Hỏa Ngục: SỐ 1

http://truyenhiepsi.blogspot.com

Tác giả: Dan Brown


--1--
Ký ức chầm chậm phục hồi… như bong bóng sủi lên từ thẳm sâu của một cái giếng không đáy.

Một phụ nữ che mạng.

Robert Langdon đăm đăm nhìn người phụ nữ phía bên kia con sông nước đỏ sánh như máu. Ở bờ bên đó, người phụ nữ đứng đối diện anh, bất động, trang nghiêm, gương mặt ẩn dưới tấm mạng che. Tay cô giữ chặt một mảnh vải tainia màu lam, đang được cô giơ cao lên để tỏ lòng tôn kính với cả biển xác chết dưới chân mình. Mùi tử khí nồng nặc khắp nơi.

Hãy tìm kiếm, người phụ nữ thì thào. Và anh sẽ thấy.

Langdon nghe thấy những từ ấy như thể người phụ nữ nói ngay trong đầu anh. “Cô là ai?”, anh gọi to, nhưng giọng anh không hề phát thành tiếng.

Thời gian đang cạn dần, người ấy thì thào. Hãy tìm kiếm và sẽ thấy.

Langdon nhích một bước về phía sông, nhưng anh nhìn thấy rõ nước đỏ như máu và quá sâu, không thể lội qua. Khi Langdon ngước mắt nhìn lại người phụ nữ che mạng thì những xác người dưới chân cô đã nhân lên vô khối. Giờ có đến cả trăm, có khi hàng nghìn, một số vẫn còn sống, đang quằn quại trong đau đớn, chịu đựng những cái chết không dễ gì nghĩ ra được… bị lửa thiêu đốt, bị vùi lấp trong phân thối, xâu xé lẫn nhau. Anh có thể nghe rõ những tiếng kêu thảm thiết của con người vang vọng trên mặt nước.

Người phụ nữ tiến về phía anh, chìa hai cánh tay mảnh mai như thể đang cầu xin sự giúp đỡ.

“Cô là ai?”, Langdon lại gọi to.

Đáp lại, người phụ nữ giơ tay và từ từ gỡ tấm mạng khỏi mặt mình. Bà ấy đẹp mê hồn, nhưng già hơn Langdon hình dung – có lẽ đã ngoài sáu mươi, oai nghiêm và rắn rỏi, giống như một bức tường không nhuốm màu thời gian. Bà ấy có cái cằm cương nghị, đôi mắt sâu thẳm có hồn, và mái tóc bạc dài với những lọn quăn buông xõa xuống bờ vai. Cổ bà ấy đeo một miếng bùa bằng lam ngọc hình một con rắn quấn quanh cây quyền trượng.

Langdon có cảm giác mình đã biết bà ấy… tin tưởng bà. Nhưng bằng cách nào? Tại sao lại như vậy?

Lúc này bà ấy chỉ tay vào một đôi chân đang giãy giụa, thò ngược lên từ dưới đất, rõ ràng là chân của một sinh linh bất hạnh nào đó bị chôn ngược đầu tới tận thắt lưng. Phần đùi tái nhợt của người đó có một con chữ duy nhất – viết bằng bùn – R.

R ư? Langdon ngẫm nghĩ, đầy phân vân. Giống như trong… Robert ư? “Không lẽ đó là … mình?”

Gương mặt người phụ nữ không hé lộ gì cả. Hãy tìm và sẽ thấy, bà ấy nhắc lại.

Không hề báo trước, người bà ấy bắt đầu tỏa ra một thứ ánh sáng màu trắng… càng lúc càng sáng hơn. Cả cơ thể bà bắt đầu rung lên dữ dội, và sau đó, kèm theo một tiếng nổ lớn, bà vỡ tan thành cả nghìn mảnh ánh sáng.

Langdon hét lên, choàng tỉnh.

Căn phòng sáng trưng. Chỉ có mình anh. Mùi cồn y tế nồng gắt trong không khí, và đâu đó có tiếng máy phát ra những âm thanh trùng khớp với nhịp tim của anh. Langdon cố gắng nhúc nhích cánh tay phải, nhưng một cơn đau nhói khiến anh đành thúc thủ. Anh nhìn xuống phía dưới và thấy một ống truyền dính chặt lấy lớp da cánh tay mình.

Mạch anh đập rộn, và cỗ máy cũng giữ đúng nhịp, phát ra những tiếng kêu nhanh hơn.

Mình đang ở đâu thế nhỉ? Có chuyện gì không biết?

Gáy Langdon nhói lên một cơn đau buốt. Rất cẩn thận, anh đưa cánh tay còn lại chạm vào mặt mình, cố gắng định vị nguồn gốc cơn đau đầu. Bên dưới mái tóc rối bù, anh sờ thấy những nốt u cứng ngắc của hàng chục mũi khâu đã đóng vảy vì máu khô.

Anh nhắm mắt, cố gắng nhớ lại vụ tai nạn.

Không nhớ được gì cả. Trống rỗng hoàn toàn.

Nghĩ đi.

Chỉ có bóng tối mịt mùng.

Một người đàn ông mặc đồ thanh trùng bước vội vào, chắc chắn vì thấy màn hình cảnh báo nhịp tim đập nhanh của Langdon. Ông ấy có bộ râu dày, ria cũng rậm, và đôi mắt dịu dàng toát ra vẻ điềm tĩnh ân cần bên dưới đôi lông mày rậm.

“Đã có chuyện… gì vậy?”, Langdon gắng gượng. “Tôi bị tai nạn à?”

Người đàn ông râu rậm đưa một ngón tay lên môi và sau đó chạy vội ra ngoài, gọi một ai đó dưới sảnh.

Langdon xoay đầu, cử động đó gây ra một cơn đau nhói lan khắp người anh. Anh hít mấy hơi thật sâu để cơn đau dịu đi. Sau đó, rất nhẹ nhàng và cẩn thận, anh quan sát không gian vô trùng xung quanh mình.

Căn phòng bệnh viện này có một giường đơn. Không hoa hoét gì cả. Không bảng hiệu. Langdon nhìn thấy quần áo mình trên chiếc bàn quầy gần đó, gấp gọn trong một túi nhựa trong. Tất cả đều dính máu.

Chúa ơi. Chắc chắn là rất tệ.

Giờ Langdon chậm rãi xoay đầu về phía ô cửa sổ cạnh giường. Bên ngoài trời tối om. Đang đêm. Tất cả những gì Langdon có thể nhìn thấy trên kính là hình phản chiếu của anh – một kẻ xa lạ nhợt nhạt, xanh xao và mệt mỏi, người đầy ống và dây nhợ, xung quanh là các thiết bị y tế.

