Tác giả: Dan Brown
--103--
Không khí trước buổi bình minh tại sân bay tại sân bay Atatürk khá lạnh và đẫm sương. Một màn sương mỏng phủ xuống, bao kín đường nhựa quanh nhà ga riêng này.
Langdon, Sienna, và Sinskey đến đây bằng xe hơi và được một nhân viên WHO đón sẵn bên ngoài, giúp họ ra khỏi xe.
“Chúng tôi đã sẵn sàng, thưa bà”, người đàn ông nói, dẫn cả ba người vào một tòa nhà khiêm nhường.
“Thế còn chuyện thu xếp cho ông Langdon sao rồi?”, Sinskey hỏi.
“Máy bay riêng tới Florence. Giấy tờ đi lại tạm thời của ông ấy đã để sẵn trên khoang.”
Sinskey gật đầu hài lòng. “Còn vấn đề khác mà chúng ta đã thảo luận?”
“Đã triển khai. Hành lý sẽ được chuyển đi sớm nhất có thể.”
Sinskey cảm ơn người nhân viên, lúc này đã băng qua sân nhựa đi về phía máy bay. Bà quay sang Langdon. “Anh có chắc không muốn đi cùng chúng tôi không?” Bà mỉm cười mệt mỏi, vuốt mái tóc bạc dài rồi vén ra sau tai.
“Xét tình hình”, Langdon dí dỏm đáp, “tôi không chắc một giáo sư nghệ thuật giúp được gì nhiều.”
“Anh đã giúp rất nhiều”, Sinskey nói. “Còn nhiều hơn anh biết đấy. Không kể ít nhất cũng là…” Bà ra hiệu về phía Sienna đi bên cạnh, nhưng cô gái trẻ đã không còn ở bên họ. Sienna tụt lại ra sau hai mươi thước, dừng lại bên một ô cửa sổ lớn và đăm đăm nhìn ra chiếc C-130 đang đợi sẵn, rõ ràng đang chìm trong suy tưởng.
“Cảm ơn đã tin tưởng cô ấy”, Langdon khẽ nói. “Tôi cảm thấy cô ấy không thường xuyên được nhận điều đó trong đời mình.”
“Tôi e rằng Sienna Brooks và tôi sẽ tìm thấy nhiều điều để học hỏi từ nhau.” Sinskey chìa tay ra. “Chúa ban phước cho anh, giáo sư.”
“Bà cũng vậy”, Langdon nói khi họ bắt tay. “Chúc may mắn ở Geneva.”
“Chúng tôi rất cần điều đó”, bà nói, và sau đó gật đầu về phía Sienna. “Tôi sẽ cho hai người vài phút. Chỉ để cô ấy đi khi anh thấy sẵn sàng thôi nhé.”
Khi băng qua nhà ga, Sinskey bất ngờ đút tay vào túi và móc ra hai nửa chiếc bùa vỡ, nắm chặt ở một bên tay.
“Xin đừng vứt bỏ cây gậy Asclepius đó”, Langdon gọi với theo sau bà. “Nó có thể sửa lại được mà.”
“Cảm ơn”, Sinskey vẫy tay đáp lại. “Tôi hy vọng mọi thứ đều như vậy.”
Sienna Brooks đứng một mình bên cửa sổ, nhìn ra những ngọn đèn dọc đường băng, trông như những bóng ma trong màn sương xuống thấp và những đám mây đang tích tụ. Trên đỉnh tháp điều khiển ở phía xa, lá cờ Thổ Nhĩ Kỳ bay phần phật đầy kiêu hãnh - lá cờ nền đỏ có hai biểu tượng cổ xưa là trăng lưỡi liềm và ngôi sao - những vết tích còn lại của đế chế Ottoman vẫn kiêu hãnh tung bay trong thế giới hiện đại này.
“Cược một lira Thổ Nhĩ Kỳ cho những gì em đang nghĩ nhé?”, một giọng nói trầm ấm vang lên sau cô.
Sienna không quay lại. “Bão đang đến.”
“Anh biết”, Langdon đáp khẽ.
Một lúc lâu sau, Sienna ngoảnh lại phía anh. “Em ước gì anh sẽ đi Geneva.”
“Rất vui khi nghe em nói như vậy”, anh đáp. “Nhưng em sẽ bận nói chuyện về tương lai. Điều cuối cùng em cần là một vị giáo sư đại học lỗi thời làm vướng chân em mà thôi.”
Cô nhìn anh khó hiểu. “Anh nghĩ anh quá già với em à?”
Langdon cười to. “Sienna, thực sự anh quá già với em còn gì!”
Cô có vẻ không thoải mái, cảm thấy xấu hổ. “Được rồi… nhưng ít nhất anh cũng biết tìm em ở đâu.” Cô cố gắng nhún vai rất dịu dàng. “Ý em là… nếu anh muốn gặp lại em.”
Anh mỉm cười với cô. “Anh rất muốn điều đó.”
Cô cảm thấy tinh thần mình phấn chấn hơn một chút, nhưng giữa họ lại là một khoảng im lặng kéo dài, không ai trong số họ biết chắc cần phải nói tạm biệt như thế nào.
