí do là để bảo vệ cho uy tín của Tổng thống đang tạm thời bị uy hiếp.
Sử dụng phương tiện và nhân lực của NRO, Pickering đã bí mật thu thập khá nhiều thông tin về sự đồi bại của Thượng nghị sĩ Sexton, đủ để đánh đắm chiến dịch tranh cử của ông ta - những bức ảnh chụp ông Thượng nghị sĩ đang giao hoan với trợ lý thân tín Gabrielle Ashe, những con số và tài liệu chứng minh Sexton đã nhận tiền hối lộ của các công ty vũ trụ tư nhân.
Pickering đã nặc đanh gửi tất cả những tài liệu đó đến cho Tench và cho rằng Nhà Trắng sẽ sử dụng chúng một cách khôn ngoan. Nhưng ngay khi nhìn thấy những tài liệu ấy, Tổng thống đã cấm tuyệt đối không cho Tench được động đến chúng.
Những vụ bê bối tình ái và nhận tiền hối lộ chẳng khác nào căn bệnh ung thư của thành phố Washington này, và đem công khai thêm một vụ nữa chỉ càng làm người dân mất lòng tin vào Chính phủ mà thôi…
Sự hoài nghi sẽ huỷ hoại đất nước này.
Dù biết rằng mình có thể đánh bại đối thủ, nhưng Herney từ chối làm điều đó, vì cái giá phải trả sẽ là thanh danh hoen ố của Thượng nghị viện Hoa Kỳ.
Không dùng các biện pháp tiêu cực, Herney sẽ chiến thắng Sexton bằng các phương cách khác.
Tức tối khi thấy Nhà Trắng không sử dụng những tài liệu mình công bố, Pickering đã tự tay xì thông tin cho cánh báo chí rằng Sexton đã ăn nằm với Gabrielle Ashe. Rủi thay, Sexton đã khẳng định sự vô tội của ông ta một cách thuyết phục và đầy công phẫn đến nỗi chính Tổng thống đã phải lên tiếng xin lỗi. Rốt cuộc thì William Pickering chỉ gây thêm thua thiệt. Và Herney đã nói thẳng với Pickering rằng nếu còn tiếp tục can thiệp thô bạo kiểu đó nữa thì ông ta sẽ bị truy tố. Khôi hài là ở chỗ William Pickering chẳng yêu mến gì Tổng thống Herney. Những nỗ lực của Giám đốc NRO chẳng qua là để cứu nguy cho NASA. Trong số hai con quỷ thì Herney có vẻ ít hung dữ hơn.
Chẳng lẽ có kẻ đã sát hại Pickering rồi sao?
Herney không thể tin nổi.
- Thưa Tổng thống. - Một trợ lý lên tiếng. - Theo lệnh của Tổng thống, tôi đã liên lạc với Lawrence Ekstrom và thông báo với ông ấy chuyện của Marjorie Tench.
- Cảm ơn anh.
- Ông ấy muốn nói chuyện với Tổng thống.
Herney vẫn còn rất giận Ekstrom vì đã nói dối về PODS. - Bảo ông ta là sáng mai tôi mới có thời gian.
- Ông Ekstrom muốn nói chuyện với Tổng thống ngay bây giờ ạ? - Người trợ lý có vẻ miễn cưỡng. - Trông ông ấy rất lo lắng!
- Ông ta lo lắng sao? - Herney không thể kìm chế nổi cơn giận dữ.
Vừa sải bước đến bên máy điện thoại, ông vừa băn khoăn không hiểu ông ta còn có điều gì muốn nói nữa đây.
--123--
Trên boong tàu Goya, Rachel thấy đầu óc quay cuồng. Màn sương mờ bí hiểm bao quanh sự kiện đang dần được vén lên. Sự thật quá bất ngờ khiến Rachel cảm thấy chới với và phẫn nộ. Nhìn con người xa lạ trước mặt, cô thấy căm ghét giọng nói của ông ta.
- Chúng ta cần phải tạo dựng lại hình ảnh cho NASA.
Pickering nói tiếp - Sự xói mòn lòng tin và cắt giảm ngân sách đã gây ra rất nhiều hậu quả nguy hiểm. - Pickering ngừng lời một lúc đôi mắt mầu xám nhìn như thể muốn thôi miên Rachel. - NASA cần có một thắng lợi, rất cần. Và phải có người tạo nên thắng lợi đó cho họ.
Cần phải hành động, Pickering thầm nghĩ.
Tảng thiên thạch thực ra là một nước đi tuyệt vọng. Pickering và nhiều người khác đã cố cứu NASA bằng cách vận động hành lang để sáp nhập cơ quan này vào chung một cộng đồng an ninh với họ để nó có thể được hưởng một nguồn ngân sách dồi dào hơn, tuy nhiên Nhà Trắng hết lần này đến lần khác từ chối với lý do rằng họ có ý đồ can thiệp vào các hoạt động nghiên cứu khoa học thuần tuý. Những lý tưởng thiển cận. Khi những luận điệu chống NASA của Sexton ngày càng chiếm được sự đồng cảm của công luận Pickering và những nhà quân sự khác biệt rằng họ không còn nhiều thời gian nữa. Tất cả đều đồng tình rằng đánh vào trí tưởng tượng của công chúng cũng như Nghị viện là cách duy nhất còn lại để giải quyết vấn đề. Để duy trì sự tồn tại của nó, trình nghiên cứu vũ trụ quốc gia cần có một luồng sinh khí mới vĩ đại - một cái gì đó để gợi cho công chúng nhớ lại những năm tháng huy hoàng thời con tàu Apollo. Và Herney cũng cần có sự trợ giúp, để có thể đánh bại được Thượng nghị sĩ Sexton.
Mình đã cố hết sức để giúp ông ấy, Pickering tự nhủ khi nhớ đến tất cả những tài liệu ông đã giao cho Marjorie Tench. Thật đáng tiếc Zach Herney đã không cho phép bà ta sử dụng những bằng cớ đó. Không còn cách nào khác, Pickering đành phải dùng đến biện pháp mạnh.
- Rachel này - Pickering nói - những thông tin mà cô vừa fax đi, quả thật rất nguy hiểm. Cô phải hiểu điều đó. Nếu những thông tin này lộ ra ngoài, cả NASA lẫn Tổng thống sẽ bị coi là những kẻ đồng loã. Người ta sẽ phản ứng rất dữ dội. Tổng thống và NASA không biết gì hết, Rachel ạ. Họ vô tội. Chính họ cũng tin rằng tảng thiên thạch đó là thật.
Pickering không hề có ý định để Herney hay Ekstrom biết sự thật về kế hoạch này. Họ quá lý tưởng, và chắc chắn sẽ không chấp nhận hành động dối trá này, dù rất có lợi cho NASA và thắng lợi của Tổng thống. Tội lỗi duy nhất của Giám đốc NASA Ekstrom chỉ là thuyết phục Giám đốc Dự án PODS nói dối về phần mềm bị lỗi của họ. Chắc chắn ông ta sẽ rất lấy làm ân hận khi thấy tảng thiên thạch này bị săm soi kỹ đến thế.
Phẫn nộ trước đường hướng tranh cử tích cực của Tổng thống, Marjorie Tench đã hiệp lực với Lawrence Ekstrom trong vụ lừa dối về phần mềm của PODS. Hi vọng của họ là sự kiện này sẽ giúp Tổng thống giành lại vị thế trước những đòn tấn công liên tiếp của Sexton.
