Tác giả: Robert Galbraith (J.k.rowling)
Optimumgue est, ut volgv dixere, aliena insania frui.
Sự đời đã tỏ xưa nay
Người khôn phải biết dùng tay kẻ khờ.
1
Sáng sớm thứ Năm Strike đến Hội sinh viên Đại học London để tắm rửa và mặc quần áo tươm tất hơn thường lệ trước khi đi gặp Guy Somé tại studio riêng. Từ trang web của Guy Somé, hắn biết tay này rất khoái mấy thứ như quần áo cao bồi mặc ngoài bằng da đã sờn, cà vạt bằng lưới thép và băng quấn đầu màu đen trông như cắt ra từ những chiếc mũ quả dưa cũ. Biết vậy và cũng hơi muốn trêu ngươi, hắn cố tình ăn mặc thật chỉn chu. Hắn chọn bộ complet màu xanh đậm mặc hôm đến nhà hàng Cipriani.
Studio của Guy Somé là một nhà kho cũ từ thế kỷ mười chín, nằm bên bờ bắc sông Thames. Mặt nước sông lấp lánh làm Strike chói mắt khi hắn đi tìm lối vào vì không có biển chỉ dẫn gì cả. Bên ngoài nhà kho không hề có lấy một cái bảng hiệu.
Cuối cùng hắn tìm ra một cái chuông cửa lắp kín đáo, cũng không có tên tuổi dán kèm. Hắn bấm chuông, cửa mở tự động từ bên trong. Hành lang trống trải, thông thoáng, có điều hòa mát lạnh. Có tiếng leng keng lách cách. Trước mắt hắn hiện ra một cô gái tóc đỏ như cà chua, mặc đồ đen từ đầu đến chân, tay đeo rất nhiều vòng bạc xủng xoảng.
“Ô,” Cô ta thốt lên khi thấy Strike.
“Tôi có hẹn với ông Somé lúc mười giờ,” hắn nói, “Cormoran Strike.”
“Ô,” cô ta thốt lên lần nữa. “Ô kê.”
Cô ta biến mất, cũng với âm thanh leng keng đó. Trong khi chờ đợi Strike gọi cho Rochelle Onifade. Kể từ hôm gặp Rochelle mỗi ngày hắn đều gọi khoảng mười lần. Vẫn không ai nghe máy.
Một phút sau, một người đàn ông da đen nhỏ bé đột ngột xuất hiện, bước về phía Strike. Ông ta mang giày lót cao su, đi đứng nhẹ nhàng như mèo. Khi đi ông ta lắc hông hơi quá, phần thân trên lẫn hai cánh tay gần như bất động, trừ hai bờ vai đung đưa.
Guy Somé thấp hơn Strike dễ cũng đến ba tấc và chừng như chỉ có khoảng một phần trăm mỡ của hắn. Ông ta mặc áo thun ôm sát màu đen, phía trước ngực áo có hàng trăm cái khuy bạc nhỏ xíu tạo thành gương mặt Elvis Presley kiểu ba chiều, trông như một món đồ chơi tạo hình từ bản đinh. Lạ lùng hơn nữa, dưới lớp áo Lycra bó sát đó là sáu múi bụng rõ rệt. Somé mặc quần jean bó màu xám, có sọc nhỏ màu sẫm mờ mờ, mang giày thể thao màu đen hình như làm từ da bóng lẫn da lộn.
Gương mặt Guy Somé tương phản lạ lùng với thân hình gọn gàng chắc nịch. Mặt ông ta đầy những đường cong có phần thái quá: hai mắt lồi ra như mắt cá ở hai bên đầu. Hai gò má như cặp táo tròn, căng bóng và khuôn miệng rộng hình thoi với cặp môi rất dày. Đầu của Somé gần như một quả cầu nhỏ tròn trịa. Trông ông ta giống một bức tượng gỗ mun, tác phẩm của một anh nghệ nhân lành nghề, một hôm đâm chán nên buồn tay đục gõ thành biếm họa.
Ông ta đưa bàn tay ra, cổ tay hơi uốn lại.
“À, cũng có chút giống Jonny đó chứ,” ông ta lên tiếng, nhìn thẳng vào mặt Strike. Ông ta nói eo éo, có âm hưởng giọng người phía Đông thành phố. “Nhưng dữ dằn hơn.”
Strike bắt tay ông ta. Ngón tay ông ta coi vậy mà siết rất chặt. Cô gái tóc đỏ cũng vừa leng keng quay lại.
“Một tiếng tới tôi bận rồi, không nhận cuộc gọi nào cả nhé Trudie,” Somé dặn dò cô ta. “Đem ít trà bánh lên luôn cưng.”
Ông ta quay người điệu đàng, mời Strike đi theo.
Hai người đi dọc theo hành lang sơn trắng, qua một cánh cửa mở sẵn. Một người đàn bà châu Á mũi tẹt khoảng cỡ tuổi trung niên đang khoát tấm vải mỏng dát vàng lên người hình nộm. Bà ta nhìn Strike chằm chằm qua lớp vải. Căn phòng quanh chỗ bà ta đứng bật đèn sáng trưng như phòng phẫu thuật, đầy những chiếc bàn cắt vải với vô số vải vóc chồng lên nhau. Trên tường dán rất nhiều các bản vẽ nháp, ảnh chụp và ghi chú. Một người đàn bà tóc vàng nhỏ nhắn xuất hiện. Strike thấy y như bà ta đang mặc trên người một đoạn gạc băng vết thương khổng lồ màu đen. Bà ta nhìn Strike, cũng kiểu lạnh lùng, ngây ngô như cô Trudie tóc đỏ lúc nãy. Strike thấy trong không gian này mình thật to lớn và lông lá, cứ như thể hắn là con voi ma mút xù xì đang tìm cách trà trộn vào bầy khỉ mũ nhỏ nhắn.
Hắn theo chân nhà thiết kế đang oai vệ đi về phía cuối hành lang, lên cầu thang xoắn ốc bằng thép và cao su. Trên đó là một khu văn phòng rộng lớn, sơn trắng, hình chữ nhật. Tường bên phải là cửa gương lớn chạy từ trần đến sàn, nhìn ra sông Thames và bờ nam rất hoành tráng. Những bức tường trắng còn lại đều có treo ảnh. Strike để ý đến ngay tấm ảnh dài chừng ba mét phóng lớn từ tác phẩm “Thiên thần mắc đọa” tai tiếng, treo trên bức tường đối diện bàn làm việc của Somé. Nhìn kỹ hơn hắn nhận ra kiểu ảnh hơi khác so với tấm hình đã được đăng khắp thế giới. Trong tấm ảnh này, Lula cười rũ rượi, hất đầu về phía sau. Cần cổ thẳng tắp nổi bật trên mớ tóc dài xộc xệch vì cười, để lộ nhũ hoa sẫm màu. Ciara Porter vẫn ngước nhìn Lula, gương mặt vẻ như sắp cười, dường như chỉ vừa kịp hiểu vì sao Lula cười. Cũng như trong tấm hình đã quá nổi tiếng, người xem lập tức bị Lula cuốn hút.
Lula có ở khắp nơi trong căn phòng. Ở bên trái, cô ta đứng chung với một nhóm người mẫu khác, mặc áo lót trong suốt bảy màu cầu vồng. Xa hơn một chút là một tấm chụp nghiêng, trên môi và mí mắt dán vàng lá. Phải chăng Lula luôn biết điều khiển gương mặt mình trước ống kính, để cảm xúc luôn được thể hiện một cách tuyệt mỹ? Hay gương mặt đó chỉ là một bề mặt trong veo, phản chiếu tự nhiên những cảm xúc của cô?
“Kê đít xuống đâu cũng được.” Somé lên tiếng, ngồi phịch xuống chiếc ghế đằng sau bàn làm việc bằng gỗ sẫm màu và thép, trên mặt bàn đầy những bản vẽ. Strike kéo ra một chiếc ghế làm bằng một dải nhựa dẻo trong uốn éo. Trên bàn còn có một áo thun in hình Công nương Diana, màu mè như kiểu thánh mẫu Mexico. Chiếc áo đính đầy thủy tinh và hạt cườm, thêm một trái tim đỏ chót bằng vải satin bóng có thêu hình vương miện đặt lệch.
“Anh thích không?” Somé hỏi khi thấy Strike đang nhìn chiếc áo.
“Ồ thích chứ.” Strike nói dối.
“Bán sạch hết, dân Công giáo gửi thư chửi rủa nào là bất kính với lại khiếm nhã, Joe Mancura mặc một cái như vậy trong show Jools Holland. Tôi đang nghĩ làm thêm một mẫu tay dài mặc mủa đông với hình Hoàng tử William kiểu Chúa Jeus. Hay là làm Hoàng tử Harry, cho ở truồng cầm khẩu AK47 che chỗ súng ống? Anh thấy sao?”
Strike mỉm cười cho phải phép. Somé bắt chéo chân, chỉnh tư thế điệu hơn mức cần thiết rồi lại lên tiếng, giọng màu mè kẻ cả:
“Vậy ra ông Kế toán nghĩ là Cuckoo bị giết? Tôi luôn gọi Lula là ‘Cuckoo’ ấy mà,” ông ta giải thích không cần thiết.
“Đúng vậy, nhưng John Bristow là luật sư.”
“Tôi biết, nhưng Cuckoo và tôi luôn gọi ông ta là ông Kế toán. Thực ra là tôi gọi, thỉ thoảng Cuckoo mới hùa theo, nếu đang bực ổng. Ông ta suốt ngày xía mũi vào phần trăm lời lãi của Cuckoo, làm gì với ai cũng bòn tới từng xu. Chắc lão trả thù lao cho anh cũng bèo lắm?”
“Thực ra ông ấy trả gấp đôi.”
“Ồ vậy sao. Chắc giờ có tiền của Cuckoo nữa nên hào phóng hơn được một chút.”
Somé cắn móng tay, nhìn ông ta Strike tự nhưng nhớ đến Kieran Kolovas-Jones. Hai người này có vóc dáng khá giống nhau, nhỏ con nhưng cân đối.
“Thôi được, nói vậy cũng hơi ác mồm,” Somé lên tiếng, bỏ tay ra khỏi miệng. “Tôi chưa bao giờ ưa nổi John Bristow. Ông ta lúc nào cũng kè kè đi theo Cuckoo. Người đâu chán bỏ mẹ. Giống như bóng kín vậy đó, làm bộ hoài. Anh nghe ông ta ca nguyên bài về bà mẹ chưa? Đã gặp bà bạn gái của ổng chưa? Nói không ngoa, đàn bà gì mà như đeo nguyên bộ râu.”
Somé bức xúc tuôn ra một tràng miệt thị rồi tạm tốp lại để mở ngăn kéo thiết kế ẩn dưới bàn, rút ra một gói thuốc lá bạc hà. Strike để ý thấy Somé cắn móng tay còn cụt ngủn.
“Gia đình vậy đó hỏi sao Cuckoo khỏi khùng khùng như vậy được. Tôi hay nói với nó, ‘Bỏ quách họ đi, cưng ơi, bỏ đi rồi mới sống tiếp được.’ Nhưng nó không bỏ. Cuckoo là vậy đó, cứ lo mấy chuyện phí công vô ích.”
Ông ta mời Strike một điếu thuốc trắng muốt, tay thám tử từ chối. Somé bật quẹt Zippo có khắc hình để đốt thuốc, rồi vừa đóng bập nắp lại, vừa nói:
“Phải chi lúc đó tôi nghĩ ra chuyện đi thuê thám tử tư. Trước giờ chưa hề mảy may nghĩ tới nữa mà. Tôi mừng là có người đứng ra thuê. Kkhông thể tin con bé tự tử. Bác sĩ tâm lý nói là tôi vẫn đang tự dối mình. Hiện giờ tôi phải làm tâm lý trị liệu một tuần hai lần, chẳng ăn thua nước mẹ gì. Nếu uống Valium mà vẫn làm việc được, chắc tôi cũng chơi cả đống như phu nhân Bristow. Một tuần sau vụ của Cuckoo tôi có thử qua nhưng nốc vô là dật dờ cả buổi. Nhưng chắc nhờ vậy mới chịu được hết đám tang.”
Lại tiếng leng keng lách cách báo hiệu Trudie đang tới gần. Cô ta đi lên cầu thang, dần dần ló ra trước mắt hai người. Trudie đặt lên bàn một cái khay bằng gỗ sơn mài đen đựng hai ly uống trà kiểu Nga có viền chạm bạc. Trong ly là một thứ nước màu xanh tái bốc khói với vài lá bạc hà héo thả nổi. Trên khay còn có một đĩa bánh quy mỏng dính, trông như làm bằng than đá. Strike rầu rĩ nhớ lại món bánh nhân thịt, khoai tây nghiền và tách trà sữa màu gỗ gụ ở quán Phoenix.
“Cảm ơn Trudie. Cưng tiện tay lấy luôn giùm cái gạt tàn.”
Cô gái ngập ngừng, như sắp phản đối.
“Đi đi,” Somé cằn nhằn. “Ở đây tôi là sếp, nếu muốn tôi đốt hết cái nhà này cho coi. Tháo cục pin ra khỏi mấy cái máy báo động đi. Nhưng mà đem gạt tàn lên đây trước đã.”
“Tuần trước máy báo cháy kêu ầm ĩ, rồi vòi nước tự động mở tứ tung dưới nhà.” Somé giải thích. “Vậy nên bây giờ mấy tay tài trợ cấm tụi tôi hút thuốc trong nhà. Cấm cái đít.”
Ông ta rít một hơi sâu rồi phả khói thuốc ra đằng mũi.
“Anh không hỏi han gì hả? Hay anh chỉ ngồi đó làm mặt ngầu tới khi nào có người chịu nhận tội?”
“Thì hỏi vậy.” Strike nói, rút ra cây sổ và cây viết. “Khi Lula chết anh còn đang ở nước ngoài phải không?”
“Tôi mới vừa về nước vài tiếng trước đó.” Ngón tay của Somé đặt trên điếu thuốc khẽ giật nhẹ. “Trước đó tôi ở Tokyo, suốt tám ngày hầu như không ngủ chút nào. Về tới phi trường Heathrow lúc mười rưỡi tối, bị lệch múi giờ, oải thấy ông bà ông vãi. Tôi không ngủ trên máy bay được. Lỡ máy bay có rơi thì còn biết.”
“Anh đi từ sân bay về bằng xe gì?”
“Taxi tại chỗ. Elsa quên không thuê xe riêng cho tôi. Đáng ra phải có tài xế chờ sẵn để đón chớ.”
“Elsa là ai vậy?”
“Là con bé thư ký sau đó bị tôi đuổi thẳng vì tội quên thuê xe. Tôi rất ghét phải đi tìm taxi vào giờ đó.”
“Anh sống một mình hả?
“Không. Tới nửa đêm tôi đã nằm trong chăn với Viktor và Rolf rồi. Hai đứa đó là mèo tôi nuôi,” Ông ta nói thêm, nhếch mép cười. “Tôi uống một viên Ambien, ngủ vài tiếng rồi tỉnh dậy khoảng hồi năm giờ sáng. Tôi bật kênh Sky News lên, một cha đội mũ lông cừu gớm ghiếc, đứng giữa tuyết ngay trước nhà Cuckoo nói là nó đã chết. Dòng tin chạy trên màn hình cũng ghi vậy.”
Somé rít thêm một hơi thuốc sâu, làn khói trắng bay ra khi ông ta mở miệng.
“Tôi sốc muốn chết theo luôn. Tôi tưởng mình vẫn còn ngủ, hay thức dậy ở một chiều không gian khác hay gì đó… Tôi bắt đầu gọi điện lung tung… Ciara, Bryony… máy ai cũng bận. Vừa gọi tôi vừa nhìn màn hình, hi vọng là họ sẽ báo tin có sự nhầm lẫn nào đó, rằng người vừa chết không phải là Cuckoo. Tôi thầm cầu nguyện người đó là cái con nhỏ bụi đời. Rochelle.”
Ông ta dừng lại, như thể đợi Strike bình luận. Hắn vừa cắm cúi ghi chép, vừa hỏi:
“Anh biết Rochelle à?”
“Có biết. Cuckoo mang nó vào đây một lần. Cái thứ la liếm.”
“Tại sao anh nói vậy?”
“Nó hận Cuckoo. Ganh ghét muốn nổ mắt mà. Tôi biết rõ, dù Cuckoo không nhận ra. Nó chơi với Cuckoo để kiếm chác chứ quan tâm gì chuyện Cuckoo còn sống hay đã chết. Cũng may cho nó, vì hóa ra…
"Vậy là tôi cứ ngồi đó coi tin tức, càng coi thì càng biết chắc không có sự nhầm lẫn nào cả. Tôi muốn quỵ ngã.”
Mấy ngón tay của ông ta run nhè nhẹ trên điếu thuốc trắng như tuyết đang hút dở.
“Họ nói là hàng xóm có nghe tiếng cãi nhau, nên ngay lập tức tôi nghĩ là Duffield. Tôi nghĩ hẳn Duffield đã xô Cuckoo qua cửa sổ. Lúc đó tôi sẵn sàng nói toạc cho đám lợn háo tin biết Duffield là thằng khốn như thế nào. Tôi sẵn sàng ra tòa làm chứng bản chất khốn nạn của nó. Và nếu bây giờ tàn thuốc rơi xuống đây,” ông ta nói tiếp, giọng điệu vẫn y chang không đổi. “Tôi sẽ đuổi thẳng cổ con đĩ con kia.”
Cứ như thể vừa nghe thấy ông ta nói gì, ngay lúc đó, tiếng bước chân dồn dập của Trudie mỗi lúc một lớn hơn. Cô ta bước vào phòng, thở hổn hển, tay nắm chặt cái gạt tàn thủy tinh nặng trịch.
“Cảm ơn cưng,” Somé nói, khẽ vẫy tàn thuốc khi cô ta vừa đặt gạt tàn xuống bàn rồi gấp gáp đi xuống cầu thang.
“Tại sao anh nghĩ là Duffield?” Strike hỏi khi đã chắc Trudie không thể nghe được.
“Cuckoo còn có thể mở cửa cho ai khác vào nhà lúc hai giờ sáng được?”
“Anh có biết rõ Duffield không?”
“Kha khá, một thằng vô tích sự.” Somé cầm ly trà bạc hà lên. “Tại sao đàn bà cứ đâm đầu vào những thằng như vậy? Cuckoo cũng vậy… nó không hề ngu ngốc chút nào, trái lại nó rất sắc sảo – vậy nó thấy gì ở cái thằng Evan Duffield đó? Để tôi nói anh nghe,” ông ta nói tiếp, không cần Strike trả lời. “Ba cái thứ thi sĩ quèn đau khổ nhảm nhí, nỗi đau tâm hồn cứt khô gì đó, rồi mấy trò thiên-tài-khổ-tâm-không-buồn-tắm-rửa. Thằng ranh, súc miệng cho sạch rồi hẵng mở ra. Cứ làm như mình là thi hào Byron cái quái gì.”
Ông ta đặt ly trà xuống, bàn tay trái đỡ lấy khuỷu tay phải, giữ vững cánh tay và tiếp tục rít thuốc thật sâu.
“Không thằng nào chịu nổi cái thứ như Duffield. Chỉ có bọn đàn bà. Một kiểu bản năng làm mẹ méo mó gì đó.”
“Anh nghĩ Duffield có thể ra tay giết Lula hay sao?”