Có tiếng nói tiến lại gần trong hành lang, và Langdon đưa mắt trở lại căn phòng. Vị bác sĩ đã quay lại, đi cùng với một phụ nữ.

Cô ấy có vẻ như mới ngoài ba mươi một chút. Cô mặc bộ đồ thanh trùng màu xanh da trời và buộc gọn mái tóc vàng thành một túm đuôi ngựa đung đưa sau gáy theo nhịp chân của cô.

“Tôi là bác sĩ Sienna Brooks”, cô nói, nhìn Langdon mỉm cười ngay khi vừa bước vào. “Tôi sẽ làm việc cùng bác sĩ Marconi tối nay.”

Langdon yếu ớt gật đầu.

Cao ráo và uyển chuyển, bác sĩ Brooks di chuyển với dáng vẻ dứt khoát của một vận động viên. Ngay cả khi trong bộ đồ thanh trùng kì cục, ở cô vẫn toát lên vẻ thanh thoát, thướt tha. Mặc dù Langdon có thể thấy rõ là cô không hề trang điểm nhưng nước da của cô vẫn có vẻ mịn màng lạ thường, với khiếm khuyết duy nhất là một nốt ruồi duyên nhỏ xíu ngay phía trên môi. Đôi mắt cô, dù có màu hạt dẻ dịu dàng, dường như sắc sảo đến kỳ lạ, như thể chúng từng chứng kiến nhiều trải nghiệm mà một người trạc tuổi cô hiếm có dịp được tao ngộ.

“Bác sĩ Marconi không nói được nhiều tiếng Anh”, cô lên tiếng và ngồi xuống cạnh anh. “Và ông ấy đề nghị tôi giúp điền mẫu đơn nhập viện cho anh.” Cô lại mỉm cười.

“Cảm ơn cô”, Langdon rền rĩ.

“Được rồi”, cô lên tiếng, giọng toát lên sự tháo vát ân cần. “Tên anh là gì nhỉ?”

Anh phải mất một lúc mới trả lời được: “Robert… Langdon”.

Cô rọi đèn soi vào mắt anh. “Nghề nghiệp?”

Thông tin này được đưa ra còn chậm hơn nữa. “Giáo sư. Lịch sử nghệ thuật… và biểu tượng học. Đại học Harvard.”

Bác sĩ Brooks hạ đèn xuống, vẻ ngạc nhiên. Vị bác sĩ với đôi mày rậm trông cũng bất ngờ không kém.

“Anh là… người Mỹ à?”

Langdon ngơ ngác nhìn cô.

“Chỉ là…”, cô ngập ngừng. “Tối qua lúc anh đến đây, anh không hề có giấy tờ tùy thân. Lúc ấy anh mặc trang phục Harris Tweed và đi giày lười hiệu Somerset, cho nên chúng tôi đoán anh là người Anh.”

“Tôi là người Mỹ”, Langdon quả quyết với cô, nhưng anh quá mệt không thể giải thích được rằng anh rất chuộng quần áo may đo riêng.

“Anh có thấy đau chỗ nào không?”

“Ở đầu tôi”, Langdon đáp, cái đầu vẫn đang nhoi nhói của anh gặp ánh đèn rọi sáng quắc càng thêm khó chịu. May thay, bác sĩ Brooks bỏ đèn vào túi, cầm lấy cổ tay Langdon và kiểm tra mạch đập.

“Lúc tỉnh lại, anh la hét dữ dội”, cô nói. “Anh có nhớ tại sao không?”

Langdon vụt nhớ lại hình ảnh kỳ quái về người phụ nữ đeo mạng với những xác người quằn quại xung quanh. Hãy tìm và sẽ thấy. “Tôi gặp một cơn ác mộng.”

“Như thế nào?”

Langdon kể lại cho cô nghe.

Nét mặt của bác sĩ Brooks vẫn thản nhiên khi cô ghi chép trên kẹp hồ sơ. “Anh có nghĩ được điều gì gợi ra một hình ảnh kinh khủng như vậy không?”

Langdon lục lại ký ức rồi lắc đầu, động tác ấy khiến anh đau nhói như bị búa nện.

“Được rồi, anh Langdon”, cô nói, vẫn hí hoáy viết, “có vài câu hỏi thông thường dành cho anh. Hôm nay là thứ mấy trong tuần rồi?”.

Langdon nghĩ một lúc. “Thứ bảy. Tôi nhớ lúc sớm hôm nay mình đang đi bộ qua khuôn viên… chuẩn bị cho một loạt tiết giảng buổi chiều… đó là điều cuối cùng tôi nhớ được. Tôi bị ngã phải không?”

“Chúng ta sẽ nói sau. Anh có biết mình đang ở đâu không?”

Langdon cố phán đoán. “Bệnh viện Đa khoa Massachusetts phải không?”

Bác sĩ Brooks lại ghi chép. “Và chúng tôi có cần gọi ai đó cho anh không? Vợ? Hoặc con cái?”

“Không có ai cả”, Langdon đáp lại theo bản năng. Anh luôn thích sự tĩnh mịch và độc lập mà mình có nhờ lựa chọn cuộc sống độc thân, mặc dù anh phải thừa nhận rằng, trong tình huống hiện tại, anh thèm có được một gương mặt quen thuộc ở bên cạnh. “Tôi có thể gọi cho một vài đồng nghiệp, nhưng tôi ổn mà.”

Bác sĩ Brooks ngừng ghi chép, và vị bác sĩ lớn tuổi hơn tiến lại gần. Ông ấy vuốt vuốt đôi mày rậm về phía sau, móc từ trong túi một chiếc máy ghi âm nhỏ và đưa cho bác sĩ Brooks. Cô gật đầu hiểu ý và xoay lại phía bệnh nhân của mình.

“Anh Langdon, tối nay khi anh đến đây, anh cứ lẩm bẩm nhắc đi nhắc lại một điều gì đó.” Cô liếc nhìn bác sĩ Marconi đang giơ chiếc máy ghi âm kỹ thuật số ra và bấm nút.

Một đoạn ghi âm bắt đầu chạy, và Langdon nghe thấy giọng nói nhát gừng của mình, lặp đi lặp lại cụm từ: “Rấ… xin lỗi. Rấ… xin lỗi.”

“Theo tôi nghe”, người phụ nữ nói, “giống như anh đang nói “Rất xin lỗi. Rất xin lỗi”.

Langdon tán thành, nhưng anh lại không hề nhớ gì về chuyện đó.

Bác sĩ Brooks đăm đăm nhìn anh với ánh mắt cực kỳ đáng ngại. “Anh có ý tưởng gì về lý do tại sao anh lại nói câu này không? Anh xin lỗi vì điều gì đó chăng?”