Nếu Tench chịu sử dụng những bức ảnh và những tài liệu về tài chính mà mình cung cấp thì những chuyện này đâu có xảy ra!
Cái chết của Tench, dù quả là vô cùng đang tiếc, đã được quyết định ngay khi Rachel gọi điện cho bà ta để thông báo về những dữ liệu không chính xác. Pickering biết rằng bà ta sẽ cho điều tra đến cùng để tìm cho được mục đích thật sự của Rachel, và ông không thể để cuộc điều tra đó diễn ra. Nực cười là ở chỗ bà ta càng có ích cho Tổng thống sau cái chết ấy. Chết đi như thế, bà ta sẽ khiến cho nhiều người vì thương cảm mà bỏ phiếu cho Tổng thống, và cũng sẽ khiến cho công chúng nghi ngờ, rằng chính Thượng nghị sĩ Sexton đã chơi xấu sau khi bị bà ta đẩy vào tình thế quá nhục nhã trên kênh CNN.
Rachel vẫn không thay đổi thái độ, cô nhìn thẳng vào mắt Giám đốc của mình.
- Cô hãy hiểu rằng nếu những tin này lọt ra ngoài, cô sẽ làm hại Tổng thống vô tội và một tổ chức cũng vô tội như thế. Và cô cũng sẽ góp phần đẩy một phần tử rất nguy hiểm vào chiếc ghế Tổng thống. Hãy cho tôi biết cô đã fax tài liệu cho ai?
Sắc mặt Rachel chợt thay đổi khi ông ta nói đến đó - vẻ mặt của người đang kinh hoàng và đau đớn khi nhận ra sai lầm nghiêm trọng của bản thân mình.
o O o
Sau khi đi qua mũi tàu và sang đến mạn phải, Delta Một lúc này đang đứng trong phòng thí nghiệm. Lúc máy bay mới đến, anh thấy Rachel từ đây bước ra. Màn hình máy tính trong phòng đang hiển thị những hình ảnh khiến người ta khó có thể an lòng - một xoáy nước sâu đầy màu sắc sặc sỡ đang hoạt động dữ đội đâu đó bên dưới còn tàu Goya.
Thêm một lý do nữa để biến khỏi nơi này, anh thầm nghĩ, thẳng tiến tới mục tiêu của mình…
Trên cái bục nhỏ, ở sát mảng tường đối diện, anh nhìn thấy máy fax. Trên khay máy có một xấp giấy, đúng như Pickering đã dự đoán Delta Một cầm lấy xấp giấy ở trên cùng là những chữ viết tay của Rachel. Chỉ có hai dòng. Anh đọc lướt.
Trúng vấn đề ghê, anh thầm nghĩ.
Xem lướt qua tập tài liệu, anh vừa ngạc nhiên vừa thán phục những gì liên quan đến tảng thiên thạch giả mà Tolland và Rachel đã phanh phui ra được. Đọc những trang giấy này, không ai còn có thể mảy may nghi ngờ. Không cần ấn nút "quay lại số" - Delta Một cũng thấy ngay bản fax vừa rồi được gửi tới đâu. Số fax mới nhất vẫn còn hiện nguyên xi trên màn hình LCD.
Một số máy ở thủ đô Washington.
Anh thận trọng ghi lại số máy đó, cầm toàn bộ xấp tài liệu, rồi ra khỏi phòng thí nghiệm.
Tolland chĩa súng máy vào giữa ngực William Pickering, hai bàn tay nhớp nháp mồ hôi xiết chặt lấy khẩu súng. Giám đốc NRO vẫn tiếp tục thuyết phục Rachel cho ông ta biết cô vừa gửi thông tin cho ai, và Tolland bắt đầu cảm thấy bất an. Rõ ràng là ông ta đang lấy cớ để kéo dài thơi gian. Để làm gì?
- Nhà Trắng và NASA hoàn toàn vô tội. - Pickering nhắc lại. - Hãy hợp tác với tôi. Đừng để những sai lầm của cá nhân tôi huỷ hoại nốt chút danh tiếng ít ỏi còn lại của NASA. Nếu tin này lọt ra ngoài thì cả thế giới sẽ cho rằng NASA là kẻ chủ mưu. Chúng ta cần phải thoả hiệp một chút. Tổ quốc cần tảng thiên thạch đó. Lúc này vẫn còn chưa muộn. Hãy cho tôi biết cô đã fax thông tin cho ai.
- Để ông lại giết thêm một người nữa à? - Rachel nói. - Ông khiến tôi thấy buồn nôn.
Thái độ bất khuất của Rachel khiến Tolland kinh ngạc. Cô khinh bỉ cha mình, nhưng không hề có ý định đặt ông ta vào bất kỳ tình huống nguy hiểm nào. Thật đáng tiếc, động thái này của Rachel không mang lại hiệu quả mong muốn. Giả sử ngài Thượng nghị sĩ có mặt tại văn phòng, đọc bản fax, sau đó gọi điện cho Tổng thống để khẳng định rằng tảng thiên thạch chỉ là giả mạo và yêu cầu ông ta lệnh cho đội đặc nhiệm dừng tay ngay lập tức thì Nhà Trắng cũng không thể hiểu nổi Sexton đang ở đâu và đang nói về cái gì.
- Tôi chỉ nhắc lại một lần này nữa thôi. - Pickering nói, mắt nhìn Rachel đay hăm doạ. - Tình thế lúc này vô cùng phức tạp và cô không thể hiểu hết được. Cô đã phạm phải sai lầm trầm trọng khi fax những thông tin ấy. Cô vừa đặt cả quốc gia trong vòng nguy hiểm.
Mục đích duy nhất của William Pickering chỉ là kéo dài thời gian, lúc này Tolland đã hiểu ra. Có một kẻ đang từ mạn phải lừ lừ tiến lại. Trông thấy tên lính đó cầm trên tay xấp tài liệu và khẩu súng máy, ông chợt thấy sợ.
Phản ứng tức thì và quyết liệt của Tolland khiến chính bản thân ông phải ngỡ ngàng. Vẫn giữ chặt khẩu súng, ông quay về phía tên lính, và xiết cò.
Chỉ có một tiếng cách vang lên.
- Tôi đã tìm được số máy đó. - Delta-Một nói, đưa xấp tài liệu cho Pickering. - Và ông Tolland hết đạn rồi.
--124--
Sedgewick Sexton lao ngay đến toà văn phòng Thượng viện Philip A. Hart. Không hiểu bằng cách nào mà Gabrielle đã vào được văn phòng của ông. Khi nói chuyện với cô ta trên điện thoại. Ông nghe rõ mồn một tiếng tích tắc nhịp ba rất đặc trưng của đồng hồ treo tường Jordain. Chắc chắn là sau khi nghe lỏm cuộc họp bí mật của ông với SFF, cô ta đã nghi ngờ và đến đây lục lọi tìm bằng chứng.
Làm thế quái nào mà cô ta vào trong được nhỉ.
Sexton lấy làm mừng, ông mới đổi mật khẩu máy tính.
Đặt chân đến cửa văn phòng. Sexton gõ mật khẩu, tắt chuông báo động. Ông lục túi tìm chìa khoá, tra chìa vào ổ, mở toang cửa, lao thẳng vào trong, định bắt quả tang Gabrielle ở trong phòng.