“Tất nhiên là tôi nghĩ vậy,” Somé nói, thờ ơ. “Tất nhiên là nó ra tay được. Ai cũng có phần con, ai cũng sẵn chút máu giết người, thì tại sao Duffield lại là ngoại lệ? Thằng đó đầu óc như một đứa mười hai tuổi hỗn xược. Tôi có thể tưởng tượng ra hắn giận dữ, làm um sùm và rồi…”
Somé làm động tác xô một cú thật lực bằng cánh tay không cầm thuốc.
“Có lần tôi thấy nó chửi mắng con bé. Ngay tại tiệc sau show của tôi hồi năm ngoái. Tôi tới giữa hai người, nói có có ngon thì chơi thằng này. Tôi chỉ là một thằng bóng quèn,” Somé nói, hai gò má tròn trĩnh đanh lại, “nhưng lúc nào tôi cũng sẵn sàng tẩn cho thằng chó đó một trận. Hôm đi đám tang nó cũng khốn kiếp lắm.”
“Thật vậy sao?”
“Ừ. Lảo đảo đi quanh, phê thuốc trắng mắt. Không biết phép tắc cái quái gì. Hôm đó tôi cũng phải uống thuốc an thần, nếu không tôi đã tới nói hết vào mặt hắn. Còn giả vờ đau khổ nữa, cái thứ đạo đức giả.”
“Anh không bao giờ nghĩ là Lula tự tử?”
Cặp mắt lồi lạ lùng của Somé nhìn xoáy vào Strike.
“Không bao giờ. Duffield nói khi đó hắn đang đi mua thuốc, có đội mũ hóa trang chó sói. Bằng chứng ngoại phạm cái quỷ quái gì vậy? Mong là anh có kiểm tra kỹ lại cái thằng này. Đừng bị choáng ngợp trước nó, như đám cảnh sát.”
Strike nhớ lại nhận xét của Wardle về Duffield.
“Tôi nghĩ cảnh sát cũng không thấy Duffield choáng ngợp gì.”
“Hóa ra gu của họ cũng không đến nỗi tệ như tôi tưởng.” Somé đáp.
“Tại sao anh lại chắc chắn Lula không thể tự tử? Chẳng phải cô ấy từng bị bệnh tâm thần sao?”
“Đúng vậy, nhưng tụi tôi có hứa với nhau một chuyện, giống như Marilyn Monroe và Montgomery Clift. Tụi tôi thề là nếu đứa nào nghĩ tới chuyện tự tử thì phải gọi cho đứa kia. Nên chắc chắn nó đã gọi tôi, nếu nó định tự tử thật.”
“Lần cuối cùng anh nói chuyện với Lula là khi nào?”
“Nó gọi cho tôi hôm thứ Tư, khi tôi còn ở Tokyo,” Somé đáp. “Con nhỏ ngớ ngẩn, không nhớ đó với đây lệch nhau tới tám giờ. Tôi đã tắt chuông điện thoại nên lúc nó gọi hồi hai giờ sáng tôi không cầm máy, nhưng nó để lại tin nhắn, hoàn toàn không có vẻ gì là sắp nhảy lầu cả. Anh nghe này.”
Ông ta lại mở ngăn kéo bàn, lấy điện thoại ra, nhấn vài nút rồi đưa cho Strike.
Giọng Lula Landry vang lên thật gần, sống động, hơi khàn khàn ngay bên tai Strike. Cô ta cố tình giả giọng đân phía Đông thành phố để trêu Somé.
“Phẻ hông cưng ơi? Có chuyện này muốn nói, không chắc là cưng nghe xong sẽ thích nhưng mà là chuyện lớn thiệt. Em vui quá, chỉ muốn nói cho ai đó nghe. Khi nào được thì gọi ngay cho em. Ô kê, gọi liền nha,” cô ta kết thúc tin nhắn, giả vờ hôn vào điện thoại “muah muah”.
Strike trả điện thoại lại cho Somé.
“Vậy anh có gọi lại cho cô ấy không? Anh có biết chuyện lớn đó là chuyện gì không?”
“Không,” Somé dụi điếu thuốc, ngay lập tức rút ra thêm một điếu nữa. “Bọn Nhật xếp lịch họp liên tiếp, cứ mỗi khi tôi vừa định gọi thì lại kẹt vụ giờ giấc. Dù sao thì… nói thực với anh, có lẽ tôi biết nó sắp nói gì, tôi chẳng vui vẻ gì cả. Chắc nó có bầu.”
Somé gục gặc, điếu thuốc cắn trong miệng. Rồi ông ta lấy điếu thuốc ra và nói:
“Ừ đó, tôi nghĩ chắc Lula có bầu mẹ nó rồi.”
“Của Duffield?”
“Khi đó tôi vẫn mong là không phải vậy. Tôi chẳng biết vụ hai đứa nó quay lại với nhau. Cuckoo không dám quay lại với thằng đó nếu tôi vẫn còn ở Anh, vậy là nó đợi tôi đi Nhật, con nhỏ láo toét. Nó biết tôi ghét thằng kia nên không muốn làm phật ý tôi. Tụi tui như người trong nhà vậy.”
“Tại sao anh nghĩ là Lula có thai?”
“Nghe giọng nó. Anh nghe rồi đó – nó có vả rất phấn khích… Tôi ngờ ngợ vậy. Cuckoo hay làm những việc như vậy, rồi nghĩ là tôi cũng sẽ vui như nó, mặc kệ công việc, mặc kệ tôi với dòng hàng phụ kiện mới…”
“Có phải là hợp đồng năm triệu bảng mà anh cô ấy nói với tôi không?”
“Đúng vậy, tôi đoán lão Kế toán bắt nó phải đòi càng nhiều càng tốt,” Somé đáp, vẻ rất giận dữ. “Cuckoo không phải là người thích bòn tôi từng xu như vậy. Nó thừa biết vụ này sẽ rất hoành tráng, sẽ đưa nó lên một đẳng cấp mới nếu nó làm cho tôi. Đâu phải chuyện tiền bạc không. Hình ảnh của nó luôn đi liền với mấy thứ tôi làm. Nó chỉ thực sự nổi tiếng sau khi chụp cho Vogue một kiểu mặc áo đầm Jagged của tôi. Cuckoo mê đồ của tôi. Nó cũng khoái tôi. Nhưng đời là vậy. Cứ leo lên được một chút thì thiên hạ bắt đầu xúm vào tâng bốc, vậy là quên luôn ai đưa mình lên. Rồi tự dưng chỉ có tiền và tiền.”
“Nhưng ắt hẳn anh nghĩ cô ấy xứng đáng, mới chấp nhận trả năm triệu bảng?”
“Ừ thì vậy, nhưng tôi thiết kế nguyên loạt đó cho riêng nó, nên chẳng có gì hay ho nếu phải tranh thủ chụp ảnh để né vụ bầu bí. Và tôi cũng có thể tưởng tượng ra sau đó Cuckoo sẽ hành xử ngớ ngẩn ra sao. Nó sẽ bỏ hết vì không muốn xa con. Nó là kiểu người vậy đó, luôn đi tìm người khác để thương, luôn muốn có một gia đình riêng. Mấy người nhà Bristow phá đời nó hoàn toàn. Họ xin nó về như mua món đồ chơi mới cho Yvette, mụ đàn bà đáng sợ nhất thế gian.”
“Đáng sợ như thế nào?”
“Ích kỷ. Bịnh hoạn. Không muốn Cuckoo đi khỏi tầm mắt, sợ nó chết như cái đứa trước đó. Phu nhân Bristow thường đến dự tất cả các show, rất vướng chân vướng cẳng, cho tới khi phát bịnh mới chịu thôi. Rồi thêm ông cậu coi Lula như rác, cho tới khi nó kiếm được bộn tiền mới bày đặt nể nang. Đám người nhà Bristow chỉ biết có tiền.”
“Gia đình đó vốn giàu có, không phải vậy sao?”
“Alec Bristow chẳng để lại bao nhiêu, theo nghĩa đen. Thực tình chẳng có của cải gì ghê gớm. Không như ông già của anh đâu. Nhưng tại sao,” Somé tự nhiên đổi hướng câu chuyện, “con trai của Jonny Rokeby lại đi làm thám tử tư?”
“Việc ai người đó làm,” Strike đáp. “Nói tiếp về nhà Bristow đi.”
Somé không có vẻ gì là bực bội với cách nói chuyện không hề nhún nhường của Strike, dường như còn thích là đằng khác, có lẽ vì hiếm ai dám nói vậy với ông ta.
“Tôi chỉ nhớ Cuckoo kể là gia sản của Alec Bristow chủ yếu là cổ phiếu trong công ty cũ, mà công ty Albris thì từ hồi khủng hoảng đã te tua xơ mướp. Công ty quèn, có phải như Apple apiếc gì. Hồi chưa đầy hai mươi tuổi Cuckoo đã kiếm được nhiều tiền hơn cả đám đó.”
“Tấm kia,” Strike lên tiếng, chỉ tay về phía tấm hình “Thiên thần mắc đọa” khổng lồ ngay sau lưng Somé, “nằm trong hợp đồng năm triệu bảng phải không?”
“Đúng vậy,” Somé đáp. “Bốn cái túi xách đó mở đầu cho chiến dịch quảng cáo. Cái Cuckoo đang cầm trong tay là “Cashile”. Tôi đặt tên châu Phi cho tất cả mấy cái túi đó, cũng vì Cuckoo. Nó rất mê châu Phi. Nó đào đâu ra được một bà mẹ đĩ điếm, nói rằng cha nó là người châu Phi. Vậy là Cuckoo mê mệt luôn, chưa gì đã nói chuyện đi học ở đó, rồi đi làm tình nguyện… mà không hề nghĩ là con đĩ già kia có khi từng ngủ với khoảng năm mươi thằng đen Caribe cũng có. Châu Phi gì. Con mụ đó chỉ nói cho Cuckoo sướng tai.”
“Vậy anh quyết định vẫn tiếp tục dùng tấm hình đó trong chiến dịch quảng cáo sắp tới, ngay cả khi Lula vừa mới…”
“Báo biếc khốn nạn. Tấm hình đó là để tưởng niệm nó!” Somé lớn tiếng. “Đó là tấm hình đẹp nhất của nó từ trước đến giờ. Tôi dùng tấm hình để tưởng nhớ Cuckoo, để nhớ đến hai đứa tụi tôi. Cuckoo là nàng thơ của tôi. Nếu mấy thằng khốn đó không hiểu nổi thì kệ chúng nó, vậy thôi. Báo chí ở cái xứ này chẳng ra cái quái gì. Cứ tưởng ai cũng rác rưởi như mình.”
“Hôm trước khi Lula chết có người gởi cho cô ấy mấy cái túi xách…”
“Đúng rồi, là của tôi đó. Tôi gởi mỗi kiểu một cái.” Somé vừa nói vừa chỉ về phía tấm hình bằng đầu thuốc lá. “Tôi cũng luôn tiện gởi cho Deeby Macc vài thứ.”
“Ông ta đặt hàng hả, hay…?”
“Của chùa, cưng à.” Somé dài giọng. “Làm ăn phải vậy. Vài cái áo thun dày liền mũ thiết kế riêng và mấy thứ phụ kiện. Cứ cho sao siếc khoác vào thì không trật được.”
“Ông ta có mặc mấy thứ đó không?”
“Tôi không biết,” giọng Somé trầm xuống. “Ngay hôm sau đã phải nghĩ nhiều chuyện khác.”
“Tôi có xem một đoạn phim của Deeby Macc trên YouTube. Ông ta mặc một cái áo có đính khuy như cái này,” Strike nói, chỉ tay vào ngực Somé. “Có hình nắm đấm.”
“Đúng rồi, tôi có gởi cái áo đó với vài thứ khác. Chắc người ta chuyển lại. Một cái có hình nắm đấm, một cái có hình súng ngắn, đằng sau lưng in lời bài hát.”
“Lula có nói với anh chuyện Deeby Macc sắp dọn vào đó không?”
“Có chứ. Nó cũng rất vui, nhưng đáng ra phải vui hơn nữa kia. Tôi cứ nói với nó, cưng à, nếu mà ông ta viết đến ba bài hát về tôi, thì tôi sẽ lột sạch đồ đứng chờ sẵn trong nhà.” Somé phả ra hai vệt khói dài từ lỗ mũi, liếc ngang qua Strike. “Tôi khoái mấy tay to con, dữ dằn vậy,” ông ta nói. “Nhưng Cuckoo thì không. Thì cứ nhìn cái thằng bồ của nó đó. Tôi cứ nói, cưng suốt ngày đi tìm gốc gác, thôi thì kiếm quách một anh đen tử tế cho xong. Deeby chẳng hạn, quá hợp, không phải vậy sao?”
“Show mùa rồi của tôi cho nó đi trên nền nhạc bài Butterface Girl của Deeby. ‘Con kia có là gì / Liệu mà tìm gương soi / Kiếm cái nào nói thiệt / Cưng bớt xoắn đi ha / Cưng cóc phải Lula.’ Duffield rất ghét chuyện đó.”
Somé im lặng một lát, tiếp tục hút thuốc, mắt vẫn dán vào tấm hình trên tường. Strike hỏi:
“Nhà anh ở đâu? Gần đây không?” mặc dù hắn đã biết trước câu trả lời.
“Không, tôi ở phố Charles, Kensington,” Somé đáp. “Dọn qua đó hồi năm ngoái. Rất xa Hackney nhưng mà phải dọn thôi. Ồn ào quá. Tôi lớn lên ở Hackney,” ông ta giải thích, “hồi đó tên thiệt khi chưa tiếng tăm gì là Kevin Owusu. Tôi đổi tên khi bỏ nhà đi. Giống anh vậy.”
“Tôi chưa bao giờ mang họ Rokeby cả,” Strike vừa nói vừa lật một trang sổ. “Bố mẹ tôi không cưới xin gì.”
“Vụ đó ai cũng biết cưng à,” Somé nói, nhìn đểu một cái. “Năm ngoái tôi soạn đồ cho ông già anh chụp một tấm cho tạp chí Rolling Stone: complet bó sát và mũ quả dưa vỡ. Anh có hay gặp ông ta không?”
“Không,” Strike ngắn gọn.
“Không à, chắc vì hai người mà đứng chung thì Jonny trông còn già ác nữa?” Somé nói, cười khanh khách. Ông ta loay hoay xoay trở trên chiếc ghế, đốt thêm một điếu nữa, ngậm giữa môi và nheo mắt nhìn Strike qua làn khói thuốc bạc hà.
“Tại sao lại nói chuyện đời tôi nhỉ? Người ta có hay kể lể chuyện đời họ mỗi khi anh rút cuốn sổ đó ra không?”
“Thi thoảng.”
“Anh không muốn uống trà hả? Tôi chẳng trách gì anh. Tôi chẳng biết tại sao lại uống cái thứ dở hơi này. Ông già tôi chắc lên cơn đau tim nếu hỏi xin một tách trà mà bị đưa thứ này.”
“Gia đình anh còn ở Hackney không?”
“Không biết,” Somé nói. “Tôi không nói chuyện với họ. Tôi dạy Lula cái gì thì thực hành y như vậy, thấy chưa?”
“Anh nghĩ vì sao mà Lula đổi họ vậy?”
“Vì nó rất ghét gia đình nó, cũng như tôi vậy. Nó chẳng muốn dính gì tới họ nữa.”
“Vậy tại sao lại đi lấy họ của ông cậu Tony?”
“Ông đó không nổi tiếng. Lula Landry nghe cũng hay. Deeby làm sao viết được bài Double L U B Mine[1] nếu nó vẫn tên Lula Bristow?”
[1. Hai chữ L, em thuộc về tôi.]
“Phố Charles cũng khá gần Kentigern Gardens nhỉ?”
“Đi bộ hai mươi phút. Tôi muốn Cuckoo dọn vô ở chung với tôi khi nó nói không chịu được chỗ cũ nữa, nhưng nó không đồng ý, mà chọn cái nhà tù năm sao đó, chỉ để trốn đám báo chí. Chính tụi nó đẩy Cuckoo vào cái nhà đó. Tụi nó cũng có trách nhiệm trong vụ này.”
Strike nhớ lại lời Deeby Macc: Chính báo giới chết giẫm đã xô cô ta ra cửa sổ.
“Nó có dẫn tôi đến xem nhà. Khu Mayfair, toàn là dân Nga và dân Ả Rập giàu sụ với cả mấy thằng chó đẻ như Freddie Bestigui. Tôi có nói, cưng ơi, không sống ở đây được đâu, nhìn đâu cũng thấy đá cẩm thạch, ở xứ này mà xài đá thì quê lắm… còn sống mà chui vô lăng làm gì…”
Ông ta ngập ngừng một lúc, rồi nói tiếp:
“Mấy tháng trước đó Cuckoo gặp nhiều chuyện rất đau đầu. Một thằng rình mò cứ tới ba giờ sáng là bỏ thư vào nhà nó, mỗi lần có tiếng động thùng thư là Cuckoo lại tỉnh dậy. Thằng đó hăm dọa đủ điều, làm Cuckoo rất sợ hãi. Rồi nó chia tay thằng Duffield, vậy là bọn nhà báo suốt ngày chờ chực quanh đó. Cuckoo phát hiện ra đến điện thoại của nó cũng bị nghe lén. Rồi tới chuyện đi tìm con đĩ già mẹ ruột đó. Nhiều thứ cùng lúc quá. Nó muốn tránh xa hết, muốn được yên ổn. Tôi đã bảo nó dọn vô ở với tôi, vậy mà nó đi mua cái lăng chết tiệt đó.”
“Nó mua chỗ đó vì thấy giống như cái pháo đài, giờ nào cũng có bảo vệ. Nó cứ tưởng là sẽ được an toàn, không ai đụng tới nó nữa.”
“Nhưng ngay từ đầu nó đã không ưa gì chỗ mới. Tôi biết mà. Nó bị cô lập, ở xa những thứ nó yêu thích. Cuckoo mê màu sắc, tiếng ồn. Nó thích phố xá, thích đi bộ, thích cảm giác tự do.”
“Một trong những lý do khiến cảnh sát loại trừ có sát nhân là cửa sổ lúc đó mở toang. Cuckoo đã tự mở cửa sổ, dấu vân tay còn trên đó. Nhưng tôi biết vì sao nó mở cửa. Cuckoo luôn mở cửa sổ, mặc dù bên ngoài lạnh tê tái, vì nó không chịu nổi sự yên lặng. Nó thích nghe được cả London.”
Somé không còn chút gì mỉa mai đểu giả nữa. Ông ta hắng giọng rồi nói tiếp.
“Nó luôn cố kết nối với những thứ có thật, sống động. Hai đứa tụi tôi rất hay nói về chuyện đó. Tụi tôi thực sự đồng cảm với nhau. Cuckoo qua lại với con khốn Rochelle cũng từ chỗ đó. Kiểu ‘trông người mà ngẫm tới ta’. Cuckoo nghĩ nếu nó không xinh đẹp, nếu nhà Bristow không xin nó về làm đồ chơi cho Yvette thì có khi đời nó cũng như Rochelle mà thôi.”
“Anh nói thêm về cái tay rình mò Lula ở nhà cũ đi.”
“Thằng điên. Hoang tưởng Lula là vợ hắn hay đại loại gì đó. Sau đó thì bị quản thúc và bắt điều trị tâm thần bắt buộc.”
“Có biết giờ tay đó ở đâu không?”
“Tôi nhớ hình như bị tống cổ về Liverpool,” Somé trả lời. “Nhưng bên cảnh sát có kiểm tra rồi, họ nói đêm đó hắn ta vẫn ở trong nhà thương điên có canh gác cẩn thận.”
“Anh có biết ông bà Bestigui không?”