Lúc ngước nhìn Langdon, Sienna cảm thấy lòng trào dâng một cảm xúc kỳ lạ. Không báo trước, cô kiễng chân và đặt một nụ hôn lên môi anh. Khi lùi lại, đôi mắt cô đã rơm rớm lệ. “Em sẽ rất nhớ anh”, cô thì thầm.
Langdon mỉm cười âu yếm và vòng tay qua người cô. “Anh cũng sẽ nhớ em.”
Họ đứng một lúc lâu trong vòng tay nhau, cả hai đều không đành lòng dứt ra. Cuối cùng, Langdon lên tiếng. “Có một câu nói xưa… thường được cho là của Dante…” Anh ngừng lại. “Hãy nhớ tối nay… vì nó là khởi đầu của mãi mãi.”
“Cảm ơn anh, Robert”, cô nói, nước mắt bắt đầu trào ra. “Cuối cùng thì em cũng tìm ra mục tiêu của cuộc đời mình.”
Langdon kéo cô lại sát hơn. “Em luôn nói em muốn cứu thế giới, Sienna. Có lẽ đây là cơ hội cho em đấy.”
Sienna khẽ mỉm cười và quay đi. Khi một mình bước về phía chiếc C-130 đang đợi, Sienna ngẫm lại mọi việc đã xảy ra… mọi thứ có thể vẫn xảy ra… và toàn bộ tương lai phía trước.
Hãy nhớ tối nay, cô nhắc lại, vì nó là khởi đầu của mãi mãi.
Khi leo lên máy bay, Sienna cầu mong Dante nói đúng.
--104--
Vầng mặt trời vàng vọt buổi chiều đã lặn xuống phía trên Cung điện Duomo, phản chiếu lên lớp gạch men trắng của tháp chuông Giotto và đổ những cái bóng dài ngang qua Thánh đường Santa Maria del Fiore tráng lệ của Florence.
Đám tang của Ignazio Busoni vừa mới bắt đầu lúc Robert Langdon vào thánh đường và tìm được một chỗ ngồi, lòng cảm thấy vui vì Ignazio được tưởng niệm tại đây, trong nhà thờ không nhuốm màu thời gian mà ông ấy đã trông coi suốt nhiều năm trời.
Mặc dù bên ngoài tráng lệ, nhưng bên trong nhà thờ lớn của Florence lại bình dị, trống trải và chân phương. Tuy nhiên điện thờ có phần khổ hạnh dường như lại tỏa ra một không khí ca tụng trong ngày hôm nay. Từ khắp nơi trên toàn nước Ý, các quan chức chính phủ, bạn bè, và đồng nghiệp trong giới nghệ thuật đều đổ về nhà thờ này để tưởng nhớ một con người vui vẻ được họ gọi bằng cái tên trìu mến Tiểu Mái vòm.
Giới truyền thông đưa tin rằng Busoni qua đời trong khi đang làm công việc mình yêu thích nhất - đi dạo quanh Duomo lúc đêm khuya.
Không khí đám tang vui vẻ đến ngạc nhiên trong những lời nhận xét hài hước từ bạn bè và gia đình. Một đồng nghiệp cho biết chính Busoni đã tuyên bố rằng tình yêu của ông dành cho nghệ thuật Phục Hưng, chỉ có thể so sánh với tình yêu của ông dành cho món mì ống Bolognese và món caramen budino.
Sau lễ truy điệu, trong khi những người dự tang lễ gặp gỡ nhau và trìu mến nhớ lại những sự kiện trong cuộc đời của Ignazio thì Langdon đi vẩn vơ bên trong Duomo, chiêm ngưỡng công trình nghệ thuật mà Ignazio vô cùng yêu mến - bức Phán xét cuối cùng của Vasari - ngay bên dưới mái vòm, những ô cửa sổ kính hoa Donatello và Ghiberti, chiếc đồng hồ của Uccello, và những lối đi khảm gốm thường hay bị bỏ qua tô điểm cho sàn nhà.
Một lúc, Langdon mới nhận ra mình đang đứng trước một gương mặt quen thuộc - gương mặt của Dante Aleghieri. Bức tranh tường huyền thoại của Michelino khắc họa cảnh đại thi hào đứng trước núi Luyện ngục, tay cầm kiệt tác Thần khúc của mình xoay ra ngoài, như thể đang kính cẩn dâng lên.
Langdon không thể không tự hỏi Dante nghĩ gì nếu ông ấy biết được tác động mà thiên trường ca của mình tạo ra cho thế giới, nhiều thế kỷ sau này, trong một tương lai ngay cả chính thi hào của Florence cũng không bao giờ hình dung được.
Ông ấy đã tìm thấy một cuộc sống vĩnh hằng, Langdon nghĩ, nhớ lại những quan điểm của các triết gia Hy Lạp cổ đại về danh tiếng. Chừng nào người ta còn nhắc đến tên ngươi, ngươi sẽ chẳng bao giờ chết.
Lúc chập tối, Langdon băng qua Quảng trường Sant’Elisabetta và trở lại khách sạn Brunelleschi trang nhã của Florence. Trong căn phòng trên gác, anh có cảm giác thư thái hơn khi tìm thấy một gói đồ khá lớn đang đợi sẵn.
Cuối cùng, hàng ký gửi cũng đã đến nơi.
Gói đồ mình yêu cầu từ Sinskey.