Nhưng văn phòng chẳng có một ai, tối mò mò, nguồn sáng duy nhất là đèn tín hiệu màn hình máy tính. Ông bật đèn lên, mắt sục sạo khắp nơi. Mọi thứ vẫn y nguyên Trừ tiếng tích tắc nhịp ba phát ra từ đồng hồ treo tường, căn phòng hoàn toàn im lặng.
Cô ta ở chỗ quái nào nhỉ?
Có tiếng sột soạt trong nhà tắm, ông đâm bổ vào bật đèn lên.
Không có ai. Ông kiểm tra đằng sau cánh cửa. Không có gì.
Bối rối, Sexton ngắm mình trong gương, băn khoăn không hiểu có phải tại đêm nay ông đã uống quá nhiều rượu hay không. Mình đã nghe thấy mà. Thẫn thờ, bối rối, Sexton quay trở ra văn phòng.
- Gabrielle! - ông gọi to. Ông bước ra ngoài hành lang, sang văn phòng của thư ký. Chẳng thấy đâu. Phòng năy cũng tối om.
Có tiếng ai xả nước trong nhà vệ sinh nữ, Sexton quay phắt lại, sải bước về plúa ấy. Ông đến nơi đúng lúc Gabrielle vừa bước ra và đang hơ tay cho khô. Nhìn thấy Sexton, cô nhảy dựng lên.
- Chúa ơi! Giật cả mình! - Gabrielle có vẻ hoảng hốt thực sự - Ông làm gì ở đây thế?
- Cô nói rằng đến văn phòng để tìm tài liệu về NASA. - Ông lên tiếng. - Tài liệu đâu?
- Em không tìm được. Em phải lục lọi khắp cho nên mới lâu thế.
Sexton nhìn thẳng vào mắt cô gái.
- Cô vào văn phòng của tôi phải không?
Máy fax đã cứu mạng mình, Gabrielle thầm nghĩ. Vài phút trước, cô vẫn còn ngồi trước máy tính của Sexton, xoay xở tìm cách in bằng chứng về những khoản tài chính bất hợp pháp. Những tệp tin đó được bảo vệ bằng phương pháp gì đó, cô không thể gõ lệnh in vào máy. Nếu không có chuông máy fax bất thần vang lên để kéo Gabrielle về với thực tại thì chắc lúc này cô vẫn ngồi nguyên ở đó. Gabrielle cho rằng hồi chuông ấy chính là điểm báo. Không kịp xem nội dung bản fax, cô tắt máy tính, xếp lại mọi thứ như cũ, rút ra ngoài bằng con đường lúc nãy cô đã đột nhập vào.
Chưa trèo qua hẳn tường phòng tắm, Gabrielle nghe tiếng Sexton lao vào văn phòng.
Lúc này, khi Sexton đang đứng chặn trước mặt cô, mắt gườm gườm, Gabrielle có cảm giác rằng ông ta đang nhìn xoáy vào sâu trong mắt cô để kiểm tra xem cô có gian dối hay không. Sedgewick Sexton cực kỳ mẫn cảm với những lời nói dối. Khi nào Gabrielle nói dối là ông ta biết ngay.
- Thượng nghị sĩ đã uống quá nhiều rượu. - Gabrielle vừa nói vừa quay mặt đi. Làm thế nào mà ông ta biết là mình vào trong văn phòng nhỉ?
Sexton túm lấy vai Gabrielle và xoay cô gái về phía mình.
- Cô có vào trong văn phòng của tôi không?
Gabrielle thấy sợ. Rõ ràng là Sexton đã uống rất nhiều. Ông ta xiết vai cô rất mạnh.
- Trong văn phòng của ông sao? - Cô hỏi, gượng cười phá lên. - Bằng cách nào? Để làm gì?
Tôi nghe thấy tiếng tích tắc nhịp ba của đồng hồ treo tường Jordain lúc nói chuyện điện thoại với cô cơ mà.
Gabrielle chột dạ. Đồng hồ treo tường sao? Cô không hề để ý đến điều đó.
- Ông không thấy điều đó là rất lố bịch à? Ngày nào tôi chả ngồi trong văn phòng suốt. Tôi phải biết đồng hồ của tôi kêu thế nào chứ.
Gabrielle cảm thấy rằng nên giải quyết chuyện này một cách chóng vánh. Tấn công chính là cách phòng thủ tốt nhất, Yolanda vẫn luôn nói vậy. Tay chống nạnh, cô hùng hổ quay phắt về phía ông ta. Đứng sát trước mặt Sexton, nhìn thẳng vào mắt ông ta, phẫn nộ:
- Thượng nghị sĩ cho phép tôi nói thẳng. Bây giờ là bốn giờ sáng, ông say rượu, ông nghe có tiếng tích tắc trên điện thoại, thế là ông lao thẳng đến đấy chứ gì? - Cô sừng sộ chỉ cánh cửa văn phòng của ông ta ở cuối hành lang. - Ông định buộc tội tôi qua mặt hệ thống báo động của Liên bang, mở hai ổ khoá, đột nhập vào văn phòng của ông, rồi lại ngu si đến mức trả lời cuộc gọi của ông trong khi đang tiến hành việc làm tày đình đó, tiếp đó lại bật hệ thống báo động lên rồi đi ra ngoài, và cuối cùng lại còn bình tĩnh vào nhà vệ sinh và quay ra tay không. Tôi nói có đúng không, hả?
Sexton trợn trờn mắt ngỡ ngàng.
- Phải có lý do thì người ta mới bảo nhau không nên uống rượu một mình chứ. - Gabrielle nói tiếp. - Ông có muốn nói tiếp chuyện NASA nữa hay không đây?
Sexton quay về văn phòng của mình, đờ đẫn. Ông tiến thẳng tới quầy bar, rót một ly Pepsi. Rõ ràng là ông không hề cảm thấy say. Chẳng lẽ ông lại nhầm? Trên bức tường đối diện, chiếc đồng hồ Jordain vẫn đều đều phát ra tiếng tích tắc nhịp ba như muốn trêu ngươi. Uống một hơi cạn ly Pepsi, Sexton rót thêm ly nữa cho mình và một ly cho Gabrielle…
- Có uống không, Gabrielle? - Ông hỏi.
Gabrielle không vào trong phòng. Cô vẫn đang đứng ở ngưỡng cửa, chân di di mũi giầy.
- Thôi nào, vì Chúa, vào đi. Nói xem, cô đã tìm được thông tin gì về NASA?
- Tôi nghĩ rằng đêm nay thế là đã quá đủ. - Gabrielle tỏ thái độ xa cách. - Để mai chúng ta nói cũng được.
Sexton chẳng còn lòng dạ nào mà chờ đợi. Ông cần thông tin ngay lập tức, và không có ý định tỏ ra quy luỵ. Ông thở dài mệt mỏi. Hãy tỏ ra tin tưởng ở cô ta. Đây là vấn đề lòng tin.
- Tôi thật là điên. - Ông nói. - Cho tôi xin lỗi. Ngày hôm nay quả là khủng khiếp. Tôi cũng chẳng hiểu nổi mình đang nghĩ gì.
Gabrielle vẫn không nhúc nhích..
Sexton bước lại bên bàn làm việc, đặt ly Pepsi của Gabrielle lên khay nước. Ông ra hiệu bảo Gabrielle đến ngồi vào chiếc ghế bọc da của mình - chiếc ghế quyền lực.