“Chỉ biết qua lời Lula thôi, cha đó tởm lợm còn mụ vợ thì giả từ đầu tới chân như tượng sáp. Tôi không cần gặp cũng biết. Tôi biết cái thể loại đó. Gái nhà giàu chuyên xài tiền chồng. Show nào của tôi cũng có mặt. Xắng xít làm quen. Nói thật, thà chơi với đĩ còn hơn.”
“Freddie Bestigui có gặp Lula tại một bữa tiệc cuối tuần trước khi cô ấy chết.”
“Ừ, tôi cũng có biết. Lão thèm Lula chảy dãi,” Somé nói như không. “Nó cũng biết chứ, có phải chuyện lạ đời gì với nó đâu, anh biết đó. Nhưng lão ta không làm gì được nó, cùng lắm chỉ đứng chung trong thang máy thôi, theo như lời Lula kể.”
“Anh không nói chuyện với Lula sau khi cô ấy đến dự tiệc cuối tuần ở nhà Dickie Carbury, đúng không?”
“Đúng vậy. Lão ta làm gì ở đó hả? Anh không nghĩ là lão ta đó chứ?”
Somé ngồi thẳng dậy, nhìn chằm chằm vào Strike.
“Khốn nạn… Freddie Bestigui? Lão mất dạy, tôi biết mà. Tôi có quen con nhỏ này… đúng ra là bạn của một người bạn… nó làm cho công ty sản xuất phim của lão, sém bị hiếp. Không, tôi chẳng nói quá chút nào đâu,” Somé đáp. “Sự thật là vậy. Hiếp. Hết giờ làm lão chuốc rượu cho nó rồi đè ra sàn, vừa lúc có một đứa nhân viên quên điện thoại quay lại văn phòng lấy, bắt gặp cảnh đó. Bestigui bịt miệng cả hai bằng tiền. Ai cũng xúi con nhỏ kiện lão, nhưng nó cầm tiền rồi bỏ đi luôn. Họ cũng nói là hồi xưa lão hay có trò xử phạt bà vợ thứ hai cũng bệnh hoạn lắm, vì vậy mà hồi li dị bà ta mới cuỗm được ba triệu, sau khi hù là sẽ tung ra hết với báo chí. Nhưng không bao giờ có chuyện Cuckoo mở cửa cho lão vào nhà lúc hai giờ sáng. Tôi nói rồi, Cuckoo không phải là đứa ngu.”
“Anh biết gì về Derrick Wilson?”
“Thằng nào vậy?”
“Bảo vệ trực đêm đó.”
“Không biết gì cả.”
“Ông này to con, nói giọng Jamaica.”
“Nói nghe đừng sốc, dân da đen ở London này không phải ai cũng biết nhau đâu.”
“Tôi chỉ muốn hỏi liệu anh có bao giờ nói chuyện với ông ta không, hay Lula có nói gì về ông ta không?”
“Không, tụi tôi nói nhiều chuyện khác hay ho hơn chuyện ông bảo vệ.”
“Cũng không nhắc tới anh lái xe Kieran Kolovas-Jones?”
“À, tay đó thì biết,” Somé đáp, nhếch mép. “Cứ xớn xác tạo dáng mỗi khi tưởng tôi đang nhìn ra cửa sổ. Đáng tội là thiếu khoảng thước rưỡi mới đủ làm người mẫu.”
“Lula có bao giờ nói về anh ta không?”
“Không, tại sao chứ?” Somé sốt ruột hỏi. “Nó chỉ là thằng lái xe.”
“Anh ta nói là anh ta rất gần gũi với Lula. Anh ta còn kể là được Lula tặng áo khoác do anh thiết kế. Giá chín trăm bảng.”
“Bở gớm nhỉ,” Somé nói, khinh ra mặt. “Mấy món đàng hoàng của tôi thì tệ cũng phải ba ngàn một cái. Tôi đắp phứa logo lên mấy cái áo khoác chống thấm vậy mà bán chạy kinh khủng, nên tội gì không làm.”
“À, tôi sắp hỏi cũng chuyện đó,” Strike bói. “Áo như vậy thuộc dòng hàng đồ-may-sẵn, đúng không?”
Somé tỏ vẻ buồn cười.
“Đúng rồi. Tức là không phải đồ-may-đo-riêng, hiểu không? Có thể mua thẳng từ cửa hàng.”
“Hiểu rồi. Mấy thứ đó có bán rộng rãi không?”
“Ở đâu cũng có. Lần gần đây nhất anh đi mua sắm đó là khi nào vậy?” Somé hỏi, cặp mắt lồi kì dị của ông ta soi một vòng trên bộ complet màu xanh đậm của Strike. “Đồ kiểu gì vậy, áo quần phục viên hả?”
“Anh nói ‘ở đâu cũng có là sao?”’
“Trung tâm mua sắm, hiệu áo quần nhỏ, trên mạng,” Somé nói một mạch. “Tại sao anh hỏi vậy?”
“Một trong hai người đàn ông lọt vào camera an ninh hôm đó mặc một cái áo có logo của anh."
Somé khẽ lắc đầu, tỏ ý bất bình, khó chịu.
“Thì có cả triệu người mặc mà.”
“Anh không thấy...”
“Tôi không xem cái quái gì cả,” Somé giận dữ đáp. “Tất cả mọi thứ... báo biếc đài điếc. Tôi không muốn đọc gì hết, không muốn suy nghĩ về chuyện đó nữa. Tôi bắt tụi nó phải dẹp hết, không được để tôi thấy,” ông ta đáp, huơ tay về phía cầu thang và đám nhân viên của mình. “Tôi chỉ biết là Cuckoo đã chết rồi còn Duffield thì hành động như người có chuyện gì cần phải giấu diếm. Tôi chỉ biết có vậy. Vậy là đủ rồi.”
“Thôi được. Nói chuyện áo quần, trong tấm hình cuối cùng của Lula, lúc mới về nhà cô ấy mặc đầm và áo khoác...”
“Đúng vậy, nó mặc Maribelle và Faye,” Somé đáp. “Mẫu đầm tên là Maribelle...”
“Hiểu rồi,” Strike đáp, “Nhưng khi chết thì lại mặc đồ khác.”
Somé có vẻ ngạc nhiên.
“Vậy sao?”
“Vâng. Trong hồ sơ cảnh sát, thi thể...”
Nhưng Somé đưa cánh tay ra, như muốn xua đuổi hay tự vệ. Rồi ông ta đứng dậy, thở mạnh và đi tới bức tường, nơi có những tấm ảnh của Lula mỉm cười, nụ cười lúc đăm chiêu, lúc bình thản. Khi tay thiết kế quay lại nhìn Strike, đôi mắt lồi của ông ta ngân ngấn nước.
“Khốn nạn,” ông ta nói, giọng thầm thì. “Đừng nói về Lula như vậy chứ. Thi thể. Khốn nạn. Anh là một thằng con hoang máu lạnh, phải vậy không? Chẳng trách Jonny không thiết gì anh.”
“Tôi không có ý bất nhã,” Strike bình tĩnh đáp. “Tôi chỉ muốn biết liệu anh có nghĩ ra được lý do vì sao cô ấy mặc quần dài và áo đính kim sa.”
“Tôi làm quái gì mà biết được vì sao nó lại thay đồ?” Somé hỏi, giận dữ. “Có thể nó thấy lạnh. Có thể... Thật là nực cười. Anh nghĩ làm sao tôi biết được?”
“Tôi chỉ hỏi thôi,” Strike đáp. “Tôi đọc đâu đó anh nói với báo chí rằng khi chết Lula mặc đồ do anh thiết kế.”
“Không phải tôi, tôi không có phát biểu gì sất. Một đứa làm báo lá cải gọi điện cho văn phòng công ty và hỏi tên của mẫu đồ đó. Một đứa thợ may trả lời, vậy là tụi nó phong con nhỏ thành phát ngôn viên của tôi. Rồi suy luận là tôi dây máu ăn phần, bọn khốn nạn. Chó chết.”
“Anh có thể giúp tôi gặp Ciara Porter và Bryony Radford được không?”
Somé có vẻ mất bình tĩnh, bối rối.
“Gì kia? Được thôi...”
Nhưng ông ta đã bắt đầu khóc, không nấc từng tiếng như Bristow, chỉ có nước mắt chảy dài trên hai gò má sẫm màu trơn mịn, nhỏ giọt xuống chiếc áo đang mặc. Ông ta nuốt khan, nhắm mắt lại, quay lưng về phía Strike, úp trán vào tường, hai vai rung lên.
Strike im lặng, chờ đợi. Somé đã lau nước mắt vài lần, rồi quay lại nhìn hắn. Ông ta không nói gì đến chuyện khóc lóc, chỉ đi thẳng về ghế, ngồi xuống và đốt một điếu thuốc nữa. Rít thêm khoảng hai ba hơi thuốc thật sâu, ông ta lên tiếng giọng thản nhiên như không:
“Nếu nó thay quần áo thì có lẽ là đang chờ ai đó đến. Cuckoo lúc nào cũng ăn mặc rất hợp hoàn cảnh. Chắc hẳn nó đang chờ ai đó.”
“Tôi cũng nghĩ vậy,” Strike nói. “Nhưng tôi không rành phụ nữ và áo quần lắm.”
“Rõ là không,” Somé đáp, lai thoáng cười ranh mãnh, “anh cũng không có vẻ gì là rành rõi cả. Vậy anh muốn nói chuyện với cả Ciara và Bryony hả?”
“Được vậy sẽ rất có ích.”
“Tụi nó có buổi chụp hình vào thứ Tư tới. Số một phố Arlington ở Islingdon. Nếu anh tới khoảng chừng năm giờ, tụi nó sẽ rảnh tay nói chuyện được với anh.”
“Anh thật tử tế. Cảm ơn nhiều.”
“Tôi chẳng tử tế gì cả,” Somé nói nhỏ. “Tôi chỉ muốn biết chuyện gì đã xảy ra. Khi nào thì anh mới gặp Duffield?”
“Ngay khi có thể.”
“Nó cứ nghĩ là nó thoát rồi, thằng chết giẫm. Ắt hẳn Cuckoo thay đồ vì biết nó sẽ tới. Ngay cả khi tụi nó vừa cãi nhau, Cuckoo vẫn biết là thế nào nó cũng đi theo về. Nhưng thằng Duffield sẽ không nói năng gì với anh đâu.”
“Anh ta sẽ nói,” Strike bình thản đáp, cất cuốn sổ và xem giờ. “Hôm nay tôi làm mất nhiều thời gian của anh quá. Một lần nữa, cảm ơn anh.”
Somé tiễn Strike xuống cầu thang, dọc theo hành lang sơn trắng. Phong thái nghênh ngang của ông ta dần dần trở lại. Tới khi hai người bắt tay tạm biệt ở sảnh, Somé không còn dấu hiệu đau khổ nào nữa.
“Giảm cân đi,” ông ta nói với Strike, thọc cú cuối cùng, “rồi tôi sẽ gởi vài thứ size XXL.”
Khi cánh cửa khu nhà kho đóng sầm sau lưng Strike, hắn nghe tiếng Somé hét lên với cô Trudie tóc màu cà chua đang đứng ở bàn, “Biết cưng nghĩ gì rồi nhé, Trudie. Cưng đang mơ mộng được cha đó đứng đằng sau làm cho một phát, đúng không? Không phải vậy sao cưng? Sướng chưa, dân lính tráng to con dữ dằn ha!” và tiếng Trudie cười ré lên kinh ngạc.
2
Xưa nay Charlotte chưa bao giờ chấp nhận sự im lặng của Strike như vậy. Cô ta không gọi điện hay nhắn tin gì thêm, cứ như thể trận cãi vã nảy lửa tồi tệ cuối cùng đã thay đổi cô ta hoàn toàn, khiến cô ta không còn yêu thương hay giận dữ gì hắn nữa. Tuy nhiên Strike biết rõ Charlotte như một thứ vi trùng đã ăn vào máu mình mười lăm năm qua. Hắn biết rằng khi bị tổn thương Charlotte chỉ có duy nhất một phản ứng là liên tục tấn công đối phương bằng bất cứ giá nào. Điều gì sẽ xảy ra nếu hắn làm ngơ, rồi cứ tiếp tục từ chối trả lời cô như vậy? Đó là cách duy nhất Strike chưa từng thử trước đó, cũng là tất cả những gì hắn có thể làm lúc này.
Thi thoảng, khi hắn thấy yếu đuối (nhất là lúc đêm khuya nằm chèo queo trên chiếc giường xếp) vết thương lòng lại trỗi dậy: hắn thấy hối tiếc và nhung nhớ, hắn thấy Charlote hiện ra ngay sát bên mình, đẹp đẽ, trần truồng, thì thào những lời yêu thương; hay lặng lẽ khóc, nói với hắn ràng cô ta biết mình là kẻ hư hỏng đốn mạt, vô phương cứu chữa nhưng hắn vẫn là điều tốt đẹp và chân thật nhất mà cô ta từng biết. Giờ đây với hắn, chuyện chỉ cần nhấc máy là sẽ nghe giọng Charlotte như một thứ rào cản cám dỗ quá mong manh. Thỉnh thoảng hắn lại phải chui ra khỏi túi ngủ, lò cò trong bóng tối đến bàn của Robin. Hắn ngồi xuống, bật đèn lên và nghiền ngẫm hàng tiếng đồng hồ các báo cáo trong hồ sơ. Hắn bấm máy gọi Rochelle Onifade vài lần lúc sáng sớm, nhưng cô ta không bao giờ nhận cuộc gọi.
Sáng thứ Năm, Strike quay lại chỗ bức tường bên ngoài bệnh viện St Thomas, đứng đợi ba tiếng đồng hồ, hi vọng gặp lại Rochelle. Nhưng cô ta không đến. Hắn nhờ Robin gọi cho bệnh viện nhưng lần này họ không đưa ra bất kì bình luận nào về chuyện Rochelle không đi đến điều trị nữa và tuyệt đối không cung cấp địa chỉ của cô ta, mặc cho Robin thử đủ cách hỏi.
Sáng thứ Sáu, Strike đi ra quán Starbucks mua cà phê. Khi hắn về đến văn phòng, Khỉ Con đang ở đó, không phải ngồi ghế sofa bên cạnh mà vắt vẻo ngay trên bàn của Robin. Khỉ Con ngậm điếu thuốc chưa châm trong miệng, nghiêng người về phía Robin, dường như đang nói chuyện gì hài hước lắm vì Robin đang cười. Rõ là cô đang rất muốn phá ra cười nhưng vẫn muốn tỏ ra chừng mực.
“Ê Khỉ Con,” Strike lên tiếng, nhưng giọng điệu có phần nghiêm nghị của hắn dường như không hề tác động gì đến điệu bộ hăng hái hay vẻ mặt tươi cười của cậu chàng.
“Ngon lành hả Fed? Em đem con Dell lại cho anh đây.”
“Tuyệt vời. Latte ly đúp không caffeine của cô đây.” Strike nói với Robin, đặt đồ uống xuống ngay bên cạnh cô. “Không tính,” hắn nói thêm khi Robin với tay lấy ví tiền.
Cô rất ngại chuyện tính những món ăn uống nho nhỏ vào tiền tiêu vặt của văn phòng. Trước mặt người khách lạ, cô không phản đối gì, chỉ cảm ơn Strike và trở lại làm việc. Cô xoay ghế theo chiều kim đồng hồ, quay lưng về phía hai người đàn ông.
Khỉ Con bật diêm đốt thuốc, Strike bỏ cốc espresso đúp của hắn xuống.
“Văn phòng không hút thuốc, Khỉ Con.”
“Cái gì? Anh hút như tẩu mà?”
“Nhưng không hút ở đây. Theo tao.”
Strike dẫn Khỉ Con vào văn phòng bên trong, đóng cửa lại.
“Cổ đính hôn rồi,” hắn vừa nói vừa ngồi xuống ghế.
“Ý anh là em đang phí nước bọt hả? Thôi vậy. Nếu vụ đính hôn mà bể thì anh nói vài câu hay ho dùm cho thằng em nhé; cổ đúng kiểu em thích.”
“Nhưng tao không nghĩ mày đúng kiểu cổ thích.”
Khỉ Con nhe răng cười, ra vẻ đã biết.
“Anh cũng xếp hàng sẵn rồi hả?”
“Không,” Strike đáp. “Tao chỉ biết chồng chưa cưới của cổ là kế toán kiêm vận động viên bóng bầu dục. Dân Yorkshire, cằm bạnh, mặt mày sáng sủa.”
Hắn bất ngờ vẽ ra chân dung Matthew rõ ràng từ tâm trí, mặc dù chưa thấy một bức hình nào cả.
“Biết đâu được, có khi sau cha đó cổ lại thích loại hơi... cá tính một chút,” Spanner nói, đặt máy tính của Lula Landry lên bàn và ngồi xuống đối diện với Strike. Anh chàng mặc áo len hơi sờn cũ, mang dép xỏ ngón, hôm đó cũng là ngày nóng nhất trong năm. “Em coi kỹ cái của nợ này rồi. Anh cần nghe chi tiết về kỹ thuật tới đâu?”
“Không cần cái đó; nhưng tao cần biết chắc là mày có thể giải thích rõ ràng trước tòa.”
Lần đầu tiên trông Khỉ Con có vẻ ngạc nhiên thực sự.
“Anh nói nghiêm túc hả?”
“Rất nghiêm túc. Mày có thể đối chất với luật sư bên bị không?”
“Đương nhiển ồi.”
“Vậy chỉ cần nói cho tao mấy chỗ quan trọng.”
Khỉ Con ngập ngừng trong giây lát, cố đọc biểu cảm trên gương mặt của Strike. Cuối cùng anh chàng lên tiếng:
“Mật khẩu là Agyeman, được đặt lại năm ngày trước khi cô ta chết.”
“Viết sao?”
Khỉ Con đọc từng chữ cái, bất ngờ nói thêm. “Agyeman là một họ của người Ghana. Cô ấy đánh dấu trang nhà của SOAS – Viện nghiên cứu Đông phương và Châu Phi. Từ Agyeman có ngay trên trang đó. Anh coi đây.”
Khỉ Con vừa nói vừa lách cách gõ phím; mở ngay trang web của SOAS. Trang web được chạy viền màu xanh tươi, có các phần về trường học, tin tức, giảng viên, sinh viên, thư viện...
“Nhưng lúc cô ta chết rồi thì như thế này.”
Khỉ Con nhấp chuột liên tục, mở ra một trang gần như giống y nhưng có thêm đường dẫn đến Cáo phó của Giáo sư J.P.Agyeman, Giáo sư danh dự ngành Chính trị Châu Phi.
“Cô ấy đánh dấu trang này,” Khỉ Con nói. “Trong một tháng trước khi chết cô ấy hay tìm sách của ông này trên Amazon. Lúc đó cô ấy cũng tìm rất nhiều sách về lịch sử và chính trị Châu Phi.”
“Có gì cho thấy cô ấy nộp đơn xin học ở trường SOAS không?”
“Trên máy này thì không có?”
“Còn gì nữa không?”
“Chỉ có chuyện nữa đó là một file hình ảnh lớn bị xóa ngày mười bảy tháng Ba.”
“Làm sao biết được?”
“Có phần mềm phục hồi những thứ đã bị xóa khỏi ổ cứng.” Khỉ Con đáp. “Chứ anh nghĩ làm sao mà cảnh sát bắt được mấy tên ấu dâm?”
“Mày có phục hồi lại được hết không?”
“Được. Em cho hết vào đây.” Khỉ Con đưa cho Strike một thẻ nhớ USB. “Em không nghĩ anh muốn em lưu trở lại vào máy.”
“Đúng rồi, vậy những cái hình đó là...?”