Langdon vội vã cắt băng keo niêm phong và nhấc những thứ quý giá bên trong ra, cảm thấy an tâm khi thấy nó đã được gói ghém cẩn thận và có đệm kỹ bằng giấy bọc bọt khí.
Tuy nhiên, Langdon hết sức ngạc nhiên khi thấy gói đồ còn có thêm một số thứ khác. Dường như Elizabeth Sinskey đã sử dụng uy lực rất lớn của mình để bù đắp cho anh nhiều hơn một chút so với yêu cầu. Gói đồ còn có cả quần áo của Langdon - chiếc áo sơ mi cài cúc, quần khaki, và chiếc áo khoác Harris Tweed tả tơi - tất cả được giặt giũ và là cẩn thận. Ngay cả đôi giày da thuộc đế mềm của anh cũng ở đây, được đánh bóng lại. Bên trong gói đồ, anh còn rất vui khi thấy chiếc ví của mình.
Tuy nhiên, khi phát hiện ra món đồ cuối cùng, Langdon đã bật cười. Phản ứng của anh lúc này có một nửa là tâm trạng nhẹ nhõm khi món đồ trở về, nửa còn lại là thái độ bẽn lẽn vì mình đã quá ư coi trọng nó.
Chiếc đồng hồ Chuột Mickey của mình.
Langdon lập tức đeo ngay chiếc đồng hồ cổ lỗ sĩ vào cổ tay. Cái cảm giác quai da ấm áp chạm vào da thịt khiến anh thấy bình yên một cách lạ lùng. Lúc mặc xong quần áo và xỏ hai chân vào đôi giày lười, Robert Langdon cảm thấy gần như lại được là chính mình.
Langdon ra khỏi khách sạn Brunelleschi, mang theo gói đồ trong một túi xách của khách sạn mà anh xin được từ nhân viên khuân vác đồ đạc. Buổi tối ấm áp khác thường, càng làm tăng thêm tính chất thi vị cho chặng đi bộ của anh dọc Đại lộ Calzaiuoli tới ngọn tháp duy nhất của Cung điện Vecchio.
Khi đến nơi, Langdon ký sổ tại bộ phận an ninh, nơi có tên của anh trong danh sách gặp Marta Alvarez. Anh được hướng dẫn tới Sảnh Năm trăm, lúc này vẫn rất đông du khách. Langdon đến vừa đúng giờ, cứ ngỡ sẽ gặp Marta tại lối vào, nhưng không nhìn thấy cô ấy đâu cả.
Anh chặn một thuyết trình viên đi ngang qua lại.
“Xin lỗi?”, Langdon hỏi bằng tiếng Ý. “Tôi có thể tìm Marta Alvarez ở đâu?”
Nhân viên thuyết trình cười tươi. “Bà Alvarez à?! Bà ấy không ở đây! Bà ấy sinh con rồi! Catalina! Xinh lắm!”
Langdon rất mừng khi nghe tin vui của Marta. “À… hay quá”, anh đáp. “Thật tuyệt vời!”
Khi nhân viên thuyết trình vội vã rời đi, Langdon tự hỏi sẽ phải làm gì với cái gói mình đang mang theo.
Anh nhanh chóng quyết định rồi băng qua Sảnh Năm trăm đông đúc, đi bên dưới bức tranh tường của Vasari và tiến thẳng vào khu bảo tàng trong cung điện, cố gắng không để bất kỳ nhân viên an ninh nào nhìn thấy.
Cuối cùng, anh cũng tới bên ngoài hành lang hẹp của bảo tàng. Khu vực này tối om, được chặn lại bằng cọc rào, một sợi dây chăng ngang, và tấm biển: CHIUSO/ĐÓNG CỬA.
Langdon cẩn thận nhìn quanh, sau đó luồn mình dưới sợi dây để lọt vào không gian tối om ấy. Anh thò tay vào chiếc túi và cẩn thận lấy gói đồ ra, tháo lớp giấy bọt.
Khi lớp nhựa rơi ra, chiếc mặt nạ người chết của Dante lại trừng trừng nhìn anh. Lớp thạch cao dễ vỡ vẫn còn nguyên trong chiếc túi Ziploc, được lấy lại từ ngăn két tại nhà ga tàu hỏa Venice đúng như Langdon yêu cầu. Chiếc mặt nạ vẫn trong tình trạng nguyên vẹn, không hề hư hại trừ một chí tiết nhỏ: Có thêm một bài thơ, được khắc thành hình xoáy trôn ốc trang nhã ở mặt trái của nó.
Langdon nhìn chiếc tủ trưng bày cổ. Mặt nạ người chết của Dante được trưng mặt phải ra đằng trước… sẽ không ai chú ý cả.
Anh cẩn thận lấy chiếc mặt nạ từ trong túi Ziploc. Sau đó, rất nhẹ nhàng, anh đặt nó trở lại chiếc đế bên trong tủ trưng bày. Chiếc mặt nạ lại nằm vào vị trí, yên ổn trong lớp nhung đỏ quen thuộc.
Langdon đóng tủ và đứng một lúc, chăm chú nhìn bộ mặt nhợt nhạt của Dante, một sự hiện diện ma quái trong căn phòng tối om. Cuối cùng cũng trở về nhà.