Khi Langdon lục lại những chỗ tối nhất trong ký ức của mình, anh lại nhìn thấy người phụ nữ che mạng. Bà ấy đang đứng bên bờ một con sông đỏ máu với những xác người xung quanh. Mùi tử khí quay trở lại.

Bỗng nhiên Langdon thấy ngập trong một cảm giác rất bản năng về sự nguy hiểm… không chỉ cho chính anh… mà cho tất cả mọi người. Tiếng máy theo dõi nhịp tim của anh tăng vọt. Các cơ trong người anh cứng lại, và anh gắng ngồi dậy.

Bác sĩ Brooks vội ấn mạnh tay lên ức Langdon, ép anh nằm xuống. Cô liếc nhanh về phía vị bác sĩ râu rậm lúc này đang bước về phía cái bàn quầy kế bên và bắt đầu chuẩn bị thứ gì đó.

Bác sĩ Brooks ghé sát người xuống Langdon, thì thào. “Anh Langdon, tâm lý lo lắng là chuyện rất bình thường với những ca chấn thương não, nhưng anh cần giữ cho mạch đập giảm xuống. Đừng cử động. Đừng kích động. Hãy nằm yên và nghỉ ngơi. Anh sẽ ổn thôi. Trí nhớ của anh sẽ dần dần hồi phục.”

Giờ vị bác sĩ kia quay lại cùng với một ống tiêm và trao cho bác sĩ Brooks. Cô bơm toàn bộ số thuốc bên trong vào ống truyền của Langdon.

“Chỉ là một liều an thần nhẹ để anh bình tĩnh lại”, cô giải thích, “và cũng để giảm đau nữa”. Cô đứng lên. “Anh sẽ ổn thôi, anh Langdon. Hãy ngủ đi. Nếu anh cần gì, hãy bấm cái nút bên cạnh giường.”

Cô tắt đèn và rời đi cùng với vị bác sĩ râu rậm.

Trong bóng tối, Langdon cảm nhận rõ chất thuốc đang ngấm qua cơ thể anh gần như ngay tức thì, kéo thân xác anh chìm trở lại cái giếng sâu mà anh vừa ngoi lên. Anh cố chống lại cảm giác đó, cố mở to mắt trong bóng tối của căn phòng. Anh gắng ngồi dậy, nhưng có cảm giác cơ thể mình giống như cả khối xi măng.

Khi nhúc nhích, Langdon lại thấy mình nhìn ra ô cửa sổ. Đèn đóm đã tắt cả, và trong ô kính tối đen, hình ảnh phản chiếu của anh đã biến mất, thay vào đó là đường chân trời sáng lên phía xa.

Xen giữa những chóp nhọn và mái vòm nhấp nhô, nổi bật trong tầm nhìn của Langdon là một mặt tiền tráng lệ. Tòa nhà là một pháo đài đá rất uy nghi với lan can hình chữ V và ngọn tháp cao đến gần trăm mét phình ra ở gần đỉnh, tạo thành một khối đồ sộ có lỗ châu mai.

Langdon ngồi thẳng dậy trên giường, cơn đau như nổ tung trong đầu anh. Anh gắng nén cơn đau giần giật dữ dội và đăm đăm nhìn ngọn tháp.

Langdon biết rất rõ công trình trung cổ này.

Nó là thứ độc nhất vô nhị trên thế giới.

Tiếc thay, nó còn nằm cách xa Massachusetts tới bốn nghìn dặm.

Bên ngoài cửa sổ phòng anh, ẩn kín trong bóng tối của tòa nhà Via Torregalli [4], một phụ nữ có vóc dáng khỏe mạnh thong dong đẩy chiếc mô tô BMW tiến tới với sự tập trung cao độ của một con beo đang rình mồi. Ánh mắt của ả sắc lạnh. Mái tóc cắt ngắn kiểu đầu đinh của ả nổi bật trên phần cổ áo dựng ngược của bộ đồ lái xe bằng da đen. Ả kiểm tra vũ khí giảm thanh của mình, và chăm chú nhìn lên ô của sổ nơi ánh đèn chỗ Robert Langdon vừa tắt.

Chập tối nay, nhiệm vụ ban đầu của ả đã thất bại thảm hại.

Tiếng gù của một con bồ câu lẻ đàn đã làm thay đổi mọi việc.

Giờ ả đến để giải quyết mọi thứ cho êm đẹp.


--2--

Mình đang ở Florence ư!?

Đầu Robert Langdon đau như búa bổ. Lúc này anh đang ngồi thẳng trên chiếc giường bệnh, liên tục nhấn nút gọi bác sĩ. Bất chấp số thuốc an thần trong cơ thể, tim anh vận đập rộn.

Bác sĩ Brooks vội vã chạy vào, túm tóc đuôi ngựa của cô đung đưa. “Anh ổn chứ?”

Langdon lắc đầu đầy hoang mang. “Tôi đang ở… Ý à?”

“Tốt rồi”, cô nói. “Anh đang dần nhớ lại.”

“Không!” Langdon chỉ tay ra ngoài cửa sổ về phía tòa lâu đài uy nghi phía xa. “Tôi nhận ra Cung điện Vecchio.”

Bác sĩ Brooks bật đèn sáng trở lại, và đường chân trời của Florence biến mất. Cô đến bên giường anh, dịu dàng nói khẻ. “Anh Langdon, không cần phải lo lắng như vậy. Anh đang tạm thời bị mất trí nhớ, nhưng bác sĩ Marconi khẳng định chức năng não bộ của anh vẫn ổn.”

Vị bác sĩ rậm râu cũng chạy xộc vào, rõ ràng ông cũng nghe thấy tiếng nút gọi. Ông kiểm tra máy theo dõi nhịp tim của Langdon trong khi nữ bác sĩ trẻ nói liến thoắng với ông bằng thứ tiếng Ý rất trôi chảy, hình như về việc Langdon đã “kích động” như thế nào khi biết mình ở Ý.

Kích động ư? Langdon giận dữ nghĩ thầm. Chết sững thì đúng hơn! Adrenalin trào dâng trong cơ thể anh lúc này đang đối chọi với thuốc an thần. “Có chuyện gì xảy ra với tôi?”, anh gặng hỏi. “Hôm nay là thứ mấy?”

“Mọi thứ đều ổn”, cô đáp. “Mới rạng sáng. Thứ Hai, ngày Mười tám tháng Ba.”

Thứ hai. Langdon cố ép bộ óc đang đau nối tua lại những hình ảnh cuối cùng anh còn có thể nhớ ra – lạnh lẽo và tăm tối – bước đi một mình qua khuôn viên Harvard để tới buổi giảng bài tối thứ Bảy. Tức là đã hai ngày trước ư?! Một cơn đau nhức buốt hơn níu chặt lấy Langdon khi anh cố nhớ lại bất kỳ chi tiết nào kể từ buổi lên lớp hoặc sau đó. Chẳng nhớ được gì. Tiếng máy theo dõi nhịp tim của anh tăng nhanh.