“Chẳng có gì đặc biệt. Chỉ bị xóa vậy thôi. Như em nói, người ta thường không biết là nếu muốn giấu thứ gì đó thì phải làm nhiều hơn là bấm nút delete”.
“Ngày mười bảy tháng Ba,” Strike nói.
“Vâng. Lễ Thánh Patrick.”
“Mười tuần sau khi cô ấy chết.”
“Có thể là bên cảnh sát,” Khỉ Con gợi ý.
“Không phải cảnh sát,” Strike nói.
Sau khi Khỉ Con ra về, hắn ra văn phòng ngoài, ngồi vào chỗ của Robin để xem mấy tấm hình đã bị xóa khỏi chiếc laptop. Robin có vẻ hồi hộp khi hắn giải thích những việc Khỉ Con đã làm và cắm thẻ nhớ vào máy.
Trong giây lát khi tấm hình đầu tiên dần hiện ra trên máy, Robin thấy lo sợ, như thể cả hai sắp nhìn thấy một điều gì thật kinh khủng; bằng chứng tội phạm hay một thứ gì đó thật bệnh hoạn. Trước đây cô chỉ nghe nói đến chuyện giấu hình ảnh trong những vụ án lạm dụng tồi tệ. Sau vài phút, Strike lên tiếng, như thể biết được cô vừa nghĩ gì.
“Chỉ là ảnh chụp tiệc tùng thôi.”
Nghe giọng hắn không có vẻ gì là thất vọng như cô tưởng, tự dưng Robin thấy xấu hổ; chẳng lẽ cô lại muốn nhìn thấy điều gì đó thật kinh khủng sao? Strike kéo màn hình xuống, toàn hình ảnh các cô gái chơi đùa, những người mẫu đồng nghiệp, thỉnh thoảng thấy có thêm vài người nổi tiếng. Có một số bức chụp Lula và Evan Duffield, vài tấm trong đó rõ là do một trong hai người tự chụp, tay cầm máy vươn hết cỡ. Trông cả hai có vẻ như đang phê thuốc hay say rượu. Somé cũng xuất hiện vài lần. Bên cạnh ông ta Lula trông có vẻ chừng mực, e dè hơn. Có nhiều ảnh Ciara Porter và Lula ôm nhau ở quầy bar, nhảy nhót trong hộp đêm hay cười đùa trên ghế sofa trong một căn hộ có đông người.
“Rochelle đó,” Strike đột ngột nói, chỉ vào một gương mặt sưng sỉa nhỏ bé khuất dưới cánh tay của Ciara trong hình chụp nhóm. Kieran Kolovas-Jones cũng có trong hình, đứng ngay cuối hàng cười tươi rói.
“Cô làm giúp tôi một chuyện,” Strike nói, sau khi xem hết hai trăm mười hai tấm hình. “Cô xem từng tấm, nhận diện hết những người trong đó, ít nhất là những người nổi tiếng rồi ta bắt đầu nghĩ xem ai muốn xóa hết đám hình này.”
“Nhưng mấy tấm hình này không có vẻ gì là mờ ám cả,” Robin nói.
“Phải có gì đó,” Strike đáp.
Hắn đi vào văn phòng bên trong. Rồi hắn gọi điện cho John Bristow (đang bận họp, không thể nghe máy, hắn để lại tin nhắn cho thư kí “Làm ơn nhắn anh ấy gọi lại cho tôi ngay khi có thể”), gọi tiếp cho Eric Wardle (để lại lời nhắn: “Tôi có một câu hỏi liên quan đến laptop của Lula”) và cuối cùng là cho Rochelle Onifade (xem cô ta có cầm máy không; vẫn không ai trả lời, và không thể lưu lời nhắn nào cả: “Hộp thư thoại đã đầy”.)
“Tôi vẫn không làm gì được với ông Bestigui,” Robin nói với Strike, khi hắn quay ra văn phòng ngoài. Cô đang tìm kiếm một nhân vật tóc nâu chụp hình với Lula trên bãi biển. “Sáng nay tôi có gọi lần nữa, nhưng ông ta quyết không gọi lại. Tôi thử đủ mọi cách; giả vờ làm đủ thứ người, còn nói là việc gấp nữa... có gì buồn cười hả?”
“À không, tôi chỉ thấy ngạc nhiên tại sao mấy người phỏng vấn chưa chịu nhận cô vào làm,” Strike đáp.
“À, Robin đáp, mặt hơi ửng đỏ. “Thực ra là có. Mấy chỗ phỏng vấn tôi đều nhận hết. Tôi đã nhận lời bên chỗ công việc nhân sự rồi.”
“Ồ, vậy hả.” Strike đáp. “Cô chưa nói gì. Chúc mừng cô nhé!”
“Xin lỗi, tôi cứ nhớ là đã báo với anh rồi,” Robin nói dối.
“Vậy chừng nào... cô nghỉ việc ở đây?”
“Hai tuần nữa.”
“À. Chắc Mathew vui lắm hả?”
“Vâng,” Robin đáp, hơi bất ngờ, “anh ấy cũng mừng.”
Cứ như thể Strike biết rõ Matthew không hề thích chuyện cô đi làm cho hắn, nhưng cô tự hỏi làm sao hắn biết. Cô đã rất cẩn thận, không kể gì về sự căng thẳng ở nhà cả.
Điện thoại văn phòng đổ chuông, Robin nhấc máy.
“Văn phòng Cormoran Strike?... Vâng, ai gọi đấy ạ?... Là Derrick Wilson,” Cô đưa thẳng ống nghe cho hắn.
“Chào anh.”
“Ông Bestigui vừa đi khỏi vài ngày,” Wilson nói. “Nếu anh muốn tới coi nhà cửa...”
“Tôi sẽ có mặt trong vòng nửa tiếng,” Strike trả lời.
Hắn loay hoay kiểm tra ví tiền và chìa hóa, rồi chợt nhận ra vẻ hơi thất vọng trên gương mặt Robin, mặc dù cô vẫn tiếp tục xem xét mấy tấm hình chẳng có gì mờ ám.
“Cô có muốn đi không?”
“Có!” Cô tươi tỉnh đáp, chụp lấy túi xách và tắt máy tính.
3
Cánh cửa đen nặng nề của tòa nhà số 18 Kentigern Gardens dẫn vào một sảnh lót đá cẩm thạch. Một cái bàn gỗ gụ hoàng tráng được lắp cố định ở sảnh, trực diện với lối vào, bên tay phải là cầu thang đi lên, khuất tầm nhìn (bậc thang cũng bằng cẩm thạch, tay vịn bằng gỗ và đồng thau). Kế bên đó là cửa thang máy dát vàng bóng loáng và một cánh cửa gỗ sẫm màu trên nền tường trắng. Giữa cánh cửa này và hai cánh cửa chính đằng trước là một kệ trưng bày đặt trong góc nhà, với những chiếc bình hoa trụ cao, cắm đầy hoa loa kèn màu hồng đậm. Mùi hương nồng tỏa khắp không khí ấm áp trong nhà. Bức tường bên trái ốp kín gương, tạo cảm giác sảnh rộng gấp đôi. Gương phản chiếu Robin và Strike đang mải ngó nghiêng, cánh cửa thang máy và bộ đèn chùm kiểu hiện đại gồm những khối pha lê vuông treo trên trần. Bức tường gương cũng khiến cho quầy trực bảo vệ bằng gỗ bóng loáng trông như dài hơn thực tế.
Strike nhớ lại lời của Wardle: “Trong căn hộ thì lát đá hoa nọ kia... mẹ kiếp, nhà ở mà cứ như khách sạn năm sao.” Robin đứng ngay bên cạnh hắn, cố tỏ ra không hề bị ngợp. Hóa ra giới triệu phú ở nơi như thế này. Matthew và cô đang thuê tầng dưới của một ngôi nhà cùng vách với hàng xóm ở Clapham. Phòng khách của cô rộng đúng bằng phòng nghỉ giải lao của nhân viên bảo vệ, cũng là chỗ Wilson chỉ cho hai người xem đầu tiên. Trong phòng có một cái bàn và hai cái ghế, một chiếc hộp treo trên tường đựng tất cả các chìa khóa chủ và một cánh cửa mở vào nhà vệ sinh nhỏ xíu.
Wilson mặc đồng phục màu đen, thiết kế giống trang phục của cảnh sát, áo sơ mi trắng, cà vạt đen, nút áo bằng đồng.
“Màn hình theo dõi,” ông ta chỉ cho Strike khi họ ra khỏi phòng sau, đến chỗ bàn trực, nơi có bốn màn hình trắng đen, khuất tầm nhìn của khách ra vào. Các màn hình lần lượt chiếu một đoạn đường trước tòa nhà, rồi hầm đỗ xe vắng ngắt, đến bãi cỏ trong khu vườn cũng không bóng người của tòa nhà số 18, vài thứ cây cảnh kiểu cọ và bức tường sau khá cao mà Strike từng leo lên; và cuối cùng là bên trong buồng thang máy đang đứng yên. Bên cạnh dãy màn hình là hai bảng điều khiển các thiết bị báo động chung của tòa nhà và báo động lắp ở cửa vào hồ bơi và bãi đậu xe. Cuối cùng là hai điện thoại để bàn, một gần với đường dây bên ngoài, một nối trực tiếp với ba căn hộ.
“Cánh cửa đó,” Wilson nói, chỉ vào cánh cửa gỗ nguyên khối, “dẫn ra phòng tập thể dục, hồ bơi với lại bãi đậu xe.” Ông ta dẫn cả hai đi vào theo yêu cầu của Strike.
Phòng tập thể dục khá nhỏ nhưng lắp gương khắp tường như ở sảnh, tạo cảm giác rộng gấp đôi. Trong đó chỉ có một cửa sổ nhìn ra đường, một máy chạy bộ tại chỗ, vài chiếc máy tập đua thuyền, tập bước chân và một bộ tạ.
Cánh cửa gỗ gụ thứ hai mở ra một cầu thang cẩm thạch hơi hẹp, trên tường gắn đèn khối vuông. Cầu thang dẫn xuống tầng hầm, đến một cánh cửa sơn trông rất bình thường mở ra bãi đậu xe. Wilson mở cửa bằng hai chìa khóa, một Chubb một Yale, rồi bật công tắc đèn. Khu vực vừa được thắp sáng dài gần bằng con phố trước nhà, đầy những chiếc xe hiệu Ferrari, Audi, Bentley, Jaguar và BMW, tổng trị giá cũng dễ đến hàng triệu bảng. Cách bức tường phía sau khoảng mười tám mét là những cánh cửa như cánh cửa cuối cùng họ vừa bước qua, thông thẳng vào mỗi tòa nhà ở Kentigern Gardens. Cửa tự động vào bãi đỗ xe từ Ngõ Nông Nô gần với tòa nhà số 18, hắt vào ánh sáng bàng bạc ban ngày.
Robin tự hỏi không biết hai người đàn ông lặng thinh đi bên cạnh mình đang nghĩ gì. Hẳn Wilson đã quá quen với đời sống lạ thường của những cư dân tòa nhà; quen mắt với bãi đậu xe ngầm, hồ bơi và những chiếc Ferrari? Còn Strike (cũng như cô) hẳn đang nghĩ rằng những cánh cửa liên tiếp này chứa đựng nhiều khả năng mà trước đó cô chưa nghĩ đến: cơ hội lẩn trốn nhanh chóng giữa những nhà lân cận, bao nhiêu nhà trên phố là bấy nhiêu lối để ẩn náu và lẻn ra? Nhưng rồi cô để ý thấy vô số camera đen gắn trên cao chĩa khắp hướng, thu mọi cử động vào loạt màn hình lúc nãy. Liệu có khả năng người bảo vệ đã bỏ sót hình ảnh nào đêm đó chăng?
“Xong rồi,” Strike lên tiếng và Wilson dẫn hai người trở lại cầu thang cẩm thạch, sau khi khóa cánh cửa vào bãi đậu xe.
Cả ba đi theo một cầu thang ngắn khác xuống tầng hầm, càng xuống sâu mùi chlorine càng nồng nặc. Khi Wilson mở cánh cửa ở cuối cầu thang, mùi không khí ẩm, ẩm ướt, nồng hóa chất khử trùng xộc lên mũi.
“Hôm đó cánh cửa này không bị khóa phải không?” Strike hỏi Wilson, ông ta gật đầu, bật công tắc đèn, ánh sáng đổ ra chói cả mắt.
Ba người bước trên mép bể bơi rộng rãi cũng lát đá cẩm thạch, hiện giờ đang được phủ lại bằng một tấm nhựa dày. Bức tường đối diện cũng được ốp đầy gương, phản chiếu ba người đang đứng, áo quần đầy đủ, không ăn nhập gì với bức tranh sau lưng vẽ các loại cây cối nhiệt đới và bươm bướm đập cánh, phủ đầy tường lên đến trần nhà. Hồ bơi dài khoảng mười lăm lét, cuối hồ là một bồn tắm mát-xa thủy lực hình lục giác, sau đó là ba buồng thay đồ đều lắp cửa có khóa.
“Ở đây không có camera sao?” Strike hỏi, nhìn quanh quất. Wilson lắc đầu, tỏ ý không có camera nào cả.
Robin cảm thấy mồ hôi rịn ra sau cổ và dưới tay áo. Khu vực hồ bơi rất bí, cô thấy nhẹ cả người khi đi lên cầu thang trước hai người đàn ông, trở lại sảnh lễ tân. So với hồ bơi thì sảnh lễ tân dễ chịu và thoáng hơn nhiều. Một cô gái nhỏ nhắn tóc vàng đang đứng đó. Cô ta mang tạp dề màu hồng, mặc quần jeans và áo thun, xách theo một xô nhựa đầy các loại dụng cụ lau chùi.
“Derrick,” cô ta gọi, giọng rất nặng kiểu tiếng Anh của người nước ngoài, khi thấy ông bảo vệ vừa lên cầu thang. “Tôi đang càng chìa khóa số hai.”
“Đây là Lechsinka,” Wilson nói. “Lao công.”
Cô ta nhìn Strike, mỉm cười thân thiện. Wilson ra phía sau bàn gỗ gụ, đưa cho cô ta một cái chìa khóa. Lechsinka đi lên cầu thang, tay vung vẩy cái xô đựng đồ, cặp mông bó chặt trong lớp quần jeans lắc lư khiêu khích. Biết Robin đang liếc ngang, Strike chột dạ, ngập ngừng đổi hướng nhìn.
Cả hai theo Wilson đi lên lầu, đến căn hộ số 1. Wilson mở cửa bằng chìa chủ. Strike để ý thấy cánh cửa ngay cầu thang có một lỗ nhìn trộm kiểu cũ xưa.
“Nhà ông Bestigui đây,” Wilson nói, tay bấm mã số trên bảng nút bên phải cánh cửa để tắt hệ thống báo động. “Sáng nay Lechsinka đã vô dọn dẹp rồi.” Strike ngửi thấy mùi nước đánh bóng và thấy cả đường lằn do máy hút bụi trên thảm trắng trong hành lang, hai bên có những chiếc đèn ốp tường bằng đồng thau và năm cánh cửa trắng muốt không tỳ vết. Hắn để ý thấy có một bảng nút báo động được lắp kín đáo trên bức tường bên phải, vuông góc với một bức tranh của Marc Chagall vẽ mấy con dê và người nông dân mơ màng trôi trên nền ngôi làng màu xanh nước biển. Ngay dưới bức tranh là mấy chiếc lọ cao cắm hoa phong lan đặt trên bàn sơn mài màu đen kiểu Nhật.
“Ông Bestigui đi đâu?” Strike hỏi Wilson.
“Los Angeles,” ông bảo vệ trả lời. “Hai ngày nữa mới về.”
Căn phòng khách sáng sủa, tươi tắn có ba cửa sổ dài, mỗi cửa sổ đều có ban công hẹp ốp đá ở bên ngoài. Ngoài các bức tường sơn màu xanh nhạt như màu men gốm sứ Wedgwood, gần như tất cả những đồ đạc còn lại đều có màu trắng. Mọi thứ đều tinh tươm, thanh lịch và cân xứng. Thêm một bức tranh tuyệt đẹp, trông ma mị và siêu thực. Trong tranh là một người đàn ông cầm giáo, hóa trang thành con chim hét, tay trong tay với một thân hình phụ nữ màu xám không có đầu.
Tansy Bestigui khăng khăng rằng bà ta đã nghe thấy tiếng la hét cãi nhau cách đó hai tầng lầu khi ở ngay trong căn phòng này. Strike tiến lại gần cửa sổ, chú ý đến chốt cửa kiểu hiện đại và độ dày của tấm kính. Hắn hoàn toàn không nghe được âm thanh nào từ đường phố mặc dù tai hắn gần như áp sát mặt kính lạnh lẽo. Ban công bên ngoài khá hẹp và đầy những chậu cây cảnh được tỉa thành hình chóp nhọn.
Strike đi vào nhà tắm. Robbin vẫn còn ở phòng khách, chậm rãi quay người quan sát chung quanh. Cô nhìn bộ đèn chùm bằng thủy tinh Venice, thảm lót sàn tông trầm màu xanh nhạt và hồng, TV plasma, bàn ăn bằng thủy tinh và sắt kiểu hiện đại, những chiếc ghế sắt có gối tựa bọc lụa rồi đến những món đồ trang trí nhỏ màu bạc đặt trên mấy chiếc bàn con mặt gương và trên bệ lò sưởi bằng đá cẩm thạch trắng. Cô hơi chạnh lòng nghĩ đến bộ sofa IKEA ở nhà mới đó cô còn rất hãnh diện; rồi cô sực nhớ ra chiếc giường xếp của Strike trong văn phòng và thấy hơi xấu hổ vì phép so sánh vừa rồi. Bắt gặp ánh mắt của Wilson, Robin lên tiếng, vô tình lặp lại lời của Eric Wardle:
“Đúng là một thế giới khác nhỉ?”
“Ừa,” ông ta đáp. “Chỗ này không nuôi con nít được.”
“Ừ nhỉ,” Robin nói, nãy giờ nhìn ngắm căn hộ cô không hề nghĩ đến chuyện đó.
Ông sếp tạm của Robin bước ra từ phòng ngủ, vẻ mặt như vừa nghĩ ra được điều gì đó rất thỏa mãn và bước tiếp vào hành lang.
Thực ra Strike đang chứng minh rằng con đường hợp lý nhất từ phòng ngủ nhà Bestigui đến phòng tắm là dọc theo hành lang, vòng qua phòng khách. Hơn nữa, hắn tin chắc rằng vị trí duy nhất trong căn hộ mà Tansy có thể nhìn thấy và nhận ra người vừa rơi xuống chính là Lula Landry, chỉ có thể là phòng khách. Trái với nhận định của Eric Wardle, không ai đứng trong phòng tắm mà nhìn rõ được cửa sổ, nhất là vào ban đêm. Nếu không ở phòng khách thì rất khó nhận ra thứ vừa rơi xuống là một con người, chứ chưa nói đến chuyện thấy rõ mặt.
Strike trở lại phòng ngủ. Sau khi Tansy dọn đi chỉ còn mỗi ông Bestigui ở trong căn hộ, ông ta nằm ngủ trên giường phía gần cánh cửa và hành lang, suy từ mớ thuốc men, kính đeo mắt và mấy cuốn sách đặt trên bàn con cạnh giường. Strike tự hỏi khi Tansy còn ở đây, phải chăng ông ta cũng có thói quen nằm phía bên đó.
Tủ gương siêu lớn để quần áo thông với phòng ngủ. Bên trong treo đầy complet Ý và áo sơ mi Turnbull & Asser. Có hai ngăn kéo phía dưới đựng toàn khuy măng-sét bằng vàng và bạch kim. Đằng sau tấm vách giả ngay sau kệ đựng giày là một két sắt.