Trước khi ra khỏi phòng, Langdon còn thận trọng tháo bỏ hết rào cọc, dây và tấm biển ở lối vào. Khi đi qua phòng trưng bày, anh dừng lại để nói với một thuyết trình viên nữa còn trẻ.
“Thưa cô?”, Langdon nói. “Đèn phía trên cái mặt nạ người chết của Dante cần phải được bật lên. Xem trong bóng tối khó quá.”
“Tôi xin lỗi”, người phụ nữ trẻ nói, “nhưng khu trưng bày đó đóng cửa. Mặt nạ người chết của Dante không còn ở đây nữa”.
“Kỳ cục nhỉ.” Langdon cố tạo vẻ mặt ngạc nhiên. “Tôi vừa xem nó mà.”
Gương mặt của cô gái tỏ ra hết sức bối rối.
Khi cô ấy chạy về phía hành lang, Langdon lặng lẽ rời khỏi bảo tàng.
--105--
Bên trên khoảng không mờ tối của vịnh Biscay mười hai nghìn mét, chiếc máy bay hãng Alitalia bay tới Boston đang nhắm về phía tây trong một đêm trăng sáng.
Trên khoang, Robert Langdon ngồi đọc mải mê một bản Thần khúc bìa mềm. Nhịp điệu du dương của trường ca, cùng với tiếng ầm ĩ của động cơ phản lực cuốn anh vào trạng thái thôi miên. Những lời văn của Dante dường như chảy tràn trên trang giấy, ngân nga trong tim anh, như thể chúng được viết ra cho riêng anh vào đúng thời khắc này.
Giờ đây Langdon biết rằng, trường ca của Dante không nói nhiều về nỗi thống khổ chốn địa ngục bằng nói về sức mạnh của tinh thần con người khi chịu đựng thử thách, cho dù có gian nan đến đâu.
Bên ngoài cửa sổ, vầng trăng tròn đã nhô lên cao, sáng rõ vằng vặc, làm mờ hết những thực thể khác trên bầu trời. Langdon nhìn ra không trung, đắm mình trong suy nghĩ về tất cả những gì đã diễn ra trong mấy ngày qua.
Những nơi tối tăm nhất của địa ngục dành riêng cho những kẻ giữ thái độ trung dung trong những thời kỳ khủng hoảng đạo đức. Với Langdon, ý nghĩa của lời này chưa bao giờ rõ ràng hơn thế: Trong những thời khắc nguy hiểm, không có tội lỗi nào lớn hơn sự chây ì.
Langdon biết rằng bản thân mình, cũng như hàng triệu người khác, cũng mặc tội lỗi này. Khi thế giới xảy ra những hoàn cảnh khó khăn, thái độ từ chối đã trở thành một đại dịch toàn cầu. Langdon tự hứa sẽ không bao giờ quên điều đó.
Khi chiếc máy bay lao vùn vụt về phía Tây, Langdon nghĩ đến hai người phụ nữ dũng cảm giờ này đang ở Geneva, đương đầu với tương lai và chèo chống qua những điều phức tạp của một thế giới đã thay đổi.
Bên ngoài cửa sổ, một dải mây xuất hiện phía chân trời, chầm chậm nhích qua bầu trời. cuối cùng lướt qua mặt trăng và che khuất ánh sáng của nó.
Robert Langdon thả người trên ghế, cảm thấy đã đến lúc chợp mắt.
Khi tắt ngọn đèn phía trên đầu, anh đưa mắt nhìn ra bầu trời lần cuối cùng. Bên ngoài, trong màn đêm tối đen vừa mới hình thành, thế giới đã biến đổi. Bầu trời trở thành một thảm tinh tú sáng lấp lánh.
GHI CHÚ
[1] Uffizi Gallery là bảo tàng ở Florence, một trong những bảo tàng nghệ thuật lâu đời và nổi tiếng nhất. Tòa nhà được Giorgio Vasari xây dựng năm 1560 làm văn phòng cho các quan tòa - vì thế mà thành tên gọi “uffizi” (tức “office” hay “văn phòng”). (Chú thích trong sách này là của dịch giả).
[2] Cung điện Bargello, còn gọi là cung điện Nhân Dân (Palazzo del Popolo) vốn là trại lính và nhà tù, nay là bảo tàng nghệ thuật ở Florence, Ý. Đây là công trình công cộng cổ nhất Florence, được xây dựng năm 1255. Năm 1574, gia tộc Medici cho cảnh sát trưởng (bargello) của Florence đóng trụ sở tại tòa nhà này, vì thế thành tên gọi. Từ năm 1865, Bargello trở thành bảo tàng quốc gia (Museo Nazionale del Bargello) trưng bày bộ sưu tập lớn nhất về điêu khắc Gothic và Phục Hưng ở Ý (thế kỷ XVI-XVII).
[3] Badia Fiorentina là tu viện kiêm nhà thờ trên phố Via del Proconsolo ở trung tâm Florence. Người ta cho rằng thi hào Dante, tác giả Thần khúc, lớn lên ngay bên kia phố trong ngôi nhà được xây lại năm 1910 làm Bảo tàng Dante. Hiện nay, Badia là giáo đoàn của các tu sĩ và nữ tu dòng Tín hữu Gerusalemme, với các buổi cầu kinh hằng chiếu lúc 6 giờ.