- Ngồi xuống đã nào. Uống một chút đã. Tôi phải đi vã chút nước lên mặt. - Ông đi về phía phòng tắm.
Gabrielle vẫn đứng nguyên ở cửa.
- Hình như có người fax tài liệu đến. - Sexton nói vọng ra từ nhà tắm. Phải thể hiện rằng mình tin tưởng cô ta. - Cô xem hộ tôi cái.
Sexton đóng cửa lại, đợi cho nước lạnh chảy đầy bồn rửa mặt. Ông vã nước lên mặt, lên đầu nhưng không hề thấy khá hơn. Chưa bao giờ ông rơi vào tình thế này - biết chắc rằng mình đúng, thế mà hoá ra lại không đúng. Sexton luôn tin vào bản năng và bản năng mách bảo rằng Gabrielle Ashe đã đột nhập vào văn phòng của ông.
Nhưng bằng cách nào? Không thể nào.
Sexton đành hạ quyết tâm bỏ qua chuyện này để tập trung vào vấn đề trước mắt: NASA. Lúc này ông cần Gabrielle. Giờ không phải lúc tạo khoảng cách với cô ta. Cần phải biết những thông tin cô ta đang có. Quên bản năng đi. Mình đã lầm.
Lau khô mặt, Sexton ngửa đầu ra sau rồi hít một hơi thật dài.
Hãy thư giãn, ông ta tự bảo bản thân. Đừng tỏ ra quá quắt. Nhắm mắt, thở sâu thêm lần nữa, ông cảm thấy tỉnh táo hơn.
Ra khỏi phòng tắm, Sexton thở phào nhận thấy Gabrielle đã vào trong văn phòng. Tốt lắm, ông nghĩ thầm. Giờ thì có thể bắt đầu làm việc.
Gabrielle đang đứng bên máy fax, đọc lướt những tài liệu vừa được gửi tới. Tuy nhiên, khi nhìn thấy vẻ mặt của Gabrielle, Sexton bối rối. Nỗi sợ hãi và sự ngỡ ngàng hằn rõ trên nét mặt cô gái.
- Cái gì thế? - Sexton nói, chân bước lại phía Gabrielle.
Thư ký riêng của ông loạng choạng, như thể sắp ngã đến nơi.
- Tảng thiên thạch… - Gabrielle nghẹn ngào, giọng nói yếu ớt. bàn tay nm rẩy đưa trước mặt Sexton xấp tài liệu. - Và con gái của ông… Chị ấy đang gặp nguy hiểm…
Ngỡ ngàng, Sexton tiến lại, cầm lấy tệp tài liệu từ tay Gabrielle.
Trên cùng là một trang viết tay. Ông nhận ra ngay nét chữ này. Ngôn từ vô cùng đơn giản, nhưng nội dung thì quả là một cú sốc lớn.
Tảng thiên thạch là giả. Đây là bằng chứng. NASA, Nhà Trắng đang tìm cách giết con. Cứu! RS.
Rất hiếm khi Thượng nghị sĩ lâm vào tình trạng không hiểu nổi những gì đang đọc, nhưng khi đọc những dòng chữ này của Rachel ông không hiểu nổi.
Tảng thiên thạch là giả sao? NASA và Nhà Trắng đang tìm cách giết cơn bé ư?
Đầu óc rối bời, Sexton bắt đầu xem lướt những trang còn lại.
Đầu tiên là một bức ảnh số hoá bên trên có dòng chữ "máy chụp cắt lớp trái đất (GPR)" có vẻ như đây là bức ảnh chụp cắt lớp một phiến băng bằng sóng âm. Sexton nhìn thấy hố trục vớt tảng thiên thạch mà trên tivi đã nhắc tới. Ông nhìn thấy hình đáng của một người chìm trong hố nước sâu đó. Rồi ông nhìn thấy một chi tiết khác đường nét của một cái lỗ thứ hai ngay bên dưới vị trí của tảng thiên thạch - dường như tảng đá này đã được đưa ngược lên từ dưới đáy phiến băng.
Quái quỉ gì thế này?
Lật sang trang tiếp theo, Sexton trông thấy ảnh chụp một loài sinh vật biển có tên là Bathynomous Giganteus. Ông kinh ngạc đến sững sờ. Đây chính là loài sinh vật hoá thạch trong tảng thiên thạch!
Lật trang tiếp theo. Ông thấy một biểu đồ có các chỉ số chất hydro ion hoá của lớp vỏ bị cháy xém của tảng thiên thạch. Có một hàng chữ viết tay vội vã ở bên dưới: Đốt bằng nhiên liệu hydro? Động cơ chu kỳ mở rộng của NASA?
Sexton không dám tin vào mắt mình. Ông lật sang trang cuối cùng, thấy căn phòng bắt đầu chao đảo - ảnh một tảng đá có chứa những bong bóng kim loại trông giống y hệt như những bong bóng trong tảng thiên thạch. Kinh ngạc hơn, cạnh bức ảnh là dòng chữ cho thấy tảng đá này là sản phẩm của núi lửa ngầm dưới đại dương.
Đá lấy từ đại dương lên sao? Sexton phân vân.
Nhưng NASA khẳng định rằng các chrondrule chỉ hình thành trong vũ trụ cơ mà!
Sexton đặt xấp tài liệu lên mặt bàn và ngồi sụp xuống ghế. Chỉ sau mười lăm giây, ông đã kịp ghép nối những gì vừa đọc thành một bức tranh lớn. Ý nghĩa của những trang tài liệu này đã quá rõ ràng. Thậm chi những kẻ đần độn cũng có thể thấy được những ảnh chụp này nói lên điều gì.
Tảng thiên thạch của NASA là giả.
Trong suốt đời mình, Sexton chưa trải qua ngày nào lắm thăng trầm đến vậy. Ngày hôm nay, cảm giác tuyệt vọng rồi lại khấp khởi hy vọng đã hoán đổi nhau không biết bao nhiêu lần. Những dự định của Sexton chợt trở lên quá bé nhỏ, vô nghĩa so với ảnh hưởng của những trang tài liệu này.
Nếu đem công bố những thông tin này, chắc chắn chiếc ghế Tổng thống sẽ thuộc về mình!
Trong giây phút tràn trề mãn nguyện, Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton quên hẳn lời cầu cứu của con gái, quên rằng Rachel đang trong cơn hoạn nạn.
- Rachel đang gặp nguy hiểm. - Gabrielle nhắc. Chị ấy viết rằng NASA và Nhà Trắng đang tìm cách…
Máy fax của Sexton bỗng đổ chuông lần nữa. Gabrielle quay lại nhìn Sexton cũng nhìn chăm chú. Không biết Rachel định gửi thêm gì cho ông? Thêm bằng chứng nữa ư? Có nhiều nữa không nhỉ? Thế nay đã là nhiều lắm rồi!
Khi may fax trả lời cuộc gọi, không có trang tài liệu nào được gửi tới. Không nhận được dữ liệu, chiếc máy chuyển sang chế độ tự động trả lời.
"Xin chào!" - Những lời nói được ghi âm sẵn cúa Sexton được bật lên - "Đây là văn phòng của Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton. Nếu quí vị muốn gửi fax, xin cứ tự nhiên. Nếu không, xin quí vị hãy để lại lời nhắn".