“Tôi nghĩ coi ở đây vậy đủ rồi,” Strike nói với Wilson khi trở ra phòng khách.
Wilson bật lại hệ thống báo động trước khi cả ba rời khỏi căn hộ.
“Anh biết mã số của tất cả các căn hộ ở đây?”
“Ừa.” Wilson đáp. “Phải thuộc. Để lỡ báo động có kêu thì còn tắt.”
Họ lên cầu thang đến căn hộ thứ hai. Cầu thang uốn sát quanh đường thông thang máy, đến nỗi mỗi vị trí trên cầu thang đều bị khuất tầm nhìn. Bên trong căn hộ vọng ra tiếng gầm gừ của máy hút bụi Lechsinka đang dùng.
“Bây giờ có ông bà Kolchak thuê lại căn nhà này,” Wilson nói. “Người Ukraine.”
Hành lang ở đây thiết kế giống hệt như căn số 1, trang trí cũng có nhiều điểm tương đồng. Căn hộ này cũng có bảng nút báo động lắp trên tường, nhưng sàn căn hộ lót gạch thay vì lót thảm. Một tấm gương soi lớn, viền mạ vàng treo đối diện với lối vào, tương đương với vị trí bức tranh ở căn số 1. Đặt cạnh tấm gương là hai chiếc bàn con bằng gỗ trông có vẻ mỏng manh, dễ gãy, trên bàn có chiếc đèn ngủ Tiffany rất kiểu cọ.
“Bình hoa hồng của Bestigui cũng được đặt trên bàn như vậy hả?” Strike hỏi.
“Ừa, đặt trên một cái bàn cũng giống vậy,” Wilson đáp. “Cái đó giờ đem vô phòng khách lại rồi.”
“Hôm đó anh bưng bàn ra ngay giữa hành lang, rồi đặt bình hoa lên hả?”
“Ừa, ông Bestigui muốn Macc bước vào nhà là thấy ngay, nhưng cũng dễ tránh, anh thấy đó. Đâu dễ gì đụng bể liền. Nhưng anh cảnh sát đó cũng còn trẻ.” Wilson đáp, vẻ thông cảm.
“Vậy mấy cái nút báo động anh nói đâu?” Strike hỏi.
“Quanh đây,” Wilson trả lời, dẫn hắn ra khỏi hành lang và đi vào phòng ngủ. “Có một cái ngay cạnh giường và một cái trong phòng khách.”
“Căn hộ nào cũng có hết à?”
“Ừa.”
Vị trí tương ứng của phòng ngủ, phòng khách, nhà bếp và phòng tắm giống hệt như căn hộ số 1. Nhiều chi tiết nhỏ cũng giống, chẳng hạn cánh tủ quần áo siêu lớn cũng được ốp gương. Strike đi vào xem xét. Khi hắn mở cánh cửa tủ và quan sát mớ quần áo phụ nữ trị giá cũng phải vài ngàn bảng. Lechsinka từ phòng ngủ bước vào, trên tay cầm một cái thắt lưng, hai cái cà vạt và mấy bộ áo đầm mới được giặt sấy bọc ni lông cẩn thận.
“Chào cô,” Strike lên tiếng.
“Chào,” cô ta nói, bước tới một cánh cửa sau hắn và kéo ra một chiếc móc treo cà vạt. “Tránh ra, giùm chút.”
Hắn đứng ra một bên. Cô ta nhỏ con, xinh xắn kiểu nữ tính, hoạt bát. Gương mặt cô ta hơi bẹt, mũi hếch và đôi mắt kiểu người Đông u. Cô ta treo cà vạt lên thật ngăn nắp, Strike lặng lẽ đứng nhìn.
“Tôi là thám tử,” hắn nói. Rồi hắn nhớ lời Eric Wardle mô tả tiếng Anh của Lechsinka là “dở như hạch”.
“Giống cảnh sát vậy đó?” hắn thử giải thích.
“À. Cảnh sát.”
“Hôm trước khi Lula chết cô cũng có ở đây đúng không?”
Hắn phải nói vài lần Lechsinka mới hiểu ý. Khi đã hiểu ra, cô ta không có vẻ khó chịu gì cả, miễn là vẫn được đứng đó treo đồ lên khi trả lời.
“Tôi luôn chùi cầu thang trước,” cô ta nói, “Cô Landry nói chuyện với ông anh lớn tiếng lắm; ổng la là cổ cho bồ nhiều tiềng quá, với lại cổ tệ với ổng lắm.
“Tôi cũng chùi căn số hai, trống trơn. Trước đã chùi rồi. Nên làm nhanh.”
“Lúc cô đang chùi có Derrick với người bên công ty bảo trì ở đó không?”
“Derrick với gì...”
“Người bảo trì? Người làm đồ báo động?”
“À người báo động với Derrick hả, à có.”
Strike nghe thấy tiếng Robin và Wilson nói chuyện trong hành lang, vị trí hắn dừng lúc nãy.
“Sau khi chùi xong cô có bật báo động trở lại không?”
“Đặt báo động hả? Có,” cô ta nói. “Một chín sáu sáu, giống như dưới cửa, Derrick nói.”
“Ông ấy nói mã số cho cô trước khi dẫn người làm báo động đi?”
Lại một lần nữa hắn phải hỏi vài lần Lechsinka mới hiểu. Khi đã hiểu ra, cô ta có vẻ hết kiên nhẫn.
“Có, tôi nói rồi mà. Một chín sáu sáu.”
“Vậy sau khi chùi xong trong này cô bật báo động trở lại?”
“Đặt báo động, có mà.”
“Cái người sửa báo động đó, trông anh ta ra sao?”
“Người sửa báo động hả? Trông sao hả?” Cô ta nhíu mày trông thật dễ thương, chiếc mũi nhỏ xinh chun lại, cô nhún vai. “Không thấy mặt. Nhưng mà màu xanh – màu xanh hết...” cô ta nói thêm, dùng cánh tay không cầm đám áo đầm quét một đường trên người mình.
“Mặc bộ đồ bảo hộ hả?” Strike gợi ý, nhưng cô tỏ ra không hiểu từ đó. “Được rồi, sau đó cô lau chùi ở đâu?”
“Nhà số 1,” Lechsinka đáp, vừa nói vừa tiếp tục công việc, bước quanh Strike để tìm ra đúng móc treo cho từng món. “Chùi cửa sổ lớn. Bà Bestigui nói chuyện điện thoại. Giận lắm. Buồn lắm. Nói là không muốn nói dối nữa.”
“Bà ấy không muốn nói dối nữa?” Strike lặp lại.
Lechsinka gật đầu, nhón chân để treo một chiếc áo đầm dài quét đất.
“Cô nghe bà ấy nói,” Strike lặp lại rõ ràng, “trên điện thoại, là bà ấy không muốn nói dối nữa?”
Lechsinka lại gật đầu, gương mặt thản nhiên ngây thơ.
“Rồi bà thấy tôi, la lên ‘Cút đi, cút đi!’”
“Thật hả?”
Lechsinka gật đầu tiếp, tay vẫn treo áo.
“Còn ông Bestigui lúc đó ở đâu?”
“Không có đó.”
“Cô có biết bà ấy nói chuyện với ai không? Nói trên điện thoại đó?”
“Không.” Nhưng rồi, Lechsinka nói tiếp, ra vẻ bí mật. “Đàn bà.”
“Đàn bà? Làm sao cô biết?”
“La hét. La hét trên điện thoại. Nghe đàn bà.”
“Cãi lộn à? Tranh cãi? Họ la hét với nhau? Lớn tiếng, hả?”
Strike nhận ra mình đang nói một cách kỳ quặc, cố tình nói chậm, nhấn nhá từ ngữ như một người Anh điển hình khi bối rối trước người nước ngoài không thạo tiếng Anh. Lechsinka lại gật đầu lần nữa, rồi mở ngăn kéo tìm chỗ cất cái thắt lưng, cũng là vật duy nhất còn sót trên tay. Cuối cùng sau khi đã cuộn và cất chiếc thắt lưng vào ngăn kéo, cô ta đứng thẳng người rồi bước ra, đi thẳng vào phòng ngủ. Strike bước theo sau.
Trong khi cô ta trải drap giường và sắp xếp lại hai chiếc bàn con cạnh giường, Strike tiếp tục hỏi và biết thêm được rằng hôm đó cô ta lau chùi căn hộ của Lula Landry sau cùng, sau khi cô người mẫu đã đi ra ngoài thăm bà mẹ. Cô ta không thấy có gì khác thường cả, cũng không thấy tờ giấy màu xanh nào, có viết chữ hay còn để trống. Lúc cô ta xong việc thì mấy cái túi cùng với đám quần áo cho Deeby Macc mà Guy Somé gởi đến cũng vừa được giao ở bàn trực. Hôm đó việc cuối cùng cô ta làm là mang quà của Guy Somé lên lầu, lần lượt đặt vào căn hộ của Lula và Macc.
“Sau khi để đồ ở trong hai căn hộ đó cô đều bật lại báo động hết?”
“Tôi đặt báo động, có hết.”
“Cả nhà của Lula nữa?”
“Có.”
“Một chín sáu sáu trong căn số Hai?”
“Có.”
“Cô có nhớ đem gì lên căn hộ của Deeby Macc không?”
Lechsinka phải ra dấu để diễn tả vài món đồ, nhưng cô ta vẫn làm cho Strike hiểu được là cô ta nhớ có đem lên hai chiếc áo, một cái thắt lưng, một cái mũ, một đôi găng tay và (cô ta làm động tác loay hoay quanh cổ tay) khuy măng-sét.
Lechsinka kể tiếp là sau khi để hết mấy món đồ đó vào phần kệ mở tủ áo quần để Macc có thể nhìn thấy ngay được, cô ta bật báo động và ra về.
Strike cảm ơn cô lao công rối rít, cố tình lần chần để ngắm cặp mông mặc quần jeans bó sát khi cô ta vuốt thẳng tấm chăn mềm, rồi mới quay trở ra hành lang với Robin và Wilson.
Khi cả ba đi lên dãy cầu thang cuối cùng, Strike kiểm tra lại câu chuyện của Lechsinka với Wilson, ông bảo vệ xác nhận là có nhờ nhân viên bảo trì cài mã số 1966 trên báo động, giống như cửa trước nhà.
“Tui chỉ chọn số nào để Lechsinka dễ nhớ, tại giống cửa trước. Nếu muốn sau đó Macc có thể tự cài lại số khác.”
“Anh có nhớ hôm đó nhân viên bảo trì trông như thế nào không? Anh có nói là anh ta đến đây lần đầu?”
“Còn trẻ lắm. Tóc dài chừng mày.”
Wilson chỉ lên cổ.
“Da trắng?”
“Ừa da trắng. Nhìn như chưa mọc râu.”
Cả ba đứng trước cánh cửa căn hộ số Ba, nơi từng là chỗ ở của Lula Landry. Tự dưng Robin thấy như có một luồng điện chạy qua người – vừa sợ hãi, vừa phấn khích khi Wilson mở cánh cửa sơn trắng muốt, trên cửa có một lỗ nhìn trộm lắp kính, cỡ bằng đầu đạn.
Căn hộ trên cùng được thiết kế khác với hai căn còn lại: nhỏ hơn nhưng thoáng hơn. Có vẻ như nó vừa được trang trí lại hoàn toàn với tông màu kem và nâu. Guy Somé có nói với Strike rằng chủ nhân nổi tiếng trước đây của căn hộ yêu thích màu săc; nhưng giờ đây trông căn hộ cũng lạnh lùng như một phòng khách sạn hạng sang. Strike im lặng, đi trước vào phòng khách.
Thảm lót sàn ở đây không làm bằng len mịn màng như dưới căn của Bestigui mà lại bằng sợi đay màu cát, hơi nham nhám. Strike quẹt bàn chân lên thảm, không để lai dấu vết hay lằn ranh nào cả.
“Sàn cũng như vậy khi Lula còn ở đây sao?” Hắn hỏi Wilson.
“Ừa. Cổ chọn vậy. Gần như mới nguyên nên họ giữ lại.”
Khác với ba ô cửa sổ dài ở dưới hai căn hộ còn lại, mỗi ô có một ban công riêng, căn hộ tầng trên cùng chỉ có hai cánh cửa lớn dẫn ra một ban công rộng. Strike mở khóa, đẩy cửa bước ra bên ngoài. Robin không thích nhìn hắn làm việc đó; sau khi liếc nhìn gương mặt trầm tĩnh của Wilson, cô quay lại nhìn mấy chiếc gối tựa và những tấm ảnh treo tường đen trắng, cổ không nghĩ đến việc xảy ngay tại đây ba tháng trước.
Strike nhìn xuống đường. Robin ắt hẳn sẽ rất ngạc nhiên nếu cô biết được những suy nghĩ của hắn hiện giờ không hề lạnh lùng, bình thản như cô vẫn tưởng.
Strike đang hình dung ra một người đang mất kiểm soát, chạy xô về phía Landry khi cô người mẫu đứng đó, thanh mảnh và xinh đẹp, trong bộ quần áo cô đã chọn để gặp một người khách mà cô rất mong gặp. Kẻ sát nhân mất trí giận dữ giằng co với Lula, cuối cùng dùng sức mạnh thô bạo của một người điên loạn ném cô xuống. Những giây Lula rơi xuống mặt đường bê tông, tắt thở trong lớp tuyết trông mềm mại nhưng chết chóc, hẳn phải dài vô tận. Lula đã đập loạn tay trong không khí trống trơn tàn nhẫn, cố tìm một chỗ bấu víu. Và rồi, không hề có thời gian để sửa chữa sai lầm, để giải thích, để trăn trối hay xin thứ tha, không hề có những thứ xa xỉ thường dành cho những kẻ may mắn có thời gian hấp hối, thân xác cô tan vỡ ngay trên mặt đường.
Người chết chỉ có thể lên tiếng qua miệng người còn sống, và qua những dấu hiệu rải rác họ để lại. Strike đã mường tượng ra cô người mẫu từ những dòng chữ cô viết cho bạn bè; hắn đã nghe thấy giọng cô trên điện thoại áp bên tai; nhưng giờ đây, khi nhìn xuống quang cảnh cuối cùng cô thấy trước khi lìa đời, hắn cảm thấy gần gũi lạ lùng với Lula. Sự thật đang chậm rãi hiện ra giữa một đám chi tiết rối rắm không liên quan với nhau. Hắn chỉ còn thiếu bằng chứng.
Điện thoại di động của Strike đổ chuông. Tên và số của John Bristow hiện ra, hắn nhấc máy trả lời.
“Chào anh John, cảm ơn anh đã gọi lại.”
“Không thành vấn đề. Có gì mới không?” Ông luật sư hỏi.
“Có thể có vài thứ. Tôi đã nhờ một chuyên gia xem qua máy tính của Lula, anh ấy tìm thấy một file nhiều hình ảnh bị xóa sau khi Lula chết. Anh có biết gì về chuyện đó không?”
Đáp lời hắn là sự im lặng hoàn toàn. Điều duy nhất khiến Strike biết được Bristow vẫn chưa dập máy là những tiếng động phía bên kia đầu dây.
Cuối cùng ông luật sư lên tiếng, giọng khác hẳn:
“Bị xóa sau khi Lula chết?”
“Chuyên gia máy tính nói vậy.”
Dưới đường một chiếc xe chậm rãi chạy đến, dừng lại ngay giữa đường, Một người phụ nữ mặc áo lông bước ra.
“Tôi... tôi xin lỗi,” Bristow nói, giọng vô cùng chấn động. “Chỉ là tôi sốc quá. Hay bên cảnh sát xóa file này?”
“Anh nhận máy tính lại khi nào?”
“À... hồi tháng Hai, tôi nhớ vậy, khoảng đầu tháng Hai.”
“File bị xóa vào ngày mười bảy tháng Ba.”
“Nhưng... nhưng thế thì thật vô lý. Không ai biết mật khẩu cả.”
“Rõ ràng là có người biết. Anh có nói là cảnh sát cho mẹ anh biết mật khẩu đúng không?”
“Mẹ tôi chắc chắn là không xóa...”
“Tôi không nói mẹ anh làm chuyện đó. Nhưng liệu mẹ anh có để máy tính mở lúc nào đó không? Hoặc đưa mật khẩu cho ai đó?”
Bristow hắn đang ở trong văn phòng. Hắn nghe thấy tiếng nói lao xao ở đầu dây bên kia và văng vẳng có cả tiếng phụ nữ đang cười.
“Cũng có thể là vậy,” Bristow chậm rãi lên tiếng. “Nhưng ai có thể xóa những tấm hình đó? Trừ khi... lạy Chúa, thật kinh khủng...”
“Chuyện gì kia?”
“Anh không nghĩ một trong mấy cô y tá đã xóa mấy tấm hình chứ? Để bán lại cho báo chí? Nhưng mà như vậy thì kinh quá... cô y tá...”
“Chuyên gia chỉ nói là mấy tấm hình bị xóa hết; không có gì cho thấy là chúng bị chép lại rồi đem giấu đi. Nhưng mà như anh nói đó, chuyện gì cũng có thể xảy ra.”
“Nhưng còn ai được nữa chứ... Ý tôi là tôi không muốn nghĩ y tá làm chuyện đó, nhưng còn ai có thể làm được? Chiếc máy tính ở chỗ mẹ tôi suốt, kể từ khi bên cảnh sát trả lại.”
“John, anh có biết mặt tất cả những người đến thăm mẹ anh trong vòng ba tháng trở lại đây không?”
“Tôi nghĩ là biết hết. Nhưng rõ là tôi cũng không chắc...”
“Đúng vậy. Khó ở chỗ đó.”
“Nhưng tại sao... tại sao lại làm vậy?”
“Tôi có thể nghĩ ra vài lý do. Nếu được, phiền anh hỏi lại mẹ anh mấy chuyện. Rất quan trọng, John à. Phiền anh hỏi trong khoảng giữa tháng Ba mẹ anh có bật máy tính không. Có ai trong những người khách đến thăm tỏ ra quan tâm tới nó không.”
“Tôi... tôi sẽ thử xem.” Giọng Bristow rất căng thẳng, nghe như sắp bật khóc. “Mẹ tôi giờ đang rất yếu.”
“Tôi rất tiếc,” Strike nói, đúng phép tắc. “Có gì tôi sẽ liên lạc với anh sớm. Tạm biệt.”
Hắn quay trở lại trong nhà, đóng cửa ban công, rồi hỏi Wilson.
“Derrick, anh có thể chỉ lại cho tôi xem hôm đó anh kiểm tra căn hộ này như thế nào không? Anh kiểm tra phòng nào trước?”
Wilson ngẫm nghĩ một lúc, rồi lên tiếng:
“Tui vô đây trước. Nhìn quanh, thấy cửa mở. Nhưng không đụng vô. Rồi,” ông ta ra hiệu cho Strike và Robin đi theo, “tui coi trong đây...”
Robin đi theo hai người đàn ông, để ý thấy cách Strike nói chuyện với ông bảo vệ hơi khác lúc trước. Hắn hỏi những câu đơn giản, khéo léo, tập trung vào những thứ Wilson đã cảm nhận hay đụng vào, mường tượng ra lúc Wilson đi quanh nhà.