Vị bác sĩ lớn tuổi gãi gãi chòm râu và tiếp tục điều chỉnh thiết bị trong khi bác sĩ Brooks ngồi xuống bên cạnh Langdon.

“Anh sẽ ổn thôi”, cô trấn an anh, giọng rất dịu dáng. “Chúng tôi chẩn đoán anh bị suy yếu ký ức cũ, một chứng rất phổ biến khi bị chấn thương vùng đầu. Ký ức về vài ngày qua của anh có thể lộn xộn hoặc biến mất, nhưng anh không hề bị tổn thương nào vĩnh viễn.” Cô ngừng lại. “Anh có nhớ được tên tôi không? Tôi đã nói với anh lúc tôi mới vào đây.”

Langdon nghĩ một lúc, “Sienna”. Bác sĩ Sienna Brooks.

Cô mỉm cười. “Thấy không? Anh đã hình thành trí nhớ mới.”

Cơn đau đầu khiến Langdon gần như không chịu nổi, và tầm nhìn rất gần của anh vẫn mờ nhòa. “Có chuyện gì… vậy? Làm thế nào tôi đến được đây?”

“Tôi nghĩ anh nên nghỉ ngơi, và có lẽ…”

“Làm sao tôi đến được đây?”, anh gặng hỏi, máy theo dõi nhịp tim càng nhanh thêm.

“Được rồi, hãy thở đều nào”, bác sĩ Brooks nói, trao đổi với đồng nghiệp cái nhìn lo lắng. “Tôi sẽ nói với anh.” Giọng cô trở nên nghiêm túc thấy rõ. “Anh Langdon, ba giờ trước, anh lảo đảo bước vào phòng cấp cứu, trên đầu có một vết thương đang chảy máu, và anh ngã gục ngay lập tức. Không có người nào biết anh là ai hay làm cách nào anh tới được đây. Anh cứ lầm bầm bằng tiếng Anh, cho nên bác sĩ Marconi đề nghị tôi hỗ trợ. Tôi từ Anh tới đây nghỉ phép.”

Langdon cảm thấy như thể mình vừa tỉnh dậy trong một bức tranh của Max Ernst [5]. Mình làm quái gì ở Ý chứ? Thông thường, Langdon vẫn tới đây vào mỗi dịp tháng Sáu để dự hội thảo về nghệ thuật, nhưng giờ mới là tháng Ba.

Thuốc an thần giờ có tác dụng mạnh hơn, và anh cảm thấy như thể lực hút trái đất đang tăng dần theo từng giây, ghìm chặt anh xuống tấm đệm. Langdon cố cưỡng lại, ngẩng cao đầu, gắng giữ tỉnh táo.

Bác sĩ Brooks nghiêng người về phía anh, như một thiên thần che chắn. “Nào, anh Langdon”, cô thì thầm. “Chấn thương đầu rất nhạy cảm trong vòng hai mươi tư giờ đầu tiên. Anh cần nghỉ ngơi hoặc anh sẽ bị chấn thương nghiêm trọng đấy.”

Đột ngột có tiếng nói lạo xạo vang lên trong hệ thống liên lạc của căn phòng. “Bác sĩ Marconi?”

Vị bác sĩ có râu nhấn một chiếc nút trên tường và trả lời, “Vâng?”.

Giọng trong hệ thống liên lạc nói bằng tiếng Ý rất nhanh. Langdon không thể nghe được họ nói gì, nhưng anh nhìn thấy hai vị bác sỹ trao đổi một cái nhìn đầy ngạc nhiên. Hay báo nguy chăng?

“Chờ chút”, Marconi đáp, kết thúc cuộc trò chuyện.

“Có chuyện gì vậy?”, Langdon hỏi.

Đôi mắt của bác sĩ Brooks dường như hơi nheo lại một chút. “Nhân viên lễ tân bộ phận chăm sóc đặc biệt ấy mà. Có người tới thăm anh.”

Một tia hy vọng rọi qua trạng thái chếch choáng của Langdon. “Tin vui đấy! Có lẽ người này biết chuyện gì xảy ra với tôi.”

Trông Brooks không chắc chắn lắm. “Hơi lạ là lại có ai đó đến đây. Chính chúng tôi còn không hề biết tên anh, và thậm chí anh còn chưa đăng ký vào hệ thống.”

Langdon cố chống chọi lại tác dụng của các loại thuốc giảm đau và loay hoay tìm cách ngồi thẳng dậy trên giường. “Nếu có ai đó biết tôi ở đây, nhất định người đó phải biết đã có chuyện gì xảy ra!”

Bác sĩ Brooks liếc nhìn bác sĩ Marconi, ông lập tức lắc đầu và liếc đồng hồ đeo tay. Cô quay lại phía Langdon.

“Đây là khoa chăm sóc đặc biệt”, cô giải thích. “Không ai được phép vào, sớm nhất cũng phải tới 9 giờ sáng. Một lát nữa bác sĩ Marconi sẽ ra xem vị khách kia là ai và người đó muốn gì.”

“Thế còn điều tôi muốn thì sao?”, Langdon vặn hỏi.

Bác sĩ Brooks kiên nhẫn mỉm cười và hạ giọng, cúi xuống sát hơn. “Anh Langdon, có vài việc trong tối nay mà anh chưa biết… liên quan đến chuyện xảy ra với anh. Và trước khi anh trò chuyện với bất kỳ ai, tôi nghĩ tốt hơn cả là anh nên có đầy đủ mọi dữ kiện. Rất tiếc, tôi không nghĩ rằng anh đủ khỏe mạnh để…”

“Dữ kiện gì cơ?”, Langdon thắc mắc, cố nhỏm dậy thêm. Đường ống truyền dịch trên cánh tay anh nhói lên, và cơ thể anh ngã vật xuống như thể nặng đến vài trăm cân. “Tất cả những gì tôi biết là tôi đang nằm trong một bệnh viện ở Florence và xuất hiện trong khi lặp đi lặp lại mấy chữ “rất xin lỗi…”

Một ý nghĩ đáng sợ vụt hiện ra trong tâm trí anh.

“Hay là tôi phải chịu trách nhiệm về một vụ tai nạn xe hơi?”, Langdon hỏi. “Tôi làm ai đó bị thương à?!”

“Không, không”, bác sĩ Brooks đáp. “Tôi không nghĩ vậy!”

“Vậy thì chuyện gì đây?”, Langdon cố nài, nhìn cả hai vị bác sĩ đầy giận dữ. “Tôi có quyền được biết chuyện gì đang xảy ra!”