[4] Biệt thự Torregalli (hay lâu đài Torre Galli) là một phần của hệ thống pháo đài ở vùng Soffiano, thuộc gia tốc Nerli. Đến thế kỷ 17, quyền sở hữu thuộc về gia tộc Galli và đến năm 1868, nơi này trở thành tài sản của Paolo Gentile Farinola, người cho xây lại các phần tường có lỗ châu mai theo phong cách Trung cổ. Năm 1991, nó được công nhận là di tích lịch sử nghệ thuật và hiện nằm trong chế độ công quản.
[5] Max Ernst (1891 – 1976) là họa sĩ, nhà điêu khắc và nhà thơ người Đức. Ông được coi là một trong những nhà tiên phong của phong trào Dada và chủ nghĩa siêu thực.
[6] Trong nguyên tác, các đơn vị đều sử dụng hệ đo lường Anh – Mỹ. Để tiện cho độc giả theo dõi, người dịch đã chuyển đổi sang hệ đo lường tương ứng thông dụng ở Việt Nam. Ví dụ, ở đây là 237 foot, tương đương 71,1m (1 foot = 0,3m).
[7] Filippo Brunelleschi (1377 – 1446) là một trong những kiến trúc sư và kỹ sư hàng đầu của thời Phục Hưng Ý. Ông nổi tiếng nhất với việc phát hiện ra luật xa gần (phối cảnh) cũng như kiến tạo mái vòm Vương cung Thánh đường Florence. Ông cũng có nhiều thành tựu về kiến trúc, điêu khắc, toán học và cả thiết kế tàu.
[8] Prigioni (Tù nhân) là tên gọi gian trưng bày bốn tác phẩm điêu khắc (Quattro Prigioni) của Michelangelo, vốn ban đầu được làm cho mộ của Giáo hàng Julius II. Sở dĩ có tên gọi này vì những nhân vật trong các tác phẩm như đang cố gắng thoát ra khỏi khối đá cẩm thạch tạc họ. Michelangelo mất khi chưa kịp hoàn thành chúng. Ở đây còn có tượng Thánh Matthew cũng của Michelangelo và các bức vẽ của những họa sĩ cùng thời với Michelangelo, như Ghirlandaio và Andrea del Sarto.
[9] Ebola là loại virus gây bệnh sốt xuất huyết ở người và các loài linh trưởng.
[10] Cổng Địa ngục (La Porte de l’Enfer) là cụm điêu khác của nghệ sĩ người Pháp Auguste Rodin, mô tả một cảnh trong “Hỏa ngục”. Tác phẩm điêu khắc này cao sáu mét, rộng bốn mét và dài một mét, với một trăm tám mươi nhân vật có kích thước cao từ mười lăm phân đến hơn một mét. Phiên bản gốc được lưu giữ từ năm 1917 và hiện trưng bày tại Bảo tàng d’Orsay ở Paris. Chi tiết Ba Vong linh (Les trois Ombres), nguyên bản cao chín mươi tám phân, gồm ba nhân vật riêng biệt chỉ tay vào dòng chữ “Lasciate ogne speranza, voi ch’entrate” (“Vứt bỏ mọi hy vọng, những kẻ bước vào đây”) trích từ Khổ III của Hỏa ngục.
[11] Phlegyas, con trai của Ares và Chryse, là vua của Lapith trong thần thoại Hy Lạp. Trong Hỏa ngục, Phlegyas chèo đò chở Virgil và Dante vượt sông Styx.
[12] Loại rượu Whisky chưng cất từ mạch nha theo quy trình đơn cất tại Scotland. Nhà máy rượu Highland Part đặt tại Kirkwall, Orkney là một trong rất ít cơ sở ủ rượu bằng loại lúa mạch riêng.
[13] Carbaret là loại hình giải trí bao gồm hài kịch, âm nhạc và khiêu vũ, thường diễn ra ở quán ăn hay hộp đêm với sân khấu. Chương trình này thường bắt đầu với câu chào bằng ba thứ tiếng Đức, Pháp, Anh như trên
[14] Haman the Agagite, hay Haman Xấu xa, là một nhân vật phản diện chính trong Sách Esther, theo truyền thống Cựu ước, là một quý tộc ở thế kỷ V trước Công nguyên. Haman là tể tướng của đế chế Ba Tư dưới thời vua Ahasuerus, tức Xerxec I, và là hậu duệ của Agag, vua của người Amalekite, dân tộc bị Vua Saul và David xua đuổi. Còn theo Kinh Do Thái, Haman cùng vợ là Zeresh chủ mưu giết hết người Do Thái ở Ba Tư cổ. Haman tìm cách thuyết phục vua Ahasuerus hạ lệnh giết người Do Thái trên lãnh thổ ông cai trị. Âm mưu này bị Hoàng hậu Esther, vốn là người Do Thái vạch trần. Haman bị treo cổ.
[15] Tiếng lóng: Teacher I’d like to F***(Tôi muốn ngủ cùng cô giáo).
[16] Trong nguyên bản tiếng Anh, “We… sorry” (Rấ… xin lỗi) đọc phát âm gần giống với “Va… Sari” – tên họa sĩ Giorgio Vasari, tác giả bức Trận Marciano
[17] Ở đây có sự chơi chữ. Trong bản gốc tiếng Anh, nhân vật dùng từ “WHO” vừa mang nghĩa “người nào, kẻ nào” đồng thời là tên viết tắt của Tổ chức Y tế Thế giới.