Dưới sự dẫn dắt của Strike, điệu bộ của Wilson bắt đầu thay đổi. Ông ta bắt đầu diễn lại cách ông ta nắm thanh cửa, chồm người vào từng phòng, nhanh nhẹn nhìn quanh quất. Khi ông ta đến phòng ngủ duy nhất, Wilson diễn tả lại hành động chạy một cách chậm rãi, đáp ứng lại sự tập trung chú ý trên gương mặt của Strike. Ông ta quỳ xuống, diễn tả cách mình đã xem xét gầm giường, khi Strike hỏi thì nhớ thêm được là lúc đó dưới chân ông ta có một chiếc áo đầm nhàu nhĩ. Rồi ông ta diễn tả cách mình xoay người để kiểm tra phía sau cánh cửa trước khi chạy ra cửa trước. (Wilson giả vờ làm động tác chạy, hai cánh tay vung mạnh khi bước đi).
“Và sau đó,” Strike lên tiếng, mở cửa và ra hiệu cho Wilson bước qua, “anh bước ra…”
“Tui bước ra,” Wilson đồng ý, giọng trầm thấp, “rồi tui bấm nút thang máy.”
Ông ta giả vờ làm động tác bấm nút, rồi giả vờ đẩy hai cánh cửa ra, nôn nóng xem bên trong có gì.
“Không có gì cả... vậy là tui chạy xuống nhà lại.”
“Lúc đó anh nghe gì không?” Strike hỏi, đi theo Wilson, cả hai đều không để ý đến Robin đang đóng cửa căn hộ.
“Chỉ nghe xa xa... tiếng hai ông bà Bestigui la hét... rồi tui quay qua đây...”
Wilson đứng im trên cầu thang. Strike, dường như cũng đoán trước được, cũng dừng lại; Robin đi thẳng đâm sầm vào hắn, bối rối xin lỗi nhưng hắn đã đưa tay lên ra hiệu im lặng, hắn làm như thể Wilson đang tập trung hầu đồng.
“Rồi tui trượt chân té,” Wilson nói. Giọng ông ta sửng sốt. “Tui quên mất vụ đó. Tui trượt chân té, ngay đây. Té ra đằng sau. Ngồi xuống cái rầm. Có nước. Chỗ này. Mấy giọt nước. Ngay đây.”
Ông ta chỉ về phía cầu thang.
“Mấy giọt nước,” Strike lặp lại.
“Ừa.”
“Không phải tuyết.”
“Không.”
“Không phải dấu chân ướt.”
“Giọt nước. Giọt bự lắm. ở đây. Chân tui quẹo qua một bên rồi tui trượt ngã. Rồi tui đứng dậy ngay, tiếp tục chạy.”
“Anh có kể với cảnh sát về mấy giọt nước chưa?”
“Không. Tui quên mất. Tới giờ luôn. Tui quên mất tiêu.”
Một chi tiết từng khiến Strike mất ăn mất ngủ cuối cùng cũng sáng tỏ. Hắn thở dài thỏa mãn và nhe răng cười. Hai người còn lại nhìn hắn chằm chằm.
4
Hai ngày cuối tuần lại đến, ấm áp và trống trải. Strike ngồi bên cửa sổ, vừa hút thuốc vừa ngắm dòng người đi mua sắm dưới phố Denmark. Hắn để tập hồ sơ điều tra riêng trên đùi và bộ hồ sơ của cảnh sát trên bàn, viết ra tất cả những thông tin đã thu thập được.
Hắn nhìn tấm hình chụp mặt tiền tòa nhà số 18 buổi sáng hôm đó một lúc lâu. Strike nhận ra một điểm khác biệt rất nhỏ nhưng hắn thấy khá quan trọng khi so sánh mặt tiền tòa nhà lúc đó và ở thời điểm hiện tại. Thỉnh thoảng hắn chuyển sang làm việc trên máy tính, đầu tiên là tìm người đại diện của Deeby Macc rồi sau đó là kiểm tra giá cổ phiếu của công ty Albris. Cuốn sổ ghi chép đặt ngay bên cạnh, trang đang mở chi chít những câu mô tả vắn tắt và các câu hỏi bằng nét chữ sắc nhọn của Strike. Khi điện thoại di động đổ chuông, hắn cầm thẳng lên nghe mà không xem trước là ai gọi.
“À, anh Strike,” Peter Gillespie lên tiếng. “Hôm nay anh nghe máy, thật tử tế quá.”
“Ô, chào Peter,” Strike đáp. “Giờ ổng bắt anh làm luôn cả cuối tuần à?”
“Có nhiều người phải làm việc cả cuối tuần. Phải vậy thôi, gọi trong tuần anh đâu có trả lời trả vốn gì.”
“Dạo này tôi rất bận. Công việc nhiều.”
“Tôi hiểu. Nói vậy tức là anh sắp trả được tiền cho tụi tôi?”
“Tôi cũng mong vậy.”
“Anh cũng mong vậy?”
“Vâng,” Strike đáp. “Vài tuần tới tôi sẽ có đủ tiền trả anh một khoản.”
“Anh Strike. Thái độ của anh làm tôi kinh ngạc. Anh hứa sẽ trả ông Rokeby hàng tháng, mà giờ đây anh đã trả chậm tổng cộng là...”
“Tôi không thể trả bằng tiền mà mình chưa có. Nếu anh chịu đợi thêm, tôi sẽ trả hết. Thậm chí trả nguyên một cục.”
“Tôi e là không được. Trừ khi anh trả hết phần bị chậm...”
“Gillespie,” Strike nói, mắt nhìn bầu trời sáng rực ngoài cửa sổ, “tôi với anh đều hiểu rằng Jonny già sẽ không đi kiện thằng con-thương-binh-một-cẳng chỉ để lấy lại món tiền không bằng tiền mua xà bông cho tay quản gia nhà ông ta. Tôi sẽ trả hết, trả cả tiền lời nữa, chỉ trong vòng hai tháng tới, ổng tha hồ tộng hết đám tiền đó vô đít rồi đốt sạch nếu ổng muốn. Anh cứ nói với ổng như vậy, còn bây giờ anh biến quách cho tôi nhờ.”
Strike dập máy, để ý thấy lần này hắn đã không thực sự nổi nóng, nhưng vẫn có chút hả hê.
Hắn tiếp tục làm việc đến đêm khuya, ngồi ở chiếc ghế mà giờ đây hắn đã quen nghĩ là chỗ ngồi riêng của Robin. Trước khi nghỉ tay, hắn gạch chân ba lần dưới dòng chữ “Khách sạn Malmaison, Oxford” và khoanh vòng thật đậm quanh cái tên “J.P. Agyeman”.
Nước Anh đang chuẩn bị cho ngày bầu cử sắp đến. Tối Chủ nhật Strike lên giường khá sớm, bật chiếc TV nhỏ xem tin tức về những vụ nói hớ trong ngày, các màn cãi qua cãi lại, những lời hứa hẹn trước bầu cử của giới chính trị gia. Dường như bản tin nào hôm đó cũng ảm đạm. Công nợ của chính phủ Anh lớn đến độ dân thường không ai hiểu nổi. Sắp đến ngân sách sẽ bị cắt giảm hàng loạt, Đảng nào thắng cũng vậy. Thi thoảng, ngôn từ lắt léo của lãnh đạo các Đảng đang tranh cử lại khiến Strike nhớ đến mấy vị bác sĩ phẫu thuật lúc họ dặn dò rằng có thể hắn sẽ bị đau; mặc dù bản thân họ sẽ chẳng bao giờ hiểu được cái đau ấy đến mức nào.
Sáng thứ Hai Strike đi đến chỗ hẹn ở quận Canning Town để gặp Marlene Higson, mẹ ruột của Lula Landry. Cũng khá rắc rối Strike mới sắp xếp được cuộc hẹn này. Alison, thư kí của Bristow đã đưa số điện thoại của Higson cho Robin. Strike đích thân gọi để xin cuộc hẹn. Ban đầu mặc dù hơi thất vọng vì Strike không phải là nhà báo, bà ta vẫn đồng ý gặp. Nhưng sau đó bà ta gọi điện lại cho văn phòng hai lần: đầu tiên để hỏi liệu Strike có chịu trả tiền vé tàu xe cho bà ta đi vào trung tâm London không, Robin trả lời là không. Sau đó bà ta gọi ngay lại, đùng đùng đòi hủy cuộc hẹn. Strike đích thân gọi lần thứ hai thuyết phục một hồi, bà ta đồng ý gặp tại quán bia ở gần nhà. Nhưng ngay sau đó Higson gọi lại cho Strike, để lại tin nhắn hủy cuộc hẹn, giọng có vẻ bực bội.
Strike gọi lần thứ ba. Hắn nói rằng điều tra đang đi vào giai đoạn cuối, sau đó tất cả các chứng cứ sẽ được công khai, lúc đó chắc chắn giới báo chí sẽ lại nhảy vào. Vậy nên nếu bà ta không muốn gặp thì hắn cũng thông cảm được, vì như vậy báo chí sẽ để bà ta yên. Ngay lập tức Marlene Higson đổi ý, muốn kể cho Strike tất cả những gì bà ta biết. Trước sự thống thiết của bà ta, Strike tỏ vẻ xuôi lòng và chấp nhận hẹn gặp ở vườn bia quán Ordance Arms vào sáng thứ Hai như đã hẹn trước.
Hôm đó hắn đi tàu ra quận Canning Town. Trạm tàu Canning Town nhỏ bé, có thể nhìn thấy được từ khu trung tâm tài chính Canary Wharf, nơi có những tòa nhà hào nhoáng sang trọng trông như phim khoa học viễn tưởng. Những tòa nhà đó sừng sững, to lớn như món nợ công khổng lồ của nước Anh, đứng từ xa không thể hình dung chúng lớn như thế nào. Nhưng chỉ đi bộ vài phút, Strike đã hoàn toàn bỏ lại sau lưng cái thế giới hào nhoáng đó. Quận Canning Town nhìn đâu cũng thấy nghèo nàn xập xệ, mặc dù nằm chen chúc ngay bên cạnh những dãy nhà ven sông, nơi có những căn hộ sang trọng hiện đại của giới nhà băng. Strike biết rõ Canning Town từ lâu bởi đây từng là chỗ của một người bạn trong giới giang hồ, cũng chính là người đã cung cấp cho hắn địa chỉ của Brett Fearney. Hắn đi dọc theo phố Barking, quay lưng về phía Canary Wharf, ngang qua một tòa nhà gần biển quảng cáo ghi chữ “kills 4 Communities” (Giết chóc vì cộng đồng), hắn hơi sững lại, trước khi nhận ra hẳn ai đó đã xóa mất chữ S trước chữ k- tấm biển quảng cáo đáng ra phải là “Skills 4 Communities” (Kĩ năng vì cộng đồng).
Quán Ordance Arms ở ngay bên cạnh Công ty Trách nhiệm hữu hạn môi giới Cầm đồ Anh quốc. Quán khá rộng lớn, trần thấp, sơn màu be. Nội thất bên trong quán có vẻ gọn gàng, thực dụng. Ngoài một dãy đồng hồ bằng gỗ treo trên tường màu đất sét và tấm thảm lót sàn màu đỏ có hoa văn bầm tía, chủ quán chẳng màng trang trí vẽ vời gì nữa. Trong quán có hai bàn billiard loại lớn, một quầy bar khá dài ở vị trí trung tâm, chung quanh khá thoáng, tiện cho khách ra vô lấy đồ uống. Mười một giờ sáng, quán vắng tanh, vị khách duy nhất là một người đàn ông lớn tuổi nhỏ bé ngồi khuất trong góc và một cô phục vụ mặt mày tươi tắn, thân mật gọi ông khách là “Joey” và nhanh nhẹn chỉ lối ra vườn sau cho Strike.
Vườn bia thực ra là sân sau lót bê tông, trông vô cùng ảm đạm. Trong “vườn” có mấy thùng rác và một chiếc bàn gỗ duy nhất. Một người đàn bà ngồi trên ghế nhựa màu trắng bên cạnh bàn. Bà ta bắt chéo cặp giò múp míp, cầm điếu thuốc ngang mặt. Trên mấy bức tường cao bao quanh có gắn kẽm gai cuộn bảo vệ. Một cái túi ni lông bị vướng vào đó, bay sột soạt trong gió. Bên kia bức tường là một dãy nhà chung cư sừng sững, sơn vàng. Ban công khu chung cư treo đầy quần áo đồ đạc lếch thếch, nhìn đâu cũng thấy dơ dáy nghèo khổ.
“Bà Higson?”
“Chú em gọi tui là Marlene được rồi.”
Bà ta nhìn hắn từ đầu tới chân, ra vẻ sành sỏi, chậm rãi mỉm cười. Marlene mặc áo sát nách màu hồng bằng vải thun Lycra, khoác ngoài một chiếc ao thun dày liền mũ màu xám có khóa kéo, bên dưới mặc quần tất ôm sát hơi ngắn, để lộ một khúc cổ chân trắng nhợt. Đôi dép xỏ ngón bà mang trông dơ dơ nhưng các ngón tay đeo đầy nhẫn vàng. Tóc cũng nhuộm vàng, lộ vài phân chân tóc màu nâu đã ngả bạc, được cột túm lại phía sau bằng một cái cột tóc vải lùm xùm như khăn tắm đã ngả màu cháo lòng.
“Bà uống gì để tôi mua?”
“Nếu anh đã ép vậy thì cho một vại Carling.”
Cái kiểu bà ta uốn éo người về phía Strike, gạt vài sợi tóc xơ xác rũ xuống bọng mắt, và cả cách bà ta cầm điếu thuốc đều toát lên vẻ điệu đàng lố bịch. Có lẽ bà ta luôn cư xử như vậy trước mặt đàn ông. Strike thấy vừa mủi lòng vừa ghê tởm.
“Sốc hả?” Marlene Higson lên tiếng, sau khi Strike đem bia về lại bàn cho cả hai. “Hồi lúc tui đem cho nó đi cũng y vậy. Lúc đó tui đau lòng lắm chứ, nhưng mà nghĩ thôi thì để nó được sung sướng. Còn không tui làm sao đành lòng làm chuyện đó. Tui cứ nghĩ để nó có những thứ tui không có. Tui nghèo từ nhỏ. Hồi đó trong tay chẳng có gì, nhẵn như chùi.”
Bà ta nhìn đi chỗ khác, cầm điếu thuốc Rothman rít một hơi thật sâu, lúc đó trông miệng bà ta nhăn nhúm y hệt đít mèo.
“Tay Dez bồ tui cũng chẳng thiết gì nó... anh biết đó, nó là dân da màu, rõ ràng không phải con ảnh. Càng lớn da nó càng đen, chứ lúc mới sinh nó cũng như con nít da trắng thôi. Nhưng không đời nào tui đem nó đi cho, nếu tui không nghĩ làm vậy thì nó có cơ được sung sướng. Tui nghĩ nó cũng sẽ không nhớ gì tôi, tại lúc đó nó còn nhỏ quá. Tui làm vậy để tốt cho nó, rồi biết đâu sau này khi nó lớn lên nó sẽ đi tìm tui. Mơ ước vậy mà thành sự thật,” bà ta nói thêm, làm bộ xúc động mãnh liệt. “Nó đi tìm tôi thiệt.”
“Để tui kể anh nghe chuyện này rất lạ,” bà ta tiếp tục thao thao, không thèm nghỉ lấy hơi. “Ngay một tuần trước khi nó gọi điện lần đầu cho tui, một anh bạn có hỏi tui ‘Cưng biết cưng giống ai không?’ Rồi ảnh nói tên nó. Tui chỉ nói ‘Dớ dẩn vừa thôi,’ nhưng ảnh lại nói tiếp, ‘Thiệt mà. Ngay con mắt, rồi hàng chân mày nữa, thấy chưa?”
Bà ta nhìn Strike, chờ đợi nhưng hắn không thể thốt ra tiếng nào. Gương mặt Nữ hoàng Nefertiti làm sao bà con gì với cái mớ xám xịt tai tái này.
“Nhìn ảnh tui hồi trẻ thì sẽ thấy,” bà ta nói tiếp, giọng hơi dỗi. “Cái chính là, tui cho đi để nó được sung sướng, vậy mà họ giao nó cho cái đám chó đẻ đó, vô phép anh tui nói vậy. Nếu biết trước tui đã giữ nó lại, tui có nói vậy với nó. Nghe tui nói vậy nó khóc luôn. Phải chi tui đừng bao giờ đem cho, để lại mà nuôi.
“Có chứ. Nó nói chuyện với tui hoài. Tâm sự nhiều lắm. Ông cha nuôi cũng tốt, Ngài Alec đó. Nghe kể cũng được. Nhưng bà mẹ ghê gớm lắm. À, vụ thuốc men. Uống thuốc liên tục. Thì kiểu mấy con mụ nhà giàu rảnh quá suốt ngày uống thuốc an thần. Anh thấy đó, Lula nói chuyện được với tui. Hai mẹ con quấn quít lắm. Ta nói, máu mủ ruột rà mà.
“Nó rất sợ không biết mụ già sẽ làm gì nếu biết nó đi tìm mẹ ruột. Nó lo lắm, sợ mụ ta lên cơn khi báo chí tìm ra tui, nhưng anh thấy đó, người nổi tiếng như nó thì rồi chuyện gì báo chí cũng biết, chẳng phải vậy sao? Trời ơi, báo chí bịa đâu ra đủ thứ chuyện. Nhứt là về tui. Giờ nghĩ lại tui còn muốn đi kiện.”
“Đang nói tới đâu rồi? À, bà mẹ nuôi nó. Tui nói với Lula, ‘Tại sao phải lo lắng hả cưng, bỏ luôn bà đó thì càng tốt chứ sao. Cứ kệ cho bả tức nếu bả không muốn hai mẹ con mình gặp nhau.’ Nhưng Lula là đứa có hiếu, thường xuyên thăm viếng bả, cho đúng bổn phận vậy mà.
“Nhưng dù sao thì nó cũng có cuộc sống riêng, tự do làm những việc nó muốn, không phải vậy sao? Nó còn có thằng Evan. Nói thiệt với anh, tui có nói là tui không chịu thằng đó,” Marlene Higson kể lể, làm bộ nghiêm nghị đứng đắn. “Gì chứ nghiện ngập thì tui biết quá rồi, nhiều đứa tan nát hết. Nhưng tui phải công nhận rằng thằng nhỏ coi vậy mà tốt tính. Tui phải công nhận vậy đó. Chuyện vừa rồi không dính gì đến Evan cả. Tui cam đoan luôn.”
“Bà gặp anh ta rồi à?”
“Chưa, nhưng có lần Lula điện cho Evan lúc đang ở chỗ tui. Tui có nghe hai đứa nó nói điện thoại với nhau, nghe dễ thương lắm. Không, tui không nghĩ gì xấu cho Evan cả. Rõ là không dính gì tới thằng nhỏ, có chứng cứ rồi còn gì. Tui không nghĩ gì xấu cho nó cả. Miễn là bỏ ma túy đi thì tui chịu hết. Tui có nói với Lula, ‘Dẫn nó tới đây cho mẹ xem có được không,’ nhưng Lula chẳng bao giờ dẫn Evan tới. Nó bận lắm. Tóc tai lôi thôi vậy chứ Evan trông bảnh lắm,” Marlene nói. “Anh nhìn hình cũng thấy đó.”
“Lula có kể gì với bà về mấy người hàng xóm không?”
“Ồ, tay Fred Beastigwee hả? Có, nó nói hết, nói là tay đó có mời đóng phim. Tui nói, tại sao không? Đóng cho vui mà. Nếu không thích thì vẫn có thêm được nửa triệu bỏ túi, chớ gì?”
Bà ta nheo đôi mắt đỏ ngầu; ngây ra trong giây lát khi nghĩ đến con số hấp dẫn khổng lồ mà xa vời như ảo ảnh vô tận. Chỉ nói đến món tiền đó cũng khiến Marlene mơ mộng lâng lâng.