Im lặng kéo dài, và cuối cùng bác sĩ Marconi miễn cưỡng gật đầu với cô đồng nghiệp trẻ trung quyến rũ. Bác sĩ Brooks thở hắt ra và tiến lại sát bên giường của anh hơn. “Được rồi, để tôi kể lại cho anh những gì tôi biết… và anh cần lắng nghe một cách bình tĩnh, được chứ?”

Langdon gật mạnh khiến một cơn đau buốt lan khắp đầu anh. Anh không quan tâm lắm mà chăm chú chờ nghe câu trả lời.

“Vấn đề đầu tiên là thế này… Vết thương ở đầu anh không phải do một vụ tai nạn gây ra.”

“Tốt quá, nhẹ cả người.”

“Không đơn giản thế đâu. Thực tế, vết thương của anh là do một phát đạn.”

Màn hình theo dõi nhịp tim của Langdon nhảy nhanh hơn. “Xin lỗi tôi nghe không rõ!”

Bác sĩ Brooks nói điềm tĩnh nhưng ngắn gọn. “Một viên đạn sượt qua đỉnh đầu anh và chắc chắn khiến anh bị chấn động. Rất may mắn là anh còn sống. Chỉ thấp xuống một phân nữa thì…” Cô lắc đầu.

Langdon đăm đăm nhìn cô vẻ không tin. Có ai đó bắn mình ư?

Phòng đợi vang lên những tiếng đôi co đầy giận dữ. Có vẻ như ai đó tới thăm Langdon không muốn phải chờ đợi. Gần như ngay lập tức, Langdon nghe thấy ở đầu kia hành lang có tiếng cánh cửa nặng nề bật tung. Anh cố nhìn cho tới khi thấy một bóng người đang tiến dần tới trong hành lang.

Người phụ nữ đó mặc toàn đồ đen. Dáng cô ta rắn chắc và khỏe khoắn với kiểu đầu đinh. Cô ta di chuyển rất thư thái, cứ như thể đôi chân không hề chạm đất, và cô ta nhắm thẳng về phía phòng của Langdon.

Không chút do dự, bác sĩ Marconi bước qua cửa hành lang để chắn lối đi của vị khách. “Dừng lại!”, người đàn ông ra lệnh, bàn tay vương ra như một viên cảnh sát.

Kẻ lạ vẫn không hề chùn bước, rút ra một khẩu súng giảm thanh. Ả nhắm thẳng vào ngực bác sĩ Marconi và nã đạn.

Có tiếng gió rít.

Langdon kinh hãi chứng kiến khi bác sĩ Marconi lảo đảo bước lùi vào phòng, ngã vật xuống sàn, tay ôm chặt lấy ngực, chiếc áo choàng trắng của ông đẫm máu.


--3--

Năm dặm ngoài khơi nước Ý, chiếc du thuyền sang trọng dài hơn bảy mươi mốt mét [6] mang tên The Mendacium chạy băng băng qua màn sương trước lúc rạng đông xuất hiện trên những lớp sóng dập dềnh của biển Adriatic. Phần thân thon của con tàu được sơn màu xám chì, khiến nó có khí sắc không mấy thân thiện rất đặc trưng của một con tàu quân sự.

Với giá hơn 300 triệu đô la Mỹ, con tàu tự hào với đầy đủ tiện nghi thông dụng – phòng tắm hơi, bể bơi, rạp chiếu phim, tàu ngầm cá nhân, và cả sân trực thăng. Tuy nhiên, những thứ lặt vặt cần dùng hằng ngày của con tàu lại ít được chủ nhân quan tâm. Vị chủ nhân này nhận con tàu năm năm về trước, sau đó lập tức phá bỏ hầu hết các tiện nghi này để lắp đặt một trung tâm chỉ huy điện tử cấp quân sự bậc nhất.

Được kết nối với ba đường truyền vệ tinh chuyên dụng và một loạt trạm tiếp sóng mặt đất, phòng điều khiển trên tàu The Mendacium có đội ngũ nhân viên hơn hai chục người – gồm kỹ thuật viên, chuyên gia phân tích, chuyên gia điều phối tác chiến – sống luôn trên tàu và giữ liên lạc thường xuyên với nhiều trung tâm tác chiến trên bộ của tổ chức.

Bộ phận an ninh thường trực trên tàu gồm một đơn vị binh sĩ tinh anh được huấn luyện bài bản về quân sự, hai hệ thống dò tìm tên lửa, và một kho vũ khí tối tân. Bộ phận nhân viên hỗ trợ khác – đầu bếp, tạp vụ, và phục vụ - nâng tổng số người trên tàu lên hơn bốn mươi. Thực tế, tàu The Mendacium chính là một tòa văn phòng di động giúp chủ nhân của nó điều hành cả đế chế của mình.

Được các nhân viên xem như “Thị Trưởng”, chủ nhân con tàu là một người đàn ông nhỏ thó với làn da sạm nắng và cặp mắt sâu hoắm. Vẻ ngoài không lấy gì làm đường bệ cùng phong thái bộc trực của ông ta dường như rất hợp với một người cực kỳ giàu có nhờ cung cấp những dịch vụ kín đáo trong thế giới ngầm.

Ông ta từng được gọi bằng đủ thứ biệt danh – gã đánh thuê vô cảm, kẻ tiếp tay cho tội ác, tên tay sai của quỷ dữ - nhưng ông ta không phải là hạng nào trong số này. Đơn giản là Thị Trưởng cung cấp cho khách hàng cơ hội để theo đuổi tham vọng và dục vọng của họ bất chấp hậu quả, còn việc vốn dĩ con người ai cũng mắc sai lầm thì không phải vấn đề làm ông ta bận tâm.

Mặc kệ việc bị người ta chỉ trích và phản đối, kim chỉ nam đạo đức của Thị Trưởng là một ngôi sao cố định. Ông ta tạo dựng danh tiếng và đế chế của mình dựa trên hai nguyên tắc vàng.

Không bao giờ đưa ra lời hứa nếu không thể giữ lời.

Và không bao giờ nói dối khách hàng.

Chưa từng.

Trong sự nghiệp của mình, Thị Trưởng chưa bao giờ thất hứa hay vi phạm thỏa thuận làm ăn. Lời nói của ông ta có thể đem thế chấp ngân hàng được – một vật bảo đảm tuyệt đối – và mặc dù chắc chắn có những hợp đồng ông ta lấy làm tiếc vì đã thực hiện, nhưng nuốt lời trước những hợp đồng ấy chưa bao giờ là lựa chọn của ông ta cả.

Sáng hôm nay, khi bước ra ban công phòng ngủ trên du thuyền của mình, Thị Trưởng phóng tầm mắt về phía mặt biển đang nổi sóng và cố gắng xua đi mối băn khoăn đang cuộn lên trong lòng.