Sexton chưa kịp nhấc ông nghe lên thì chiếc máy đã phát ra một tiếng bíp.
- Thượng nghị sĩ Sexton đấy à? - Một giọng đàn ông lạnh lùng cất lên. - Tôi là William Pickering, Giám đốc NRO. Có lẽ lúc này ông không có mặt trong văn phòng, nhưng tình thế vô cùng cấp bách nên tôi phải nói luôn - Ông ta dừng lại giây lát, dường như đợi xem có ai nhấc máy không.
Gabrielle với tay định nhấc ống nghe lên.
Sexton giật phắt tay cô lại, gạt mạnh ra.
Gabrielle sững sờ. - Nhưng đó là chỉ dẫn của…
- Thượng nghị sĩ, - Pickering nói tiếp, dường như tỏ ra nhẹ, nhõm vì không thấy ai nghe máy - e rằng thông tin mà tôi báo cho ông không được dễ chịu cho lắm. Tôi vừa nhận được tin là cô Rachel con gái ông đang ở trong tình thế vô cùng hiểm nghèo. Ngay lúc này đây tôi đã phái một biệt đội đi giải cứu cho cô ấy. Hiện giờ thì chưa thể nói gì nhiều trên điện thoại, nhưng tôi đã được báo cáo rằng cô ấy đã fax cho ông tài liệu gì đó liên quan đến tảng thiên thạch của NASA. Bản thân tôi cũng chưa được đọc những tài liệu đó và không biết nội dung nó là gì, nhưng những kẻ đang giam giữ con gái ông nói rằng nếu những tài liệu đó bị công khai thì chúng sẽ giết Rachel ngay tức khắc. Xin lỗi Thượng nghị sĩ vì những lời lẽ không được tế nhị này, nhưng tôi phải trình bày sự thể một cách rõ ràng. Mạng sống của con gái ông đang bị để doạ. Nếu quả thực cô ấy có fax cho ông tài liệu nào thì cũng đừng cho ai xem. Lúc này thì chưa được. Mạng sống của con gái ông đang phụ thuộc vào nó. Ông hãy ở yên tại văn phòng. Tôi sẽ tới đó ngay. - Ông ta ngừng một lát. - Thưa Thượng nghị sĩ, nếu may mắn thì chúng tôi sẽ giải quyết xong vụ việc này trong đêm nay. Trong trường hợp ông đến văn phòng mà chưa thấy tôi thì cứ ở yên đó và đừng gọi điện cho ai hết. Tôi đang dốc hết khả năng để bảo vệ mạng sống cho cơn gái ông.
Pickering dập máy.
Gabrielle run lẩy bẩy.
- Rachel bị giữ làm con tin sao?
Sexton cảm nhận rõ ràng rằng dù đang rất thất vọng về ông.
Gabrielle vẫn đầy thương cảm khi biết một phụ nữ xinh đẹp đang bị lâm vào vòng nguy hiểm. Lạ lùng là ở chỗ chính bản thân ông lại không hề có chút xíu cảm giác nào đạì loại như thế. Toàn thân ông lúc này đang lâng lâng như một đứa bé vừa nhận được quà Giáng sinh và không hề có ý định để món quà quý báu đó tuột khỏi tay.
Pickering yêu cầu mình im lặng về chuyện này sao?
Sexton đứng yên lặng giây lát, cố hiểu cho thật thấu đáo những gì vừa nghe thấy. Nhưng trong đầu ông, trong một góc khuất lạnh lùng đầy tham vọng, cỗ máy bắt đầu hoạt động - cỗ máy điện toán chính trị trong ông đang chạy thử tất cả mọi tình huống và đánh giá mọi kết cục có khả nang xảy đến. Ông đưa mắt nhìn xấp tài liệu trên tay và bắt đầu cảm nhận được sức nặng của những thông tin đang có. Tảng thiên thạch này của NASA đã nghiến nát giấc mộng Tổng thống của ông. Nhưng đó chỉ là trò lừa gạt, một thứ giả mạo.
Giờ là lúc những kẻ dựng lên chuyện này phải trả giá. Chính tảng thiên thạch mà những kẻ đối đầu với ông dựng lên để hại ông sẽ khiến ông trở nên hùng mạnh hơn bao giờ hết. Và con gái ông đã biễn điều đó thành hiện thực.
Dĩ nhiên là chỉ có một kết cục duy nhất hợp lý, ông biết thế. Một nhà lãnh đạo thực thụ không thể hình động theo bất kỳ cách nào khác.
Giấc mơ chói lọi về sự hồi sinh của mình khiến cho Thượng nghị sĩ sung sướng đến mụ mị đầu óc. Đang ở trong văn phòng mà ông cảm thấy như đang ở giữa biển sương mù. Đến bên máy photocopy. Ông bật máy lên, chuẩn bị sao chụp những tài liệu Rachel vừa gửi về.
- Thượng nghị sĩ định làm gì thế? - Gabrielle hoảng hốt.
- Chúng không giết Rachel đâu. - Sexton tuyên bố. Giả sử trong trường hợp mọi chuyện diễn ra không suôn sẻ thì kẻ thù của ông sẽ khiến ông càng mạnh hơn. Đằng nào thì ông cũng thắng. Rủi ro này là hoàn toàn chấp nhận được.
- Những bản photocopy này là để cho ai? - Gabrielle căn vặn.
- William Pickering đã dặn là không được cho ai biết cơ mà!
Vẫn đứng bên máy photocopy, Sexton quay sang nhìn Gabrielle.
Đột nhiên ông thấy cô thư ký của mình trở nên xấu xí khủng khiếp.
Trong khoảnh khắc ấy, Thượng nghị sĩ Sexton trở lên hoàn toàn xa cách. Hoàn toàn biệt lập. Ông đang có trong tay tất cả những gì ông cần để biến giấc mơ của mình thành hiện thực. Giờ đây, không gì có thể cản bước ông được nữa. Những cáo buộc nhận hối lộ, những lời xì xào về chuyện tình ái, tất cả đều vô nghĩa.
- Về đi. - Gabrielle. Tôi không cần cô nữa đâu.
--125--
Thế là hết! Rachel tham nghĩ…
Cô và Tolland ngồi sát vào nhau, mắt chăm chú nhìn nòng súng máy của Delta-Một đang chĩa thẳng vào họ. Thật không may, lúc này Pickering đã biết được địa chỉ mà Rachel fax thông tin tới:
- Văn phòng Thượng nghị sĩ Sedgewick Sexton…
Rachel nghĩ rằng có lẽ cha cô thậm chí sẽ chẳng bao giờ nhận được những thông tin mà Pickering vừa nhắn vào trong máy văn phòng của ông. Rất có thể là sáng sớm mai Pickering sẽ về đến văn phòng của Thượng nghị sĩ Sexton trước khi bất kỳ người nào kịp đặt chân tới đó. Nếu đến trước, ông ta sẽ thu hết những tài liệu được gửi tới, xoá tin nhắn lưu trong máy, và không cần phải sát hại Thượng nghị sĩ nữa. Có lẽ William Pickering là một trong số ít người ở Washington có khả năng vào trong toà văn phòng nghị viện một cách êm thấm và suôn sẻ. Xưa nay Rachel vẫn luôn bị ngạc nhiên khi thấy chỉ cần nhân danh "an ninh quốc gia" là người ta có thể làm mọi chuyện.