[18] Theo truyền thuyết, người La Mã thành lập thành phố Florence vào thế kỷ I trước Công nguyên. Họ xây hẳn một đền thờ lớn thờ thần Chiến tranh (Mars) như là vị thần bảo vệ thành phố, cùng với một bức tượng thần cưỡi ngựa. Sau này, khi người Thiên Chúa giáo đến Florence, một nhà thờ được xây dựng và ngoại giáo bị bài trừ. Người dân Florence di chuyển tượng thần Chiến tranh lên một cái bệ nằm bên sông Arno. Khi người Goth chiếm Florence, họ xô đổ bức tượng xuống sông. Đến thế kỷ VIII sau Công nguyên, khi Charlemagne xây lại thành phố, bức tượng được khôi phục và mặc dù đã hư hại, nó vẫn được đặt trên một cây cột gần đầu phía bắc cầu Ponte Vecchio. Bức tượng “bị thương” nhưng với người dân Florence, nó vẫn là biểu tượng cho sự bảo hộ của thần thánh. Bức tượng tồn tại qua cả thời kỳ của Dante và bị nhấn chìm trở lại sông Arno trong một trận lụt vào năm 1333.
[19] Nguyên tác là “Ashes, ashes”, vừa mang nghĩa là “tro tàn” sau khi người bệnh bị hỏa thiêu, nhưng cũng đồng âm với “Hắt xì” là dấu hiệu của hiện tượng chớm bệnh.
[20] Nguyên văn: “soccer mom”, chỉ những phụ nữ trung lưu sống ở ngoại ô Bắc Mỹ, dành phần lớn thời gian chở con cái tới các sự kiện thể thao hoặc hoạt động khác. Cụm từ này dần mang nghĩa tiêu cực vì những phụ nữ này thường bị phê phán về việc ép con cái tham giá quá nhiều hoạt động ngoại khóa thay vì để cho chúng được sống đúng tuổi thơ.
[21] Sảnh Mô hình kiến trúc.
[22] Ivy League là nhóm tám trường đại học danh tiếng tại Hoa Kỳ, gồm Đại học Brown, Đại học Columbia, Đại học Cornell, Cao đẳng Dartmouth, Đại học Harvard, Đại học Princeton, Đại học Pennsylvania và Đại học Yale.
[23] Trong thần thoại Hy Lạp, Apollo và Dionysus đều là con trai của thần Zeus. Apollo là thần Mặt trời, đại diện cho ước mơ và thể hiện sự sáng tạo của con người thông qua lý trí và tư duy logic. Ngược lại, Dionysus là thần rượu vang, thiên về tình cảm và bản năng.
[24] Nguyên văn: ‘Who Needs Agathusia?’.
[25] Trong bản gốc tiếng Anh, từ “who” vừa mang nghĩa “ai”, vừa là viết tắt của WHO - Tổ chức Y tế Thế giới.
[26] Mở cửa
[27] SPF (Sun Protection Factor): Tác nhân bảo vệ chống nắng. Đây là số đo mức độ bảo vệ trước tia tử ngoại và có phạm vi từ một đến bốn mươi lăm hoặc cao hơn. Một chiếc kính râm có SPF 15 sẽ lọc được chín mươi hai phần trăm tia tử ngoại. Nói cách khác, nó sẽ làm chậm quá trình cháy nắng trên da người sau một trăm năm mươi phút thay vì mười phút, tức là người đó có thể ở ngoài nắng lâu hơn mười lăm lần
[28] Nguyên bản: possessed.
[29] Nguyên văn: “ground zero”: Điểm trên mặt đất gần với một vụ nổ nhất. Thuật ngữ này thường gắn với các vụ nổ hạt nhân hay nổ bom lớn, nhưng nó cũng được dùng trong các trận động đất, đại dịch và những thảm họa khác để đánh dấu thiệt hại nặng nhất.
[30] biểu tượng của ngành y
[31] Câu trích từ sang thế kí 9:7
[32] Nguyên văn: whiteout. Đây là hiện tượng thời tiết thường xảy ra ở nơi tuyết rơi với mật độ dày. Khi một đám mây lớn kéo qua bầu trời, ánh sảng bị khuếch tán đi khăp nơi làm cho khung cảnh xung quanh biến thành toàn màu trắng.
[33] Nguyên văn: Transhumanism (viết tắt H+) là một phong trào tri thức về văn hóa với mục tiêu cuối cùng là cơ bản cải biến con người bằng công nghệ để tăng cường các năng lực trí tuệ, thể chất và tâm lý.
[34] Đại Vận Hà (Grand Canal) ở Venice, Ý, là dòng kênh lớn tạo thành hành lang giao thông đường thủy chính tại thành phố này. Kênh ăn thông vào đầm nước gần nhà ga Santa Lucia, đầu kia dẫn vào quảng trường St. Mark. Phần giữa kênh tạo thành một hình chữ S ngược lớn chạy qua các quận trung tâm của Venice.