Những quyết định trong quá khứ chính là các kiến trúc sư cho hiện tại của chúng ta.

Những quyết định trong quá khứ của Thị Trưởng đã giúp ông ta luôn giành thế chủ động trong bất kỳ hoàn cảnh khó khăn nào và thoát ra ở thế thượng phong. Tuy nhiên, ngày hôm nay, lúc nhìn qua cửa sổ về phía những ánh đèn của lục địa phía xa, ông ta lại cảm thấy bức bối lạ thường.

Một năm trước, cũng trên chính con thuyền này, ông ta đã có một quyết định mà những dây mơ rễ má lằng nhằng của nó giờ đây đang đe dọa lật tung mọi thứ ông ta từng xây dựng. Ta đã đồng ý cung cấp dịch vụ cho nhầm người mất rồi. Thời điểm đó, Thị Trưởng không có cách nào biết được điều ấy, và lúc này việc tính toán sai lầm đó kéo theo cả chuỗi thách thức chưa từng có, buộc ông ta phải phái một số đặc vụ ngoại tuyến cừ nhất của mình “vào trận”, với mệnh lệnh làm “bất cứ việc gì cần thiết” để giữ con thuyền đang chao đảo của ông ta không bị lật úp.

Lúc này, Thị Trưởng đang đợi nghe tin từ một đặc vụ rất đặc biệt.

Vayentha, ông ta nghĩ thầm, nhớ tới hình ảnh một chuyên gia đầu đinh rắn rỏi. Vayentha, người luôn phục vụ ông ta đâu ra đấy cho tới sứ mệnh lần này, tối qua cô ta đã phạm một sai lầm với những hậu quả kinh khủng. Sáu tiếng qua quả là một cuộc ganh đua quyết liệt, một nỗ lực tuyệt vọng nhằm tái kiểm soát tình hình.

Vayentah nói cô ta phạm lỗi chỉ đơn giản là do không may mắn – con chim cất tiếng kêu không đúng lúc.

Tuy nhiên, Thị Trưởng không tin vào may rủi. Mọi việc ông ta làm đều được sắp xếp để loại bỏ yếu tố ngẫu nhiên và may rủi. Quyền kiểm soát là chuyên môn của Thị Trưởng – tiên liệu mọi khả năng, dự đoán mọi phản ứng, và nhào nặn thực tiễn theo đúng kết quả mong muốn. Ông ta có hồ sơ không tì vết về những phi vụ thành công và kín tiếng, cùng một danh sách khách hàng quen thân đáng nể - những tỷ phú, chính trị gia, tộc trưởng Hồi giáo, và thậm chí các nhân viên chính phủ.

Phía đông, quầng sáng nhờ nhờ đầu tiên của buổi sớm bắt đầu nuốt chửng những vì sao thấp nhất ở đường chân trời. Thị Trưởng đứng trên sàn tàu và kiên nhẫn đợi Vayentha thông báo rằng sứ mệnh của cô ta đã tiến triển đúng như kế hoạch.


--4--

Trong khoảnh khắc, Langdon cảm thấy như thể thời gian ngừng lại.

Bác sĩ Marconi nằm bất động trên sàn, máu tuôn ra từ ngực ông. Langdon cố cưỡng lại tác dụng của thuốc an thần trong cơ thể, ngước mắt nhìn lên kẻ ám sát đầu đinh lúc này vẫn đang sải bước ngoài hành lang, băng qua nốt mấy thước cuối cùng để tiếp cận khuôn cửa bỏ ngỏ vào phòng anh. Khi gần đến ngưỡng cửa, ả nhìn về phía Langdon và lập tức chĩa vũ khí về hướng anh… nhằm thẳng vào đầu.

Mình sắp chết, Langdon nhận ra như vậy. Ở đây và ngay lúc này.

Một tiếng đập chát chúa vang lên trong phòng bệnh chật hẹp.

Langdon giật nảy, chắc chắn anh đã bị va đập, nhưng tiếng ồn đó không phải là tiếng súng của kẻ tấn công. Thay vào đó, tiếng đập ấy là tiếng đóng cánh cửa thép nặng nề của phòng bệnh khi bác sĩ Brooks lao người vào cửa và xoay ổ khóa.

Đôi mắt dại đi vì sợ hãi, bác sĩ Brooks lập tức thụp xuống bên cạnh người đồng nghiệp đẫm máu của mình, cố gắng bắt mạch. Bác sĩ Marconi thổ ra một búng máu, tràn dọc từ má xuống bộ râu dày. Rồi ông lả đi.

“Enrico, đừng! Xin anh!”, cô kêu lên.

Bên ngoài, cả loạt đạn nổ chát chúa nhằm vào lớp vỏ kim loại phía ngoài ô cửa. Tiếng chuông báo động vang lên khắp hành lang.

Bằng cách nào đó, cơ thể Langdon hoạt động trở lại, hoảng hốt và đầy bản năng, lấn át tác dụng của thuốc an thần. Trong lúc lóng ngóng leo ra khỏi giường, một cảm giác đau như phải bỏng xé qua cánh tay phải của anh. Trong khoảnh khắc, Langdon nghĩ một viên đạn đã xuyên qua cửa và trúng anh, nhưng khi nhìn xuống, anh nhận ra cây kim truyền bung khỏi tay mình. Đường ống nhựa thòi ra từ một cái lỗ trên cánh tay, và dòng máu nóng hổi đang chảy ngược ra khỏi ống.

Giờ thì Langdon hoàn toàn tỉnh táo.

Bác sĩ Brooks vẫn quỳ sụp bên cạnh xác Marconi, cố bắt mạch cho ông, nước mắt không ngừng trào ra. Sau đó, như thể có một công tắc vừa nhảy bên trong, cô đứng lên và quay lại phía Langdon. Vẻ mặt cô biến đổi ngay trước mắt anh, những nét trẻ trung như đanh lại với tất cả vẻ điềm tĩnh của một bác sĩ cấp cứu dày dạn đang phải xử lý một tình huống khủng hoảng.

“Theo tôi”, cô ra lệnh.

Bác sĩ Brooks nắm lấy tay Langdon và kéo anh băng qua phòng. Tiếng súng và tình trạng hỗn loạn vẫn tiếp tục trong hành lang khi Langdon lảo đảo bước đi trên đôi chân còn chưa vững. Đầu óc rất tỉnh táo nhưng cơ thể nặng như đeo đá của anh lại phản ứng rất chậm. Đi nào! Sàn nhà lát đá hoa lạnh ngắt dưới gan bàn chân, và bộ quần áo bệnh viện mỏng manh của anh không đủ dài để che kín tấm thân hơn một mét tám. Anh có thể cảm nhận được máu đang trào ra từ cánh tay và chảy xuống bàn tay mình.