“Lula có nói gì về Guy Somé không?”
“Có chứ, con bé quý Gee, ổng thương nó lắm. Nhưng tui thích mấy thứ hơi cổ điển chút. Đồ của Gee không hơp với gu của tui.”
Lúc bà ta chồm người ra trước để điệu đàng khảy điếu thuốc vào gạt tàn, mấy nếp gấp xuất hiện trên chiếc áo Lycra màu hồng chóe bó chặt lấy khúc mỡ bụng chỉ chực trào ra ngay lưng quần.
“‘Anh ấy như anh trai của con vậy’ Lula nói về Gee như vậy đó, rồi tui nói, cần gì anh nuôi, sao không đi tìm mấy thằng con của tui luôn? Nhưng nó không quan tâm mấy.”
“Mấy cậu con bà?”
“Ờ thì mấy đứa con khác của tui. Sau Lula tui sinh thêm hai đứa nữa, một đứa với Dez, một đứa với người khác. Bên Bảo trợ Xã hội đem tụi nó đi hết, nhưng tui nói với Lula, có tiền thì đi tìm được thôi, chỉ cần cho tui một ít, đôi ba ngàn bảng gì đó, rồi tui sẽ nhờ người đi tìm tụi nó, giữ kín với báo chí, để đó mình tui làm, nó không phải đụng gì tới. Nhưng nó chẳng mặn mà gì.” Marlene lặp lại.
“Bà có biết hai người này hiện giờ ở đâu không?”
“Hồi họ đem đi tụi nó còn nhỏ xíu, không biết bây giờ đã ở đâu rồi. Lúc đó tui gặp nhiều chuyện rắc rối. Tui cũng không giấu anh làm gì. Đời tui khổ lắm.”
Rồi bà ta kể lể dài dòng về cuộc đời “khổ lắm” đó của mình. Một chuỗi những cùng cực với những tay “chồng” vũ phu, nghiện ngập, dốt nát, trốn tránh trách nhiệm. Rồi sự túng bần và bản năng sống còn hoang dại xui khiến bà ta vứt bỏ con cái, vì việc nuôi dạy chúng đòi hỏi những kỹ năng mà bà ta chưa bao giờ có được.
“Vậy bây giờ bà không biết hai người con trai đang ở đâu?” Strike lặp lại, đúng hai mươi phút sau.
“Không, làm thế quái nào tui biết được?” Marlene đáp, sau một hồi kể lể bà ta trở nên cay cú hằn học. “Con nhỏ cũng không quan tâm gì. Nó đã có một thằng anh da trắng còn gì? Nó chỉ muốn đi kiếm ruột rà da đen thôi. Nó chỉ cần có vây.”
“Lula có hỏi gì bà về cha ruột không?”
“Có, tui biết gì nói hết. Ổng là sinh viên người châu Phi. Hồi đó, ổng thuê nhà trên gác, tui ở ngay tầng dưới, nhà trên đường Barking đây thôi. Ổng ở chung với hai người nữa. Chỗ đó giờ người ta đặt làm tiệm cá cược ở tầng dưới. Ổng đẹp trai lắm. Mấy lần tui đi chợ về có ra xách đồ giùm một tay.”
Trong câu chuyện của Marlene Higson, mối tình đó đứng đắn chừng mực, đầy đủ phép tắc như thời Victoria. Trong mấy tháng đầu tiên hai người không làm gì xa xôi hơn mấy cái bắt tay.
“Rồi thì, tại ổng giúp tôi hoài đó, nên một bữa tui mời ổng vô nhà, để cảm ơn vậy thôi anh hiểu không. Tui không bao giờ có thành kiến với dân da đen. Với tui ai cũng bình đẳng. Mời vô nhà uống ly trà trà thôi không có gì hết, tui nói vậy đó. Rồi thì,” Marlene nói tiếp, cho sự thật phũ phàng giáng rầm xuống những tách trà đặt trên đám khăn lót đĩa xinh xinh vừa tưởng tượng ra, “sau đó tui có bầu.”
“Bà có nói với ông ấy không?”
“Có chứ, ổng hứa hẹn sẽ giúp đỡ, đứng ra gánh vác, để làm sao cho tui ổn thỏa. Lúc đó vừa nghỉ hè. Ổng nói là sẽ quay lại,” Marlene nói, giọng đầy khinh bỉ. “Nhưng cút thẳng một mạch. Thì cũng có gì mà lạ? Rồi tui biết làm gì hơn, không lẽ đi châu Phi kiếm ổng?”
“Nhưng tui cũng không hề hấn gì, không đau khổ mấy vì lúc đó tui cũng vừa quen Dez. Ảnh không ngại đứa nhỏ. Sau khi Joe bỏ đi thì tôi dọn vô ở chung với Dez.”
“Joe?”
“Tên ổng. Joe.”
Bà ta nói ra vẻ chắc chắn như đinh đóng cột nhưng Strike cảm thấy dường như bà ta đã lặp đi lặp lại cái tên bịa đó quá nhiều lần, thành thử lời nói cứ trơn tuồn tuột.
“Họ của ông ấy là gì?”
“Tui nhớ làm quái nào được. Anh hỏi giống y như Lula. Hơn hai mươi năm rồi còn gì. Mumumba,” Marlene Higson nói bừa, không chút bối rối. “Hay đại loại vậy.”
“Có phải là Agyeman không?”
“Không.”
“Owusu?”
“Tui nói rồi,” bà ta trở nên hung hăng, “Mumumba hay cái gì đại loại vậy.”
“Không phải Macdonald? Hay Wilson chẳng hạn?”
“Anh giỡn hả? Macdonald? Wilson? Từ Châu Phi?”
Strike kết luận mối tình của Higson chưa đến giai đoạn hai bên kịp biết họ tên đầy đủ của nhau.
“Lúc đó ông ấy là sinh viên à? Ông ấy học ở đâu vậy?”
“Đại học,” Marlene đáp.
“Trường nào, bà nhớ không?”
“Tui đếch biết. Xin điếu thuốc được không?” Bà ta nói thêm, giọng hơi dịu lại.
“Vâng, bà cứ tự nhiên.”
Marlene rút ra một cái bật lửa nhựa để châm thuốc rồi làm luôn vài hơi. Điếu thuốc miễn phí làm bà ta mềm mỏng lại một chút:
“Hình như có liên quan gì đó tới bảo tàng. Liên kết gì đó, đại loại vậy.”
“Liên kết với bảo tàng?”
“Ừa, tại tui nhớ ổng có nói ‘Thỉnh thoảng có thời gian rảnh rỗi tôi đi thăm bảo tàng.’” Bà ta giả giọng, cứ nghe theo đó thì người sinh viên từ Châu Phi này nói năng giống hệt một quý ông thượng lưu người Anh. Nói rồi, bà ta tủm tỉm cười, như thể đi bảo tàng là chuyện lạ lùng lố bịch lắm.
“Bà có nhớ là ông ấy hay đi bảo tàng nào không?”
“Bảo... bảo tàng Anh quốc hay đại loại như vậy,” bà ta đáp, rồi sau đó bực tức nói thêm, “Anh y hệt như Lula. Làm thế quái nào mà tui nhớ hết mấy chuyện như vậy?”
“Bà không bao giờ gặp lại ông ấy nữa sau khi ông ấy về nước nghỉ hè?”
“Không.” Bà ta đáp. “Mà tui cũng không mong gì.” Bà ta nốc bia, nói tiếp. “Chắc chết đâu rồi.”
“Tại sao bà lại nói vậy?”
“Châu Phi mà, đúng không?” Bà ta đáp thản nhiên. “Chắc là bị trúng đạn chết? Hay chết đói. Hay gì nữa. Châu Phi mà, anh biết đó.”
Đúng là Strike từng biết Châu Phi. Hắn nhớ đến những con đường nhung nhúc người ở Nairobi, quang cảnh rừng mưa nhiệt đới của Angola nhìn từ trên máy bay, những ngọn cây phủ đầy sương mù và cảnh đẹp hút hồn hiện ra khi máy bay đổi hướng: một thác nước chảy đổ xuống triền núi xanh mướt. Rồi cả người đàn bà dân tộc Masai ngồi trên thùng giấy cho con bú trong khi hắn tỉ mỉ đặt câu hỏi điều tra về cáo buộc hiếp dâm còn Tracey cầm máy quay phim đứng ngay bên cạnh.
“Lula có cố gắng đi tìm cha ruột không?”
“Có, nó có cố tìm thiệt.” Marlene hờ hững đáp.
“Tìm như thế nào?”
“Nó tìm trong giấy tờ bên trường Đại học,” Marlene đáp.
“Nhưng nếu bà không nhớ ông ấy học trường nào...”
“Tui không biết, hình như Lula kiếm ra trường của ổng, nhưng mà không kiếm ra ổng đâu. Chắc tui không nhớ chính xác tên ổng, tui cũng không biết nữa. Lula cữ lẵng nhẵng hỏi suốt: trông ổng ra sao, ổng học cái gì. Tui trả lời là ổng cao, người gầy gầy, đáng ra nó phải mừng vì lỗ tai nó giống tui, chứ tai voi như ổng thì còn lâu mới làm người mẫu người miếc gì được.”
“Lula có hay nói gì về bạn bè của cô ấy không?”
“Có chứ. Có một con ranh người da đen, Raquelle hay cái quỷ gì đó. Đeo theo Lula như đỉa hút máu. Giờ cũng ngon lành chán. Có đủ áo quần rồi vòng vèo rồi những gì gì nữa. Tui chỉ nói với Lula một lần, ‘Mẹ khoái một cái áo khoác mới.’ Nhưng tui không có xin xỏ gì, anh thấy đó. Con Requelle thì hở ra là xin.”
Bà ta hừ mũi, uống cạn ly bia.
“Bà gặp Rochelle bao giờ chưa?”
“Hóa ra tên vậy hả? Ừ, có gặp một lần. Nó ngồi sẵn trong xe khi tài xế tới đón Lula ở chỗ tui. Ra vẻ bà lớn, nhìn tui bằng nửa con mắt chớ. Giờ thì chắc tiếc lắm. Cái đồ la liếm.
“Rồi cả con Ciara Porter.” Marlene kể tiếp, giọng còn khinh bỉ hơn, “chơi luôn bồ của Lula ngay trong đêm đó. Con đĩ ranh khốn nạn.”
“Bà có quen biết Ciara Porter không?”
“Tui thấy trên báo. Evan đi tới nhà nó, không phải vậy sao? Sau khi gây gổ với Lula. Đi thẳng tới nhà Ciara. Quá đáng mà.”
Marlene càng nói thì Strike càng thấy rõ là Lula chưa bao giờ để bà mẹ ruột gặp bạn bè của mình. Trừ lần nhìn thấy Rochelle chớp nhoáng, Marlene chỉ biết về họ qua mớ thông tin trên báo chí mà bà ta ắt hẳn đã đọc ngấu nghiến.
Strike đi mua thêm đồ uống, rồi nghe Marlene mô tả lại nỗi kinh hoàng và cú sốc khi nghe tin (do một người hàng xóm chạy xộc vào nhà báo ngay sáng sớm ngày 8 tháng Giêng) rằng con gái bà ta vừa ngã từ ban công xuống mặt đường chết ngay tại chỗ. Strike cẩn thận hỏi dò thì biết được thêm là hai tháng trước đó Lula không hề gặp bà mẹ ruột. Rồi bà ta tuôn một tràng chửi rủa cách gia đình nhận nuôi của Lula đối xử với mình sau đó.
“Họ không muốn có tui ở đó, nhứt là ông cậu khốn nạn của nó. Anh gặp ổng rồi chứ? Tony Landry đó? Tui gọi cho ổng hỏi về đám tang, nhưng toàn bị ổng dọa. Vậy đó. Dọa nạt đủ kiểu. Tui nói với ổng ‘Tui là mẹ nó, tui có quyền tới đó.’ Rồi ổng nói lại là tui không phải mẹ nó, mà mụ già hâm kia mới là mẹ nó, phu nhơn Bristow đó. Ngộ ghê hả, tui nói với ổng, tui nhớ là có rặn đẻ nó ra kia mà, nói vô phép anh nhưng đúng thế chứ gì nữa? Rồi ổng nói là tui đang gây rắc rối vì tui nói chuyện với báo chí. Nhưng tụi nó tới tận nhà tìm tui mà.” Bà ta giận dữ kể với Strike, chỉ tay dứt khoát về phía dãy chung cư bên cạnh. “Báo chí tới tìm tui. Vì tui kể chuyện của chính tui. Đương nhiên là tui kể rồi.”
“Tui không muốn làm lớn chuyện, nhứt là ở đám tang, tui không muốn phá cái gì hết, nhưng đừng có hòng đuổi tui đi. Tui có dự đám tang, ngồi ghế sau. Con khốn Rochelle cũng có ở đó, nhìn tui như thứ rác rưởi gì vậy. Nhưng sau đó thì không ai làm gì tui hết.
“Họ có được cái họ muốn rồi, cái gia đình khốn nạn đó. Tui chẳng được cái quái gì. Chẳng có cái khỉ khô gì cả. Lula có linh thiêng chắc nó buồn lắm, tui biết chắc vậy. Hẳn nó muốn để lại cho tui gì đó. Không phải,” Marlene nói, ra vẻ tự trọng “là tui quan tâm gì tới tiền nong. Với tui tiền bạc không là gì hết. Không có gì thay thế được con gái tui, mười triệu hay hai chục triệu cũng vậy.
“Nhưng nói thiệt với anh, Lula mà có linh thiêng chắc nó điên lắm nếu biết tui không được xu nào,” bà ta nói tiếp. “Cả đống tiền vậy mà; không ai tin chuyện tui trắng tay cả. Tiền nhà thì không trả nổi trong khi con gái ruột vừa chết đi để lại tiền triệu. Nhưng anh thấy đó. Cứ vậy nên người giàu mới giàu hoài, đúng không? Họ không cần tiền, nhưng có thêm chút đỉnh thì vẫn không chê. Tui không biết làm sao tay Landry cạn tàu ráo máng đó thảnh thơi ngủ ngon được, nhưng thôi, đó là việc của lão.”
“Lula có hứa hẹn để lại gì cho bà không? Cô ấy có bao giờ nhắc tới di chúc không?”
Gương mặt Marlene đột nhiên trở nên tươi tỉnh, khấp khởi hy vọng.
“Có chứ, nó nói sẽ lo hết cho tui mà. Đúng vậy, nó nói là sẽ lo cho tui ổn thỏa. Anh nghĩ tui có nên nói lại vụ đó với ai không? Nói rõ ra như vậy đó?”
“Tôi không nghĩ làm vậy sẽ thay đổi được chuyện gì, trừ khi cô ấy làm sẵn di chúc trong đó có nhắc tới bà.” Strike đáp.
Mặt bà ta xịu ngay xuống, sưng sỉa trở lại.
“Chắc đám đó đốt quách cái di chúc rồi, đồ khốn nạn. Dám lắm. Đám đó cùng một giuộc mà. Tui không tin nổi có gì lọt qua khỏi tay ông cậu già dịch đó.”
5
“Tôi rất tiếc vì anh ấy vẫn chưa gọi lại cho chị,” Robin nói với người bên kia đầu dây đang ở cách văn phòng hơn chục cây số. “Anh Strike hiện giờ rất bận. Để tôi ghi lại tên và số của chị rồi nhắc anh ấy gọi lại cho chị ngay chiều nay.”
“Ồ, không cần làm vậy đâu,” bên kia đầu dây lên tiếng. Giọng cô ta nghe dễ chịu, kiểu người có học thức, thoáng chút khàn khàn khiến người ta liên tưởng ngay đến một giọng cười rất gợi cảm, táo bạo. “Thực ra tôi không cần nói chuyện với anh ấy. Phiền cô chuyển giùm lời nhắn vậy? Tôi chỉ muốn báo trước cho anh ấy thôi. Trời đất, vụ này... thật là xấu hổ quá; tôi không muốn làm kiểu vậy chút nào... Thôi thì. Phiền cô nhắn lại rằng Charlotte Campbell gọi để báo tin đính hôn với Jago Ross. Tôi không muốn anh ấy nghe được tin này từ một người nào khác, hay phải đọc báo thấy. Bố mẹ Jago vừa mới đi đăng tin trên tờ Times. Thật là ngại quá.”
“Ồ, được rồi,” Robin đáp, đầu óc cô đột nhiên sững lại, bàn tay đang cầm cây viết cũng vậy.
“Cảm ơn cô nhiều lắm, Robin – phải tên cô vậy không? Cảm ơn. Chào cô.”
Charlotte dập máy trước. Robin từ từ đặt ống nghe xuống, vô cùng hoang mang. Cô không muốn chuyển lời của Charlotte một chút nào. Mặc dù Robin chỉ là người báo tin, cô vẫn cảm thấy như mình đang giáng một đòn xuống Strike, trúng ngay vào quyết tâm muốn giữ kín mọi chuyện riêng tư của hắn, từ đám thùng giấy đựng đồ, chiếc giường xếp, đến cả mấy vỏ hộp đồ ăn trong thùng rác mỗi sáng – những thứ hắn không bao giờ nhắc đến.
Robin ngồi suy tính. Cô có thể lơ luôn nội dung của tin nhắn, chỉ cần nhắc Strike gọi lại cho Charlotte, để cô ta tự làm cái việc dơ bẩn đó (Robin cho là thế). Nhưng mà nếu Strike không chịu gọi, rồi ai đó nói lại vụ đính hôn với hắn thì sao? Roin không cách gì biết được liệu Strike và người cũ (bồ? Vợ sắp cưới? Vợ đã cưới?) có nhiều bạn chung không. Nếu cô và Matthew chia tay và anh ấy đính hôn với một người đàn bà khác (chỉ nghĩ tới điều đó thôi cũng khiến Robin thấy nhói cả lòng), tất cả bạn bè và người thân của cô hẳn sẽ quan tâm và tìm cách báo ngay cho cô biết. Nếu vậy, Robin nghĩ thầm, cô vẫn muốn được cảnh báo trước, càng kín đáo và riêng tư càng tốt.
Vậy nên, một tiếng sau đó, khi nghe tiếng Strike đang đi lên cầu thang, vừa đi vừa nói điện thoại, có vẻ rất hồ hởi, Robin lại thấy quặn cả ruột gan, như thế chuẩn bị bước vào phòng thi. Khi Strike đẩy cánh cửa gương bước vào, hắn không cầm điện thoại mà đang đọc rap lẩm bẩm trong miệng. Robin càng cảm thấy tệ hại hơn nữa.
“Kệ mẹ thuốc men và kệ mẹ Johari,” Strike vẫn lẩm bẩm, kẹp một cái quạt điện còn đựng trong hộp dưới cánh tay. “Chào cô.”
“Chào anh.”
“Chắc phải dùng cái này. Trong này bí quá.”
“Đúng rồi, có quạt sẽ đỡ hẳn.”
“Trong cửa hàng bật nhạc Deeby Macc,” Strike nói, đặt cái quạt xuống góc phòng và cởi áo khoác. “Cái gì mà Ferrari, rồi kệ mẹ thuốc men, kệ mẹ Johari.” Không biết Johari là ai nhỉ? Một tay rapper khác có thù oán gì với ông ta chăng? Cô nghĩ sao?”
“Không phải,” Robin đáp, thầm ước giá mà hôm nay tâm trạng Strike không phấn khởi như vậy. “Johari là một thuật ngữ tâm lý. Cửa sổ Johari. Nói về chuyện chúng ta hiểu bản thân mình như thế nào, rồi người khác hiểu chúng ta ra sao.”