Dĩ nhiên nếu làm thế vẫn không xong thì Pickering chỉ cần cho máy bay áp sát vào cửa sổ văn phòng và phóng một quả tên lửa Hellfire vào là xong, Radiel thầm nghĩ. Nhưng thâm tâm cô mách bảo rằng ông ta sẽ không phải viện đến hạ sách đó.
Ngồi sát bên Tolland, Rachel ngạc nhiên thấy ông đang dịu dàng xiết chặt tay cô. Những ngón tay ông đan vào tay cô, dịu dàng, mạnh mẽl và thân thuộc đến mức tưởng như họ đã từng làm thế rất nhiều lần trong đời. Ước gì lúc này Rachel được nằm trong vòng tay Mike, được tránh xa những tiếng gầm gào đầy đe doạ của dòng nước xoáy dưới chân họ.
Sẽ chẳng bao giờ. Rachel hiểu, chuyện ấy là không thể.
Michael Tolland thấy mình đúng là kẻ tìm thấy hi vọng sống đúng vào lúc bị điệu đến giá treo cỗ.
Số phận thật trớ trêu.
Bao năm sau cái chết của Celia, Tolland đã phải trải qua những đêm dài đau đớn và cô quạnh, đến nỗi nhiều lúc ông nghĩ tới cái chết để trốn chạy tất cả. Tuy nhiên, ông đã không làm điều đó, và tự nhủ rằng ông có thể sống một mình. Hôm nay, lần đầu tiên sau bao năm đằng đẵng, ông bắt đầu hiểu ra những điều mà bạn bè vẫn thường nói với ông.
Mike, cậu không cần phải sống một mình mãi, cậu sẽ lại tìm thấy tình yêu.
Xiết tay Rachel thật chặt, ông cảm thấy số phận mình thật trở trêu. Định mệnh thật độc ác. Tolland thấy những bức tường vô hình bao kín trái tìm ông từ bao lâu đang rơi rụng lả tả. Trong thoáng chốc, trên boong tàu Goya này, Tolland lại thấy hồn ma của Celia hiện về như nàng đã từng hiện về biết bao lần trong quá khứ.
Giọng nói của nàng như hoà lẫn vào tiếng đại dương… nhắc lại những lời cuối cùng nàng đã nói với ông trước khi ra đi mãi mãi.
"Anh sẽ tiếp tục sống. - Nàng thì thầm. - Hãy hứa với em là anh sẽ tìm cho mình một tình yêu khác".
"Anh sẽ không bao giờ yêu bất kỳ người nào khác. - Tolland trả lời nàng.
Celia mỉm cười, đầy trí tuệ:
"Rồi anh sẽ học cách làm điều đó".
Giờ đây, trên boong tàu Goya, Tolland biết ông đã học được điều đó. Một nguồn xúc cảm dạt dào trong trái tim ông.
Hạnh phúc.
Và cùng với nó là ý chí sống mãnh liệt.
Pickering cảm thấy khó tập trung một cách khác thường khi tiến lại gần hai tù nhân của mình. Ông dừng lại trước mặt Rachel, thầm ngạc nhiên thấy giây phút này không khó khăn như ông vẫn tưởng.
- Đôi khi vì tình huống bắt buộc nên chúng ta phải làm những điều mình không hề muốn.
Ánh mắt Rachel nhìn xoáy vào ông, không khoan nhượng:
- Chính ông đa tạo ra tình huống này.
- Có chiến tranh là có tổn thất. - Pickering nói, giọng tự tin hơn. Hãy thử hỏi Diana Pickering, hay bất cứ ai đã ngã xuống cho dân tộc nay mà xem. - Điều này cô phải hiểu chứ, Rachel. - Ông nhìn thẳng vào mắt Rachel - Iactura paucourm serva multos.(1)
Nhìn vẻ mặt của Rachel, ông biết cô gái hiểu câu nói đó - đây là điều mà những nhân viên an ninh vẫn thường nói. Hi sinh một vài người để cứu rất nhiều người.
Ánh mắt Rachel nhìn Pickering đầy ghê tởm:
- Lúc này tôi và Michael thuộc về cái một vài ấy của ông có phải không?
Pickering suy tính. Nhưng không còn cách nào khác. Ông quay lại bảo Delta-Một:
- Giải cứu đồng đội của anh rồi kết thúc phi vụ này nhanh đi.
Delta-Một gật đầu…
Pickering nhìn Rachel một lần cuối rồi sải bước lại bên lan can gần cầu thang dẫn xuống boong dưới, quay mặt nhìn ra biển. Ông không muốn tận mắt chứng kiến cảnh này.
Xiết chặt báng súng, liếc nhìn đồng đội của mình, Delta-Một cảm thấy mình thật quyền uy. Việc còn lại bây giờ chỉ là đóng cánh cửa lật dưới chân Delta-Hai, thả cậu ta ra khỏi cánh tay sắt, rồi khử Rachel Sexton và Michael Tolland.
Rủi thay, Delta-Một đã nhận ra sự rối rắm ở bảng điều khiển gần cánh cửa giật - một loạt cần gạt và núm vặn chắc chắn để điều khiển cánh cửa giật, môtơ tời, và hàng loạt chức năng khác nữa.
Anh không có ý định giật nhầm cần và thả con tàu lặn xuống biển, để doạ mạng sống của bạn mình.
Loại trừ tất cả mọi bất trắc. Không cần phải hấp tấp.
Anh sẽ buộc Tolland phải làm điều đó. Và để đảm bảo rằng ông ta sẽ không giở bất cứ thủ đoạn nào, Delta-Một sẽ dùng biện pháp bảo đảm mà đội lính đặc nhiệm vẫn gọi đùa là "vật ký quỹ biết thở".
Chia rẽ đối tượng và bắt chúng chống lại nhau.
Delta-Một quay nòng súng sang chĩa thắng vào mặt Rachel, mũi súng chỉ cách trán cô có vài inch. Rachel nhắm nghiền mắt lại, và Delta-Một nhận thấy Tolland giận dữ xiết chặt nắm đấm.
- Cô Sexton, đứng lên. - Delta-Một nói…
Rachel làm theo.
Gì sát súng vào lưng Rachel, Delta-Một bắt cô đến bên những bậc thang bằng nhôm dẫn lên nóc con tàu lặn Triton. Trèo lên đứng trên nóc tàu.
Rachel không hiểu, sợ hãi.
- Lên mau. - Delta-Một nói.
Trèo lên những bậc thang bằng nhôm sau lưng con tàu Triton, Rachel tưởng mình đang trong cơn ác mộng. Lên đến đỉnh, thì cô dừng lại, không muốn bước qua khe hở sâu để sang nóc tàu Triton.
- Bước sang nóc tàu lặn. - Người lính đặc nhiệm nói. Anh ta quay về phía Tolland và gì mũi súng vào đầu ông.
Ngay trước mặt Rachel, tên lính đặc nhiệm bị treo lủng lẳng nhìn Rachel chòng chọc, quằn quại đau đớn, nôn nóng muốn được giải thoát. Rachel nhìn họng súng chĩa vào đầu Tolland. Trèo lên nóc tàu. Cô không còn lựa chọn nào khác.