[35] Ponte degli Scalzi (nghĩa đen là cầu 'Tu sĩ chân trần') là một trong bốn cây cầu bắc qua Đại Vận Hà ở Venice. Cầu nối quận Santa Croce ở phía nam với Cannaregio ở phía bắc. Cầu do Eugenio Miozzi thiết kế, xây bằng đá, hoàn thành năm 1934, thay thế cho một cây cầu sắt.
[36] Nguyên văn: “Old Master”, chỉ một họa sĩ Châu Âu truớc năm 1800, được đào tạo bài bản, là người đứng đầu một phường của các họa sĩ địa phương và có thể làm việc độc lập.
[37] Theo Kinh Phúc Âm: Mc 9 40-49 (HI 41-50),
[38] Tiếng Anh có nghĩa: Cách ly để kiểm dịch.
[39] Loại cocktail là hỗn hợp của rượu vang Prosecco và đào nghiền nhuyễn.
[40] Antonio Vivaldi (sinh năm 1678 tại Venice, mất năm 1741 tại Vienna) là nhà soạn nhạc, nghệ sĩ vĩ cầm, nhà sư phạm, chỉ huy dàn nhạc người Ý, cũng là linh mục chỉ huy dàn nhạc và dàn đồng ca “della Pieta” ở Venice
[41] Alhambra (tên đầy đủ Calat Alhambra) là một quần thể cung điện và pháo đài nằm ở Granada, Andalusia, Tây Ban Nha. Nguyên thủy, đây là một pháo đài được xây dựng năm 889 và sau đó bị bỏ quên cho tới khi được vua người Moor là Mohammed ben Al-Ahmar xây dựng lại vào giữa thế kỉ XI và được quốc vương Yusuf I biến thành hoàng cung năm 1333.
[42] Giacomo Casanova (1725-1798) là một nhà thám hiểm và tác gia Venice. Tự truyện của ông, Câu chuyện đời tôi được xem như một trong những nguồn đáng tin cậy về phong tục và tiêu chuẩn xã hội Châu Âu trong thế kỷ XVIII, ông nổi tiếng là tay quyến rũ phụ nữ, và kể nhiều chuyện phiêu lưu tình ái trong tự truyện của mình.
[43] Moonraker
[44] Nguyên văn: The Tetrarchs. Bức tượng điêu khắc mô tả bốn hoàng đế La Mã có niên đại khoảng năm 300. Chế độ “Tứ đế đồng trị” (Tetrarchy) là thể chất trong đó quyền lực được phân chia giữa bốn cá nhân, nhưng trong cách dùng hiện đại, thuật ngữ thường để chỉ một hệ thống do hoàng đế La Mã Diocletian khởi xướng năm 293, đánh dấu sự phục hồi của đế chế La Mã. Chế độ này kéo dài tới khoảng năm 313, khi cuộc xung đột huynh đệ tương tàn loại bỏ hầu hết những ứng cử viên quyền lực, chỉ còn lại Constantine ở phía đông và Licinius ở phía tây.
[45] Nguyên văn: Dancer’s Image, là tên một con ngựa đua Mỹ giống Thoroughbred và là chú ngựa duy nhất trong lịch sử giải đua Kentucky Derby giành chiến thắng nhưng bị truất quyền thi đấu. Chú ngựa này thuộc sở hữu của doanh nhân Peter Fuller, con trai của cựu Thống đốc bang Massachusetts Alvan T. Fuller, được Lou Cavalaris, Jr. huấn luyện và được kỵ sĩ Bobby Ussery điều khiển trong giải Derby.
[46] Theodosius II (401-450) thường được gọi là Theodosius Trẻ hoặc Theodosius Nhà thư pháp, là hoàng đế Đông La Mã từ năm 408 đến 450. Ông được biết đến nhiều về việc ban hành bộ luật Theodosius và công xây dựng các bước tường thành Theodosius quanh Constantinople.
[47] Hippodrome là sân vận động để đua ngựa hoặc đua xe kéo. Nhưng Hippodrome của Constantinople, thủ đô của đế chế Byzantine, là một đấu trường, được xem như trung tâm xã hội và thể thao của thành phố. Hiện nay, đây là một quảng trường mang tên Sultan Ahmet taaij thủ đô Istanbul của Thổ Nhĩ Kỳ, với một số tàn tích của các công tình nguyên thủy từng tồn tại.
[48] Francesco Busone (1382-1432), thường được gọi là bá tước Carmagnola, là một nhà lãnh đạo người Ý. Ông sinh tại Carmagnola trong một gia đình nông dân nghèo. Ông bắt đầu sự nghiệp quân sự khi mới mười hai tuổi và nhanh chóng trở thành một chiến tướng xuất sắc. Ông bị chính Gian Galeazzo Viscontí, quận công Milan, người mà ông phục vụ, nghi ngờ và bỏ tù rồi kết án xử tử ngày 5/5/1432.
[49] Báo cháy.
[50] Cấm vào.
[51] Viết tắt của Europian Centre for Disease Perevention and Control.
[52] Hai loại thuốc an thần, chống trầm cảm.
[53] Nguyên văn: “Dim Mak”, hay tiếng Anh “Touch of Death” (điểm mạch), là một kỹ thuật trong võ thuật được cho là có thể giết người nhằm vào một số khu vực đặc biệt của cơ thể mà không phải dùng lực quá nhiều. Điểm mạch được mô tả là một bí kíp với những kỹ thuật tấn công vào các huyệt vị và kinh mạch, làm đối thủ mất năng lực hoặc gây chết người ngay lập tức hoặc từ từ.