Strike sựng người lại, tay vẫn treo dở cái áo, nhìn cô chằm chằm.
“Đừng nói cô đọc vụ đó trên tạp chí Heat chứ?”
“Không. Tôi học Tâm lý hồi ở Đại học. Nhưng bỏ giữa chừng.”
Tự dưng Robin thấy nói chuyện đó khiến cô và hắn giờ ngang hàng về những thất bại trong cuộc sống riêng, như vậy sẽ dễ báo tin xấu kia hơn.
“Cô bỏ giữa chừng?” Strike tỏ vẻ quan tâm, khác hẳn với thường ngày. “Thật là trùng hợp, tôi cũng vậy. Mà sao ông ta lại nói là kệ mẹ Johari?”
“Hồi ở tù Deeby Macc được điều trị tâm lý nên rất quan tâm tới chủ đề đó, đọc khá nhiều về tâm lý học. Vụ đó thì tôi đọc trong báo,” cô nói thêm.
“Cô đúng là một kho tàng thông tin.”
Roobin lại nhói cả lòng.
“Lúc anh đi ra ngoài có người gọi. Một chị tên là Charlotte Campbell.”
Hắn ngước lên ngay, nhíu mày.
“Chị ấy nhờ tôi nhắn lại anh là,” Robin nhìn ngang tránh mắt hắn, chỉ thoáng thấy vành tai của Strike, “chị ấy mới đính hôn với Jago Ross.”
Rồi không kiềm được, cô liếc nhìn mặt Strike và tự dưng cô thấy lạnh cả gáy.
Một trong những ký ức thơ ấu đầu tiên và sống động nhất của Robin là ngày chú chó già yếu của gia đình cô được đem đi tiêm thuốc để “giải thoát”. Robin còn quá nhỏ, không hiểu được bố cô đang nói gì; cô cứ nghĩ rằng Bruno, chú chó Labrador thân thiết của anh trai cô vẫn còn sống. Robin bối rối không hiểu vì sao hôm đó bố mẹ rất buồn bã, vậy là cô quay sang hỏi anh Stephen giờ phải làm sao. Câu hỏi của Robin khiến mọi sự bình yên trước đó vỡ ra tan tành. Lần đầu tiên trong đời Robin thấy gương mặt nhỏ nhắn, bình thường rất tươi tắn của anh trai cô trở nên tiu nghỉu không còn chút sinh khí. Đôi môi Stephen trở nên trắng bệch khi anh òa ra khóc. Trong khoảnh khắc im lặng trước khi Stephen nấc lân đau đớn, Robin nghe thấy sự chết chóc như đang gào rú. Khi đó cô đã khóc tức tưởi, không ai dỗ dành gì được, không phải vì Bruno đã chết mà vì thấy Stephen quá đau buồn.
Strike không đáp lại ngay. Một lúc sau, hắn lên tiếng, khó nhọc.
“Được rồi. Cảm ơn cô.”
Hắn đi thẳng vào văn phòng phía trong, đóng cửa lại.
Robin ngồi xuống bàn trở lại, cô thấy mình y hệt như tên đao phủ vừa mới xong việc. Cô không thể tập trung làm gì cả. Cô muốn đứng dậy đến gõ cửa phòng hắn, hỏi hắn có muốn uống trà không, nhưng rồi lại thôi. Năm phút sau đó cô lúng túng sắp xếp lại mấy món đồ trên bàn, thỉnh thoảng liếc nhìn cánh cửa phòng trong. Một lúc sau cửa mở, Robin giật nảy cả người, cúi xuống giả vờ đang bận rộn trên máy tính.
“Robin, tôi đi ra đây chút.” Hắn nói.
“OK.”
“Nếu năm giờ mà tôi chưa về thì cô cứ khóa cửa.”
“Vâng.”
“Hẹn ngày mai gặp lại.”
Strike vớ lấy áo khoác, cố tình sải chân thật mạnh mẽ nhưng vẫn không che nổi mắt Robin.
Những bãi đào đường lan ra như một vết thương. Mỗi ngày qua lại có thêm mấy đống gạch đá, rồi những tấm chắn tạm bợ để bảo vệ người đi bộ và mở lối qua những chỗ đào xới tan hoang. Strike không nhìn thấy gì cả. Hắn đi như vô hồn trên mấy tấm ván gỗ rung bần bật, thẳng về phía quán Tottenham, nơi giờ đây với hắn đã trở thành chỗ ẩn náu quen thuộc.
Cũng như quán Ordance Arms, quán Tottenham vắng tanh, trừ Strike ra chỉ có một người đàn ông lớn tuổi ngồi ngay sát lối vào. Strike mua một vại Doom Bar và ngồi xuống dãy ghế bọc da màu đỏ dựa vào tường, gần như ngay dưới hình thiếu nữ thời Victoria đang rải hoa, trông vừa ngọt ngào vừa ngớ ngẩn. Hắn uống bia như uống thuốc, không thấy ngon lành gì mà chỉ chờ say.
Jago Ross. Hẳn cô ta đã qua lại với gã lúc vẫn còn sống chung với Strike. Mặc dù Charlotte có sức quyễn rũ mê hoặc đàn ông đáng kinh ngạc, cô ta không thể nào đính hôn với gã kia sau vỏn vẹn ba tuần nối lại. Ắt hẳn cô ta đã dan díu trước với Jago, trong khi miệng luôn thề thốt yêu thương Strike.
Như vậy cơn thịnh nộ cô ta giáng xuống hắn một tháng ngay trước khi chia tay, rồi chuyện cô ta từ chối không đưa ra bằng chứng rõ ràng, rồi chuyện liên tục tính nhầm ngày tháng “khó ở” đều có thể được giải thích theo một cách khác. Một kết luận bất ngờ.
Jago Ross trước đó đã từng có vợ. Cả con cái nữa. Charlotte nghe người ta đồn rằng gã này rượu chè be bét. Khi ấy cô ta vừa cười vừa nói với Strike rằng mình thật may mắn không dính phải gã. Cô ta còn thấy tội nghiệp cho vợ của Jago.
Strike mua vại bia thứ hai, rồi thứ ba. Hắn muốn dập tắt ngay sự thôi thúc muốn đi tìm cô ta, để mà gào lên cho thỏa lòng, rồi tộng một cú thật mạnh vào quai hàm của Jago Ross.
Từ lúc ở quán Ordance Arms cho đến bây giờ hắn vẫn chưa ăn gì cả. Lâu lắm rồi Strike mới uống nhiều như vậy. Chưa tới một tiếng đồng hồ ngồi uống tì tì hắn đã say khướt.
Ban đầu khi bóng người gầy gầy xuất hiện trên bàn, hắn chẳng thèm ngước lên, lè nhè rằng là ai thì cũng nhầm người nhầm bàn rồi.
“Không, không nhầm gì cả,” Robin nói dứt khoát. “Anh ngồi đó, tôi đi mua một ly, được không?”
Hắn mơ màng nhìn túi xách của cô đặt ngay trên ghế. Chiếc túi màu xanh nâu hiền lành, trông hơi cũ. Robin vẫn thường treo túi lên móc treo áo khoác trong văn phòng. Hắn mỉm cười thân thiện với cái túi, rồi lại nốc bia.
Ở quầy bar anh chàng phục vụ trẻ tuổi, trông hơi rụt rè nói với Robin: “Tôi nghĩ chắc ảnh uống đủ rồi dó.”
“Đâu phải tại tôi,” cô hơi cáu.
Cô đi tìm Strike, đầu tiên là trong quán Intrepid Fox, cũng là quán gần văn phòng nhất, rồi đến quán Molly Moggs, rồi đến quán Spice of Life, và cả quán Cambridge. Quán Tottenham cũng là nơi cuối cùng cô đến tìm.
“Có chiện gì hở?” Strike lè nhè hỏi khi cô vừa ngồi xuống.
“Không có gì hết,” Robin đáp, nhấp một ngụm từ ly bia nhỏ. “Tôi chỉ muốn xem anh có ổn không thôi.”
“Tôi ổn.” Strike đáp, rồi cố nói rõ ràng. “Tôi ổn mà.”
“Vậy thì tốt.”
“Chỉ là đi uống bia mừng vợ chưa cưới của tôi đính hôn trở lại,” hắn nói, tay nâng vại bia thứ mười một lên. “Đáng ra cô ta đừng bao giờ đá thằng đó thì hơn. Đừng bao giờ...”, hắn nói rõ ràng, lớn giọng, “... đá thằng đó hết. Đá.Ngài.Jago Ross. Một thằng đểu xuất chúng.”
Hắn gần như hét lên mấy từ cuối cùng. Lúc này trong quán khách khứa đã đông hơn nhiều so với khi hắn vừa đến, hầu như ai cũng nghe thấy hắn vừa nói gì. Trước đo nhiều người đã liếc nhìn hắn đầy nghi ngại. Dáng vẻ to con, mắt sùm sụp lầm lì và điệu bộ hung hăng của Strike khiến không ai dám ngồi gần hắn. Khi phải đi vệ sinh, người ta còn cố tình đi vòng để tránh bàn của hắn, cứ như thể cái bàn đó to gấp ba lần trên thực tế.
“Đi dạo không?” Robin gợi ý. “Kiếm gì đó ăn?”
“Cô biết sao không?” Hắn nói, chồm người về phía trước, khuỷu tay vẫn đặt ở trên bàn, sém đánh đổ cả vại bia. “Cô biết sao không, Robin?”
“Sao?” Robin hỏi lại, tay giữ vại bia của hắn. Tự dưng Robin muốn bật cười. Khách trong quán ngoái lại nhìn cả hai.
“Cô là một cô gái rất dễ thương.” Strike nói “Thiệt sự. Cô là người rất tử tế. Tôi biết mà,” hắn vừa nói vừa trịnh trọng gật gù. “Thiệt. Tôi có để ý thấy vậy.”
“Cảm ơn anh,” Robin mỉm cười đáp, cố nhịn cười thành tiếng.
Hắn ngồi thẳng, nhắm mắt lại rồi nói:
“Xin lỗi cô, tôi say quá rồi.”
“Ừ.”
“Lâu rồi không say dữ vậy.”
“Ừ.”
“Chưa ăn gì cả?”
“Vậy kiếm gì ăn nhé?”
“Ừ, được đó,” hắn đáp, mắt vẫn nhắm nghiền. “Cô ta nói với tôi cô ta có bầu.”
“Ờ,” Robin nói, giọng buồn buồn.
“Ừ, nói vậy đó. Rồi lại nói là không giữ được. Nhưng rõ không phải của tôi. Không có lý nào.”
Robin không nói gì. Cô không muốn khi tỉnh táo lại Strike sẽ phải nhớ ra là hắn đã nói những chuyện này với cô. Hắn mở mắt.
“Cô ta bỏ thằng đó để theo tôi, rồi giờ bỏ thằng đó... à không, bỏ tôi để theo thằng đó...”
“Tôi rất tiếc.”
“...bỏ tôi theo thằng đó. Khỏi tiếc gì. Cô đúng là người tử tế.”
Hắn rút điếu thuốc từ trong túi ra, ngậm đầu thuốc.
“Anh không hút thuốc trong này được đâu,” cô nhẹ nhàng nhắc nhở hắn, nhưng anh phục vụ đứng quầy bar dường như chỉ chờ có vậy, ngay lập tức chạy về phía hai người, mặt mày rất căng thẳng.
“Anh phải đi ra ngoài,” Anh ta lớn tiếng nói với Strike.
Strike ngước mắt nhìn anh chàng, mắt lờ đờ, tỏ vẻ ngạc nhiên.
“Được rồi,” Robin nói với anh phục vụ, tay cầm túi xách lên. “Thôi nào Cormoran.”
Hắn đứng dậy, khuỳnh khoàng, nghiêng ngả, cố lách người ra khỏi chỗ chật chội đằng sau chiếc bàn rồi trừng mắt nhìn anh phục vụ. Anh này ngay lập tức lùi lại một bước, Robin cũng chẳng lạ.
“Không cần,” Strike lên tiếng “...phải hét lên như vậy. Không cần phải vậy. Thô lỗ bỏ mẹ đi.”
“Được rồi Cormoran. Đi thôi nào,” Robin nói, đứng lùi lại nhường chỗ cho hắn đi ra.
“Đợi chút, Robin,” Strike nói, đưa cánh tay to đùng lên. “Đợi chút.”
“Trời đất,” Robin khẽ rên lên.
“Anh có biết đấm bốc không?” Strike hỏi anh phục vụ quầy bar, đang đứng run rẩy.
“Đi thôi Cormoran.”
“Tôi là dưn đấm bốc thiệt đó. Hồi còn ở lính luôn, biết không bồ tèo.”
Ở phía quầy bar, có người lẩm bẩm mỉa mai. “Để đó tôi ra thách đấu.”
“Đi thôi Cormoran,” Robin nói. Cô nắm lấy cánh tay hắn, thấy ngạc nhiên và nhẹ cả người khi hắn ngoan ngoãn đi theo. Cô tự dưng nhớ lại hồi nhỏ cầm cương dắt con ngựa giống Clydesdale khổng lồ ở trang trại của ông bác.
Ra ngoài trời Strike đứng dựa vào cửa sổ quán Tottenham, lập cập châm mãi điếu thuốc mà không được, cuối cùng Robin phải giúp hắn một tay.
“Giờ anh phải ăn gì đó,” cô nói với hắn, khi hắn nhắm mắt đứng hút thuốc, người hơi chao đảo, cô sợ hắn sẽ ngã nhào mất. “Phải ăn mới hết say.”
“Tôi không muốn hết say,” Strike lẩm bẩm. Hắn loạng choạng, sém tí nữa là ngã xuống, may mà kịp bước ngang mấy bước liên tục.
“Thôi nào,” cô nói, dắt tay hắn lần theo miếng ván gỗ kê giữa đường, ban đêm máy móc và công nhân sửa đường cũng đã nghỉ ngơi, mọi thứ yên ắng hẳn.
“Robin, cô có biết hồi xưa tôi là dưn đấm bốc thứ thiệt không?”
“Không, tôi không biết chuyện đó,” cô đáp.
Ban đầu Robin định dẫn Strike về lại văn phòng rồi mới đi mua thức ăn cho hắn, nhưng đi giữa đường hắn dừng lại ngay tiệm bánh mì kebab cuối phố Denmark và lừng lững đi vào trước khi cô kịp cản. Sau đó cả hai ngồi ở cái bàn duy nhất của tiệm bánh trên vỉa hè cuối cùng rồi cùng ăn kebab. Strike tiếp tục kể lể về sự nghiệp đấm bốc hồi còn tại ngũ, thỉnh thoảng lại lạc đề khen cô thật là tử tế. Robin cuối cùng cũng thuyết phục được hắn nói nhỏ lại. Nhưng Strike vẫn còn say bí tỉ sau khi uống quá nhiều, nên chỗ thức ăn dường như không có tác dụng gì. Khi hắn đứng dậy đi vệ sinh, Robin chờ khá lâu, đến nỗi cô lo là hắn đã ngất luôn trong đó.
Robin nhìn đồng hồ. Bảy giờ mười phút. Cô gọi cho Matthew nói là ở văn phòng có việc gấp. Matthew chẳng vui vẻ gì.
Strike loạng choạng quay trở lại vỉa hè, đụng đầu vào khung cửa quán bước ra. Hắn đứng dựa vào cửa sổ, loay hoay cố châm thêm điếu thuốc nữa.
“'R'bin này,” hắn nói, nhìn cô chằm chằm, sau một hồi cố bật lửa không thành. “R'bin, cô có biết khoảnh khắc...” hắn nấc một tiếng. “Khoảnh khắc kairos là gì không?”
“Khoảnh khắc kairos?” cô lặp lại lời hắn, thầm mong chuyện hắn sắp nói không có gì đen tối, hay sẽ khiến cô mãi không quên nổi. Lúc đó ngay sau lưng hai người, tay chủ quán kebab cũng đang ghé tai nghe, nhếch mép cười. “Không, tôi không biết. Giờ mình đi về văn phòng lại được không?”
“Cô không biết thiệt hở?” hắn nhìn thẳng vào mắt cô, hỏi tiếp.
“Không.”
“Tiếng Hi Lạp,” hắn giải thích. “Kairos. Khoảnh khắc Kairos. Có nghĩa là...” mặc dù đang say mèm, Strike tiếp tục nói, tự dưng rất mạch lạc “... là khoảnh khắc đích đáng. Khoảnh khắc đặc biệt. Khoảnh khắc tuyệt vời nhất.”
Trời ơi, làm ơn đừng nói tiếp là tôi với anh đang có một cái khoảnh khắc như vậy, Robin nghĩ thầm.
“Cô biết với tụi tôi, Charlotte với tôi đó, khoảnh khắc đó là gì không?” hắn nói, nhìn vào khoảng không trước mắt, điếu thuốc chưa châm vẫn cầm trên tay. “Đó là lúc cô ta đi thẳng vô phòng bệnh... Tôi nằm viện khá lâu, hai năm rồi chưa gặp Charlotte... không hề báo trước gì cả... rồi tôi thấy cô ta xuất hiện ở cửa, mọi người quay hết lại nhìn, rồi Charlotte bước vào phòng bệnh, không nói một tiếng nào,” hắn dừng lại lấy hơi, rồi nấc thêm một tiếng nữa, “rồi cô ta hôn tôi, sau hai năm, rồi tụi tôi quay lại với nhau. Không ai nói gì cả. Thật là đẹp đẽ khốn nạn. Người phụ nữ đẹp nhất mà tôi từng biết. Khoảnh khắc tuyệt vời nhất trong cả cuộc đời... cuộc đời khốn nạn của tôi, chắc vậy đó. Tôi xin lỗi cô R'bin,” hắn nói thêm “nãy giờ tôi nói khốn nạn hoài. Xin lỗi cô.”
Robin vừa thấy buồn cười vừa muốn bật khóc, cô không biết tại sao mình lại thấy buồn đến vậy.
“Để tôi châm thuốc cho anh nhé?”
“Cô thật là tử tế, Robin à, cô biết không?”
Gần đến ngã rẽ vào phố Denmark, Strike bỗng đứng sững lại, vẫn loạng choạng như cây trong bão, và lớn giọng nói với Robin rằng Charlotte không yêu gì Jago Ross, tất cả chỉ là một trò chơi, một trò chơi để làm tổn thương hắn, càng nhiều càng tốt.
Hắn dừng lại ngay trước cánh cửa đen, đưa hai tay lên cản Robin vừa dợm đi theo hắn lên lầu.
“Cô phải đi về nhà thôi, Robin.”
“Để tôi dìu anh lên lầu trước.”
“Không. Không. Tôi ổn mà. Chắc tôi sắp cho chó ăn chè. Tôi xi cà que mà,” Strike nói tiếp, “chắc cô không hiểu đâu hở. Hay cô hiểu thật? Chắc cô biết hết rồi còn gì? Tôi có kể với cô không nhỉ?”
“Tôi không biết anh đang nói gì.”
“Thôi bỏ đi, R'bin. Cô về nhà đi. Tôi sắp phun hết ra đây.”
“Anh sẽ không sao chứ...?”
“Xin lỗi cô, tôi cứ nói khốn nạn, chửi thề hoài. Cô thiệt quá tử tế. R'bin à. Chào cô nha.”
Khi đến phố Charing Cross, Robin quay lại nhìn Strike. Hán vẫn đang bước đi, loạng choạng vụng về đúng kiểu một kẻ say rượu về ngõ Denmark, chắc hắn sẽ tấp vào một con hẻm tối nào đó, nôn ra hết rồi lại lảo đảo đi lên cầu thang, nơi có chiếc giường xếp và chiếc ấm đun nước tạm bợ.