Rachel bước sang bệ máy, khoảng hẹp bằng phẳng sau mái vòm của tàu Triton, chẳng khác gì vừa bước qua vực thẳm sâu hun hút giữa hẻm núi. Chiếc tàu lặn mini treo lủng lẳng ngay bên trên cánh cửa giật như quả dọi khổng lồ Dù dây tời đã bị khoá chặt, con tàu nặng chín tấn vẫn lắc lư khi Rachel đặt chân lên, và khi Rachel lấy thăng bằng, con tàu lại một lần nữa dao động vài milimét.
- Được rồi, đi. - Người lính đặc nhiệm quát bảo Tolland – Đến bảng điều khiển và đóng cửa giật lại.
Bị chĩa súng thẳng vào đầu, Tolland buộc phải bước tới chỗ bảng điều khiển, Delta-Một theo sát gót ông, Rachel bước chậm rãi và cô thấy mắt Tolland nhìn cô chăm chú như muốn nói điều gì đó.
Ông nhìn thẳng vào Rachel, rồi nhìn xuống cánh cửa vòm đã mở sẵn trên nóc tàu Triton.
Rachel liếc xuống. Cánh cửa khum khum hình mái vòm nặng nề đã mở sẵn, cô có thể nhìn xuyên vào trong buồng lái dành cho một người của con tàu. Mike muốn bảo mình vào trong đó sao? Sợ mình hiểu nhầm ý của ông, Rachel ngước nhìn lên lần nữa. Ông đã ở gần bảng điều khiển lắm rồi. Tolland vẫn đang nhìn cô chăm chú. Ánh mắt lúc này càng khẩn thiết hơn.
Ông mấp máy môi nói thầm: Nhảy xuống đi! Nhanh lên!
Thoáng thấy hành động của Rachel. Delta-Một lập tức quay phắt lại và nã đạn đúng lúc Rachel vừa kịp nhảy vào trong con tàu. Đạn va vào cửa tàu rồi nảy bật trở lại, lửa đạn loé sáng loè; cửa tầu đóng sập lại. Ngay khi thấy họng súng không còn chạm vào lưng nữa, Tonand hành động ngay. Ông nhảy sang bên trái, tránh xa cánh cửa giật, rồi lăn người đúng lúc chân chạm mặt boong, cùng lúc ấy Delta-Một quay sang Tolland xả đạn không thương tiếc. Tolland đã kịp nấp vào sau trục dây tời - một cái trục lớn gắn mô tơ, quấn quanh nó là hàng ngàn mét dây cáp bằng thép nối với mỏ neo, đạn găm vào mặt boong ngay sau lưng ông, lửa loé lên chíu chíu.
Tolland đã có một kế hoạch trong đầu và phải hành động thật nhanh. Trong khi người lính đặc nhiệm lao thẳng về phía ông, Toaand vươn cả hai tay lên, với lấy khoá neo, kéo mạnh xuống.
Ngay lập tức, cuộn dây neo bắt đầu quay, nhả cáp ra, tàu Goya tròng trành giữa dòng hải lưu chảy xiết. Chuyển động bất ngờ của con tàu khiến tất cả mọi người cũng như mọi vật trên boong nghiêng ngả. Do con tàu tiếp tục bị dòng hải lưu đẩy đi, cuộn dây neo mỗi ìúc một quay nhanh hơn, nhả nhiều cáp hơn.
Nhanh lên chút nữa nào, bé yêu. Tolland thầm giục con tàu của mình.
Delta-Một lúc này đã lấy lại thăng bằng, tiến lại chỗ Tolland.
Đợi cho con tàu thôi không lắc lư nữa, Tolland cố hết sức gạt khoá neo lên, khoá chặt cuộn dây tời. Sợi cáp bất thần bị kìm chặt lại, làm cho con tàu giật mạnh. Tất cả mọi thứ trên boong đều bị xô dạt.
Người lính đặc nhiệm ngã khuỳu xuống ngay cạnh Tolland.
Pickering bị hất ra khỏi lan can thành boong. Chiếc tàu lặn Triton được treo bằng dây cáp cũng lắc lư dữ dội.
Từ bên dưới thân tàu, tiếng thép gãy vang lên nhức óc, con tàu rung lắc dữ dội, một thanh giằng gãy rời ra. Mũi tàu Goya bắt đầu sụp xuống vì sức nặng của chính nó. Cả con tàu lớn chao đảo, nghiêng hẳn về một bên, y như chiếc bàn lớn vừa bị gãy mất một chân. Từ bên dưới vọng lên những âm thanh chói tai lọng óc - tiếng những thanh thép lớn bị vặn xoắn, tiếng thép nghiến vào nhau, tiếng sóng đập ầm ầm.
Mặt tái mét, ngồi trong khoang lái của tàu Triton, Rachel cố giữ thăng bằng khi cố máy nặng chín tấn lắc qua lắc lại bên trên cánh cửa giật lúc này cũng nghiêng hẳn về một bên. Nhìn qua đáy tàu bằng kính, cô thấy biển cả đang nổi cơn cuồng nộ. Ngước nhìn lên, Rachel lia mắt khắp boong tàu để tìm Tolland, cô sững sờ chứng kiến cảnh tượng đang bày ra trước mắt.
Cách tàu Triton chỉ một mét, bị kẹp chặt trong cánh tay máy, anh chàng đội viên Delta đang rú lên vì đau đớn, anh ta cũng bị hất qua hất lại như con rối bị gắn chặt vào cần điều khiển. William Pickering bị hất trượt đi một đoạn dài trên boong cho đến khi ông ta túm được cái cọc. Ở bên cần khoá neo, Tolland cũng đang bám thật chặt vào sợi dây cáp để khỏi bị văng xuống biển. Khi thấy người lính đặc nhiệm cầm súng máy cạnh Tolland đã lấy lại được thăng bằng, cô gào thật to:
- Mike, cẩn thận!
Nhưng Delta-Một không hề để ý đến Tolland. Người lính này đang há hốc miệng vì kinh hãi, mắt đờ đẫn nhìn chiếc trực thăng.
Rachel quay lại, nhìn về phía đó. Chiếc máy bay chiến đấu Kiowa, vẫn đang nổ máy, bắt đầu chầm chậm trượt về phía mũi tàu.
Những thanh trượt kim loại rất dài gắn dưới thân máy bay lúc này chẳng khác gì những thanh trượt tuyết trên dốc tuyết trơn nhẵn.
Đến lúc này Rachel mới nhận ra rằng cỗ máy khổng lồ đó đang lao thẳng tới tàu lặn Triton.
Leo ngược lên qua mặt boong dốc nghiêng, Delta-Một trèo lên khoang lái. Anh không định để cho phương tiện thoát thân duy nhất của họ lao xuống biển. Anh vồ lấy bảng điều khiển của máy bay và kéo vội cần gạt. Cất cánh đi nào! Động cơ rú ầm lên, cánh quạt bắt đầu quay, tạo lực phản lại để nâng chiếc máy bay nặng lên không trung. Lên đi! Chết tiệt thật! Chiếc máy bay vẫn trượt thẳng về phía tàu Triton và Delta-Hai đang bị treo lơ lửng trên cánh tay máy.
Vì mũi máy bay chúc xuống, nên cánh quạt nó cũng bị nghiêng. Vậy là khi chiếc máy bay rời boong tàu, nó lao thẳng về phía trước thay vì lên cao rồi tăng tốc lao thẳng vào tàu Triton chẳng khác gì một cái cưa máy có tốc độ cực lớn. Lên đi nào! Delta-Một kéo mạnh cần gạt, thầm ước có thể thả ngay tức thì nửa tấn đầu đạn Hellfire khỏi khoang máy bay. Cánh quạt sượt sát qua đầu Delta-Hai và mái vòm của tàu Triton, nhưng vận tốc của chiếc trực thăng quá lớn. Và nó không thể tránh được dây cáp treo tàu Triton.