[54] Mustafa Kemal Atatürk (1881-1938) là nhà cách mạng, tổng thống đầu tiên của Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ. sau khi đế quốc Ottoman thất bại trong Chiến tranh thế giới thứ nhất, ông lãnh đạo Phong trào Quốc gia Thổ Nhĩ Kỳ, và kết quả là nước Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ ra đời năm 1923. Sau chiến tranh, Atatürk tiến hành cải cách chính trị, kinh tế vá văn hóa nhằm biến cựu đế quốc Ottoman thành một nhà nước hiện đại và thế tục. Những nguyên tắc cải cách đó được biết đến với tên “chủ nghĩa Kemal”.
[55] Mũi Vàng: Golden Horn là một vịnh nhỏ chia thành phố Istanbul và tạo thành một hải cảng tự nhiên cho các tàu thuyền của Hy Lạp, La Mã, Byzantine, Ottoman và các nước khác suốt hang nghìn năm. Đây là cửa biển có hình thanh đao, của các sông Alibeykoy và Kagithane, nối với Bosphorus đúng vị trí eo biển nhập vào biển Marmara, hình thành nên một bán đảo với phần đầu mút chính là “Istanbul” cũ (Byzantium cổ và Constantinople).
[56] Cột đồng Rắn biển (Serpent Column) là cột đồng cổ tại Hippodrome thuộc Constantinople, khu vực nay là Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ. Đây là một phần của tháp ba chân hiến tế thời Hy Lạp cổ đại, nguyên đặt tại Delphi và được Constantine I Đại đế dời tới Constantinople năm 324. Tháp được xây dựng để tưởng niệm những người Hy Lạp đã chiến đấu và đánh bại đế quốc Ba Tư trong trận Plataea (479 trước Công nguyên). Phần đầu rắn của cây cột cao tám mét này vẫn còn nguyên vẹn cho đến cuối thế kỷ XVII và nay được trưng bày tại Bảo tàng Khảo cổ Istanbul gần đó.
[57] Justinian I (482-565) là hoàng đế Đông La Mã từ năm 527 đến khi qua đời. Ông được phong thánh bởi các tín đồ Chính Thống giáo Đông phương. Triều đại của Justinian được đánh dấu bởi tham vọng phục hồi lãnh thổ của đế quốc Tây La Mã nhưng chỉ có thể thực hiện được một phần ở Bắc Phi, khôi phục lại Dalmatia, Sicilia, Ý và Rome trở về đế quốc sau hơn một nửa thế kỷ nằm dưới sự kiểm soát của người man di. Justinian là người san định và hệ thống luật pháp La Mã. Ông đã thành lập một bộ luật được biết dưới cái tên “dân luật đại toàn” (Corpus Juris Civilis).
Mời bạn qua blog: daotieuvu.blogspot.com để tải nhiều ebook hơn nữa
[58] Mehmed II (được biết là Mehmed Người Chinh phạt) (1432-1481) là vị Sultan thứ bảy của đế quốc Ottoman trong một thời gian ngắn từ năm 1444 tới tháng Chín năm 1446, và sau đó là từ tháng Hai năm 1451 tới 1481. Ở tuổi hai mươi mốt ông chinh phạt Constantinople, dẫn tới sự sụp đổ của đế quốc Đông La Mã. Mehmet tiếp tục chinh chiến ở châu Á, thống nhất lại Tiểu Á, và mở rộng lãnh thổ tới Beograd ở châu Âu.
[59] Thủy triều đỏ (red tide) là tên gọi quen thuộc chỉ hiện tượng các vi sinh vật biển, đặc biệt là các loại thực vật phù du, tập trung dày đặc gần mặt nước, khiến nước như đổi sang màu đỏ hoặc nâu. Một số trường hợp thủy triều đỏ sản sinh ra các độc tố tự nhiên, làm giảm ô xy trong nước và gây ra những tác động có hại khác. Ảnh hưởng đáng sợ nhất của hiện tượng này là khiến cho các loài cá, chim, động vật biển và những sinh vật đại dương và duyên hải khác chết hàng loạt.
[60] Nguyên văn: Orwellian dystopia, chỉ một dạng xã hội đối lập với chủ nghĩa xã hội không tưởng (utopia). Bởi vậy, xã hội “dystopia” có thể hiểu là cuộc sống như từ đáy địa ngục. Một tác phẩm tiêu biểu mô tả về xã hội này là 1984 của George Orwell. Ông là tiểu thuyết gia, nhà báo người Anh, nổi tiếng với những tác phẩm phê phán bất công xã hội, chế độ chuyến chế.
[61] Niccolò Machiavelli (1469-1527) là một nhà ngoại giao, nhà triết học chính trị, nhạc sĩ, nhà thơ, nhà soạn kịch, một trong những người sáng lập nền khoa học chính trị hiện đại. Ông được biết đến với các luận thuyết về chủ nghĩa hiện thực chính trị và chủ nghĩa cộng hòa. Ông còn là một nhân vật nổi bật của thời Phục Hưng Ý với vai trò đại pháp quan thứ hai của Cộng hòa Florence từ tháng Sáu năm 1498.
HẾT