Đạn vẫn tiếp tục bay tới ổ khóa nặng nề, bác sĩ Brooks đẩy vội Langdon vào một phòng tắm nhỏ. Cô định vào theo thì chợt dừng lại, nhìn xung quanh rồi chạy trở lại phía quầy nhặt lấy chiếc áo hiệu Harris Tweed đẫm máu của anh.

Cứ mặc xác cái áo khoác chết tiệt của tôi đi!

Cô quay lại, tay khư khư chiếc áo khoác và nhanh nhẹn khóa cửa phòng tắm. Vừa lúc, cánh cửa phòng ngoài bật tung.

Cô bác sĩ trẻ nắm quyền kiểm soát. Cô bước vội qua gian phòng tắm nhỏ tới ô cửa thứ hai, giật tung ra, và dẫn Langdon vào phòng hồi sức liền kề. Tiếng súng vang lên phía sau họ khi bác sĩ Brooks ghé đầu ra ngoài hành lang, nhanh chóng kéo tay Langdon và lôi anh băng ngang hành lang lọt vào khu vực cầu thang. Cử động đột ngột làm Langdon chóng mặt, anh cảm thấy có thể bất tỉnh bất kỳ lúc nào.

Mười lăm giây tiếp theo là tình trạng mờ nhòe… đi xuống cầu thang… trượt chân… ngã. Cơn giật giật trong đầu Langdon gần như không thể chịu nổi. Thị lực của anh lúc này dường như còn mờ nhòe hơn, các cơ bắp rã rời, mỗi cử động đều có cảm giác như một phản ứng rất chậm trễ.

Và lúc này khí trời lạnh hẳn lên.

Mình đã ra ngoài.

Khi bác sĩ Brooks đẩy anh rời xa khỏi tòa nhà dọc theo một con hẻm tối om, Langdon giẫm phải thứ gì đó sắc cạnh và ngã chúi xuống, đập mạnh vào vỉa hè. Cô cố gắng giúp anh đứng dậy, miệng rủa thành tiếng chuyện anh vẫn chịu tác động của thuốc an thần.

Khi họ tới gần cuối hẻm, Langdon lại vấp lần nữa. Lần này, cô để mặc anh nằm trên đất, chạy băng ra phố và thét gọi ai đó ở phía xa. Langdon có thể nhận ra ngọn đèn màu xanh lục nhòe nhòe của một chiếc taxi đỗ ngay phía trước bệnh viện. Chiếc xe không hề di chuyển, rõ ràng người lái xe đang say ngủ. Bác sĩ Brooks hét to và khua khoắng tay. Cuối cùng, đèn pha taxi bật lên và xe chầm chậm lăn bánh về phía họ.

Trong hẻm phía sau Langdon, có tiếng cánh cửa bật tung, tiếp theo là tiếng những bước chân đang tiến đến gấp gáp. Anh ngoái lại và nhìn thấy cái bóng đen thẫm đang lao vọt về phía mình. Langdon cố gắng đứng dậy, nhưng cô bác sĩ đã ôm lấy anh, đẩy anh vào ghế sau của chiếc taxi hiệu Fiat. Anh buông nửa người trên ghế, nửa trên sàn xe trong khi bác sĩ Brooks chồm lên, dùng tay giật cho cửa đóng lại.

Người tài xế ngái ngủ ngoái lại và trợn mắt nhìn cặp đôi kỳ quặc vừa chen lên xe mình – một phụ nữ tóc đuôi ngựa trẻ trung mặc quần áo bác sĩ và một người đàn ông mặc đồ bệnh nhân với cánh tay chảy máu. Anh ta sắp lên tiếng yêu cầu họ cuốn xéo ra khỏi xe thì gương bên sườn xe vỡ tan. Người phụ nữ mặc đồ da đen chạy phăm phăm ra khỏi hẻm, tay chĩa súng. Khẩu súng ngắn của ả lại nhả đạn lần nữa vừa lúc bác sĩ Brooks nhấn đầu Langdon xuống. Cửa sổ sau vỡ tan, mảnh kính rơi xuống người họ rào rào.

Người lái xe không cần gì thúc giục thêm. Anh ta đạp mạnh chân ga, chiếc taxi phóng vọt đi.

Langdon vẫn trong trạng thái lơ mơ. Ai đó đang tìm cách giết mình ư?

Khi họ đã ngoặt qua góc đường, bác sĩ Brooks ngồi dậy và nắm lấy cánh tay chảy máu của Langdon. Đường ống nhựa thò ra từ cái lỗ trên da thịt anh.

“Nhìn ra ngoài cửa đi”, cô ra lệnh.

Langdon tuân theo. Bên ngoài, những tấm bia mộ ma quái vùn vụt trôi qua trong bóng tối. Dường như họ đang băng qua một nghĩa địa. Langdon cảm thấy những ngón tay của cô bác sĩ nhẹ nhàng nắm lấy ống nhựa và sau đó, không hề báo trước, cô giật mạnh ra.

Một cơn đau buốt chạy thẳng lên đầu Langdon. Anh cảm thấy mắt mình mờ đi, và sau đó mọi thứ tối đen.


--5--

Tiếng chuông điện thoại vang lên khiến Thị Trưởng rời mắt khỏi màn sương êm đềm trên biển Adriatic, ông ta nhanh nhẹn bước vào văn phòng riêng.

Rất đúng lúc, ông ta nghĩ, vẻ háo hức chờ đợi tin báo.

Màn hình máy tính trên bàn làm việc của ông ta chớp chớp bật lên, thông báo rằng cuộc gọi đến từ một điện thoại mã hóa giọng nói cá nhân hiệu Sectra Tiger XS của Thụy Điển, đã được gửi lại qua bốn thiết bị tiếp sóng không thể truy vết trước khi kết nối vào tàu của ông ta.

Ông ta nhấc ống nghe. “Thị Trưởng đây”, ông ta trả lời, chậm rãi và cẩn trọng. “Nói đi!”

“Tôi Vayentha đây”, giọng bên kia đáp lại.

Thị Trưởng cảm nhận rõ sắc thái bồn chồn khác thường trong ngữ điệu của ả. Các đặc vụ hiếm khi trực tiếp nói chuyện với Thị Trưởng, và thậm chí càng hiếm khi vẫn được làm việc cho ông ta sau một thất bại giống như tối qua. Tuy nhiên, Thị Trưởng đã yêu cầu một đặc vụ tại đó giúp khắc phục biến cố, và Vayentha là người thích hợp nhất cho công việc này.

“Tôi có tin mới”, Vayentha nói.

Thị Trưởng im lặng, cảm nhận của ông ta về ả vẫn nguyên vẹn.