Khi những cánh quạt thép dày và cứng của chiếc Kiowa quệt vào sợi tời bằng thép chịu trọng tải mười lăm tấn của chiếc tàu lặn mini, đêm đen dậy lên tiếng thép nghiến vào nhau nghe lộng óc.
Những âm thanh chát chúa khiến người ta nghĩ tới những trận huyết chiến thời Trung cổ. Ngồi trong cabin máy bay, Delta-Một thấy cánh quạt máy bay nghiến vào sợi tời thép y như cái cưa máy cực lớn đang nghiến phải sợi xích sắt. Lửa toé ra sáng loè, và cánh quạt máy bay rách tan tành. Delta-Một thấy máy bay rơi xuống, thanh đế của nó va mạnh vào boong tàu. Anh vẫn cố sức kéo mạnh cần gạt, nhưng máy bay không thể cất cánh lên được nữa. Chiếc máy bay đồ sộ nảy lên hai lần, rồi trượt dọc boong tàu dốc đứng, trượt về phía tay vịn bằng sắt ở mũi tàu.
Trong một tích tắc. Delta-Một tưởng tay vịn sắt kia sẽ giữ chiếc máy bay lại.
Rồi anh nghe thấy tiếng răng rắc. Chiếc máy bay to lớn nặng nề nghiêng lệch hẳn đi trên mép boong, rồi lộn nhào xuống biển.
Trong tàu Triton, Rachel Sexton ngồi sững sờ, toàn thân bị ép chặt vào thành ghế. Chiếc tàu mini bị chao đảo dữ dội khi cánh quạt máy bay quệt vào dây cáp, nhưng cô đã giữ được thăng bằng. Dù phần thân tàu không bị va vào cánh quạt, Rachel biết rằng sợi dây cáp đã bị phá huỷ trầm trọng. Trong giây phút này, ý nghĩ duy nhất xuất hiện trong tâm trí cô là phải thoát ra ngoài ngay lập tức.
Người lính đặc nhiệm bị kẹp trong cánh tay máy đang trân trối nhìn cô ánh mắt đờ dại, máu chảy ròng ròng, thân thể đầy vết bỏng do những mảnh kim loại nóng văng vào. Rachel thấy William Pickering vẫn đứng trên boong, tay bấu chặt vào cọc sắt.
Michael đâu nhỉ. Rachel không thấy ông đâu cả. Nhưng nỗi sợ hãi này chỉ kéo dài có một tích tắc rồi ngay lập tức bị thay thế bằng nỗi kinh hoàng khác. Trên đầu Rachel, sợi cáp bị cứa nát của con tàu phát ra những tiếng răng rắc khi những sợi thép nhỏ vốn được bện chặt vào nhau bắt đầu rời ra. Rồi một tiếng rắc lớn vang lên, sợi cáp đứt rời ra.
Có một tích tắc không trọng lượng, thân thể Rachel như bồng bềnh trong khoang lái khi chiếc tàu lặn rơi xuống. Boong tàu biến mất nhanh chóng, những cầu thang hẹp bên hông tàu Goya sượt qua trước mắt cô. Người lính bị khoá chặt trong cánh tay máy đờ người vì sợ hãi, anh ta chằm chằm nhìn Rachel khi con tàu tiếp tục lao thẳng xuống đại dương.
Thời gian như ngừng lại.
Khi chiếc tàu lặn nhỏ đập mạnh xuống mặt nước dưới gầm tàu Goyal nó nẩy bật lên rất mạnh, khiến cho Rachel bị ấn chặt xuống ghế. Xương sống của cô như bị chùn lại khi mặt nước nhanh chóng trùm lên nóc chiếc tàu lặn cỡ nhỏ Rachel như ngộp thở khi con tàu giảm dần tốc độ rồi từ từ nổi lên mặt nước, bập bềnh như cái nút chai.
Lũ cá mập tức thì lao xốc vào. Ngồi sau lớp kính bao quanh khoang lái. Rachel chứng kiến cảnh tượng kinh hoàng bày ra trước mắt.
Delta-Hai thấy những cái đầu hình búa của lũ cá lao vào anh với sức mạnh của những hung thần. Một cái kẹp lớn sắc như dao khợp vào cánh tay anh, cắt vào đến tận xương, khoá cứng anh lại. Cảm giác đau đớn tột cùng xuyên suốt cơ thể khi con vật hung dữ lắc mạnh đầu, xé toạc cánh tay anh; xé rời ra khỏi cơ thể. Những con cá khác ùa vào. Vô vàn mũi dao nhọn đâm vào khắp hai cẳng chân. Thân mình. Cổ. Khi lũ cá đói xé toạc những phần thân thể anh và lôi đi, Delta-Hai không còn sức để thét lên, dù đau đớn đến tột độ.
Hình ảnh cuối cùng lọt vào mắt anh là một cái mồm lớn hình lưỡi hái, nghiêng về một bên, hai hàng răng nhọn hoắt lởm chởm trùm qua mặt anh.
Chỉ còn lại tăm tối…
Bên trong tàu Triton, tiếng những cái đau cứng va thùm thụp vào kính cuối cùng cũng không còn. Rachel mở mắt. Người lính ấy đã hoàn toàn biến mất. Những đợt sóng đỏ lòm vẫn đang tấp vào còn tàu trong suốt.
Rã rời, Rachel co người trên chiếc ghế, hai đầu gối thu trước ngực. Hình như con tàu đang di chuyển. Nó bị dòng hải lưu chảy xiết đẩy đi lúc lúc lại va vào thành boong dưới của tàu Goya. Rachel còn cảm nhận được một hướng nữa trong sự chuyển động này. Xuống dưới.
Bên ngoài, tiếng nước òng ọc chảy vào khoang đồ dùng vang lên rất rõ. Mặt nước đang dần dần nhích lên bên ngoài lớp kính bảo vệ bao kín lấy Rachel.
Mình đang chìm!
Luồng cảm giác kinh hoàng xuyên suốt toàn thân Rachel, cô đứng bật dậy. Với tay lên, cô túm lấy giàn khung thép trên đầu.
Nếu ra được ngoài nóc tàu, Rachel sẽ kịp nhảy lên boong dưới cùng của tàu Goya. Boong này giờ chỉ cách cô vài chục xăng ti mét.
Mình phải ra ngoài!
Trên khung nóc có những hàng chữ và mũi tên rõ ràng chỉ cách mở nắp tàu. Rachel thu hết sức mình. Nắp tàu không nhúc nhích.
Cô thử lại lần nữa. Không thấy dấu hiệu gì. Trục cửa đã bị kẹt cứng. Cong oằn hẳn xuống. Cảm giác sợ hãi dâng lên trong lòng, y như mặt biển đang dần dâng lên bên ngoài con tàu, Rachel thử đẩy mạnh lần cuối cùng.
Nắp tàu không nhúc nhích.
Tàu Triton đã chìm thêm vài inch nữa; nó xô vào thành tàu Goya lần cuối cùng trước khi chìm xuống dưới đáy con tàu méo mó tả tơi. Chìm xuống vùng biển sâu thăm thẳm.