Khi ả nói, ngữ điệu hoàn toàn vô cảm, thể hiện rõ một cố gắng ở tầm cỡ chuyên gia. “Langdon đã trốn thoát”, cô ta nói. “Anh ta có người.”

Thị Trưởng ngồi xuống mặt bàn và im lặng một lúc khá lâu. “Hiểu”, cuối cùng ông ta nói. “Tôi cho rằng anh ta sẽ tìm tới cơ quan chức năng sớm nhất có thể.”

o O o

Phía dưới Thị Trưởng hai tầng, ở trung tâm kiểm soát an ninh của con tàu, chuyên gia điều phối cao cấp Laurence Knowlton ngồi trong buồng riêng và nhận ra cuộc gọi mã hóa của Thị Trưởng đã chấm dứt. Anh ta hy vọng có tin tốt lành. Vẻ căng thẳng của Thị Trưởng thấy rất rõ suốt hai ngày qua, và mọi nhân viên điều hành trên tàu đều cảm thấy chắc chắn có một tác vụ rất quan trọng nào đó đang diễn ra.

Nguy cơ đang quá cao, và tốt hơn cả lúc này Vayentha thu xếp ổn thỏa.

Knowlton đã quen với việc hỗ trợ những kế hoạch được xây dựng kỹ lưỡng, nhưng riêng kịch bản này lại chẳng đi đến đâu, và Thị Trưởng phải đích thân tham chiến.

Chúng ta đã tiến vào một lãnh thổ chưa có tên trên bản đồ.

Mặc dù có đến nửa tá nhiệm vụ khác đang được tiến hành trên khắp thế giới, nhưng tất cả đều do những văn phòng ngoại tuyến khác nhau của Consortium thực hiện, giúp Thị Trưởng và bộ sậu của ông ta trên con tàu The Mendacium rảnh rang tập trung vào sứ mệnh này.

Khách hàng của họ đã nhảy lầu tự sát vài ngày trước tại Florence, nhưng Consortium vẫn còn nợ người đó vô số công việc – những nhiệm vụ cụ thể người ấy đã giao phó cho tổ chức này bất kể tình hình thế nào – và Consortium, lúc nào cũng vậy, phải tuân thủ mà không được nghi vấn gì cả.

Mình cũng nhận được mệnh lệnh, Knowlton nghĩ thầm, và hoàn toàn chấp hành. Anh ta ra khỏi gian buồng lắp kính chống đạn của mình, đi bộ qua mấy buồng nữa – một số nhìn xuyên qua được, một số lắp kính mờ - nơi các nhân viên tác vụ đang xử lý các mảng khác nhau của cùng nhiệm vụ này.

Knowlton bước qua lớp không khí điều hòa của phòng điều khiển chính, gật đầu với tốp kỹ thuật, và bước vào một khoang nhỏ có lối đi riêng cất giữ hơn chục cái két. Anh ta mở một cái két và lấy những thứ bên trong ra – lần này, chỉ có một thẻ nhớ màu đỏ thẫm. Theo miếng giấy ghi nhiệm vụ đính kèm, thẻ nhớ này chứa một tệp video lớn, vị khách hàng đã chỉ đạo họ chuyển cho các cơ quan truyền thông lớn vào một thời điểm cụ thể lúc sáng mai.

Việc gửi tệp ẩn danh vào sáng mai rất đơn giản, nhưng theo quy trình chung cho tất cả các tệp số hóa, lưu đồ đã đánh dấu tệp này cho mục duyệt lại ngày hôm nay – hai mươi tư tiếng trước khi gửi – để bảo đảm Consortium có đủ thời gian thực hiện bất kỳ quy trình giải mã, biên soạn cần thiết nào, hoặc những bước chuẩn bị quan trọng khác trước khi chuyển tệp vào đúng thời điểm.

Loại trừ hết mọi may rủi.

Knowlton quay lại gian buồng trong suốt của mình và đóng cánh cửa kính nặng nề lại, tách biệt hẳn với thế giới bên ngoài.

Anh ta bật công tắc trên tường, gian buồng lập tức trở nên mờ đục. Để bảo đảm tính bảo mật, tất cả các buồng vách kính trên tàu The Mendacium đều được tạo bằng loại kính SPD thông minh. Độ trong suốt của kính được kiểm soát dễ dàng bằng cách vận hành hoặc loại bỏ một dòng điện, giúp điều chỉnh thẳng hàng hoặc làm lộn xộn hàng triệu phân tử hình que nhỏ xíu lơ lửng trong tấm kính.

Chia thành từng ngăn là một nền tảng cho thành công của Consortium.

Chỉ biết nhiệm vụ của mình. Không chia sẻ gì hết.

Lúc này, Knowlton ngồi gọn trong không gian riêng, cắm thẻ nhớ vào máy tính và chọn tệp để bắt đầu công việc thẩm định.

Lập tức màn hình của anh ta chuyển sang màu đen… và loa bắt đầu phát ra những âm thanh khe khẽ của nước chảy. Một hình ảnh từ từ xuất hiện trên màn hình… không có hình dạng xác định và lờ mờ. Từ trong nền tối dần định hình một khung cảnh… bên trong một hang đá… hay gian buồng rất lớn. Nền không gian đó là nước, giống như một cái hồ ngầm. Điều rất lạ là nước có vẻ được chiếu sáng… từ bên trong.

Trong khi âm thanh nước chảy vẫn tiếp tục, máy quay bắt đầu lia xuống dưới và hạ thấp dần theo chiều dọc, hướng thẳng tới mặt nước được chiếu sáng rồi lao xuyên qua. Tiếng nước róc rách biến mất, thay bằng tiếng óc ách rất lạ phía dưới. Giờ thì máy quay đã chìm nghỉm, tiếp tục tiến xuống, di chuyển vài thước trong nước rồi dừng lại, lấy nét vào phần nền hang phủ đầy bùn đất.

Trên nền có bắt vít một tấm biển hình chữ nhật bằng titan tỏa ánh sáng lờ mờ.

Tấm biển có dòng chữ khác.

TẠI NƠI NÀY, VÀO NGÀY NÀY,

THẾ GIỚI THAY ĐỔI MÃI MÃI.

Phần dưới tấm biển có khắc một cái tên và ngày tháng.

Đó là tên vị khách hàng của họ.

Ngày tháng… chính là ngày mai.
XEM TIEP CHUONG http://truyenhiepsi.blogspot.com

Blog Truyện Hiệp Sĩ

truyenhiepsi

Truyện được sưu tầm chia sẻ trên các web miễn phí...

Tìm Kiếm Truyện

Theo dõi blog!

Nhận bài viết mới qua email. Chỉ cần nhập địa chỉ email của bạn dưới đây nếu bạn muốn đăng ký!