Tác giả: Robert Galbraith (J.k.rowling)
10
Kể từ khi dọn đồ ra khỏi nhà Charlotte, đây cũng là lần đầu tiên Strike gọi taxi mà không thấy áy náy. Hắn thờ ơ nhìn đồng hồ tính tiền nhảy liên tục. Chiếc taxi chạy về hướng quận Wapping. Suốt đường đi bác tài thao thao chứng minh Gordon Brown làm chính khách mà chẳng ra cái gì. Strike ngồi im lặng hết cả quãng đường.
Đây không phải là nhà xác đầu tiên Strike từng đến và hoàn toàn không phải là tử thi đầu tiên hắn phải xem. Strike đã quá quen mắt với những vết thương súng đạn; những cơ thể bị giày xé, bầm dập, nội tạng lồ lộ ra như ở hàng thịt, máu me đỏ lói. Hắn không còn thấy chợn chạo chút nào. Những tử thi không toàn vẹn nhất, những thân thể lạnh lẽo trắng toát trong ngăn trữ đông với người làm nghề như hắn đều chỉ là những vật phẩm đã được sát trùng, tiêu chuẩn hoá. Chỉ có những xác người vừa chết, chưa qua xử lý theo thể thức mới cứ trở đi trở lại trong những giấc mơ của Strike. Mẹ hắn nằm trong nhà tang lễ, mặc áo đầm dài tay phồng - chiếc áo lúc sinh thời bà thích nhất, hốc hác nhưng trông vẫn trẻ trung, không thấy một vết kim tiêm nào. Trung sĩ Gary Topley nằm trên con đường lầm bụi đẫm máu ở Afghanistan, gương mặt vẫn vẹn nguyên, nhưng phần cơ thể từ lồng ngực trở xuống đã bay mất. Khi Strike nằm giữa đám bụi đường nóng bỏng, hắn cố không nhìn vào gương mặt trống rỗng đó. Hắn sợ không muốn nhìn xuống bên dưới cơ thể mình, sợ phải biết đã mất những gì… nhưng hắn nhanh chóng ngất đi và chỉ biết được câu trả lời khi tỉnh dậy trong bệnh viện dã chiến…
Bức tường gạch trần trụi của phòng chờ ở nhà xác treo bản in của một bức tranh trường phái Ấn Tượng. Strike nhìn chăm chú, cố nhớ ra là đã thấy ở đâu, rồi cuối cùng nhận ra bức tranh treo trên bệ lò sưởi ở nhà Lucy và Gregg.
"Anh Strike?" ông nhân viên nhà xác tóc bạc lên tiếng, ghé mắt qua cánh cửa ngăn cách. Ông ta mặc áo blu trắng, mang găng tay nhựa. "Vào trong này đi.”
Những người coi sóc tử thi dường như lúc nào cũng có vẻ dễ chịu, tử tế. Strike theo ông ta vào căn phòng bên trong rộng rãi và lạnh toát, không hề có cửa sổ. Chạy dọc theo bức tường bên tay phải là hàng loạt những cánh cửa tủ đông bằng thép khá lớn. Sàn nhà lót gạch vuông được láng thoai thoải, đổ xuống một rãnh thoát ở giữa. Ánh đèn trong phòng chói loá. Mỗi tiếng động phát ra đều dội vào những bề mặt cứng và sáng bóng, nghe như cả một nhóm người rầm rập tiến vào phòng.
Một chiếc xe đẩy bằng thép được đặt sẵn trước cánh cửa tủ đông, đứng bên cạnh là hai nhân viên cục điều tra tội phạm, Wardle và Carver. Wardle gật đầu, miệng lầm bầm chào Strike. Carver, bụng phệ mặt rỗ, vai áo đầy gàu, chỉ hầm hừ cho có lệ.
Nhân viên nhà xác kéo nắm cửa dày bằng thép trên tủ đông. Ba đầu thi thể lộ ra, đặt chồng lên nhau, mỗi thi thể được bọc trong một tấm vải trắng đã cũ mèm và mỏng dần đi qua nhiều lần giặt giũ. Nhân viên nhà xác kiểm tra bảng tên đính vào tấm vải phủ lên thi thể ở giữa; không có tên, chỉ nguệch ngoạc ngày tháng hôm qua. Ông ta nhẹ nhàng kéo cả khay trượt dài lẫn tử thi trên đó xuống chiếc xe đẩy gọn ơ. Strike để ý thấy miệng Carver cử động khi ông ta bước lùi lại, nhường chỗ cho ông nhân viên nhà xác kéo chiếc xe đẩy ra xa tủ đông. Sau một tiếng choang và một tiếng rầm, hai tử thi còn lại khuất mất sau cánh cửa tủ.
"Không cần phải đem vô phòng quan sát, tại trong này không có ai khác," ông nhân viên nhà xác nói nhanh. "Ánh sáng ở giữa phòng là rõ nhất," ông ta thêm vào, dừng chiếc xe đẩy ngay trên rãnh thoát, rồi mở tấm khăn phủ.
Trước mắt hắn là Rochelle Onifade, trương phình, đầy nước. Vẻ nghi ngại thường thấy tên gương mặt Rochelle đã biến mất, thay vào đó là một vẻ ngơ ngác trống rỗng. Từ những lời ngắn ngủi của Wardle trên điện thoại Strike đã đoán được sẽ thấy xác của ai. Nhưng vẻ yếu đuối khủng khiếp của người chết vẫn khiến hắn giật mình. Trông Rochelle nhỏ bé hơn nhiều so với lúc ngồi đối diện hắn, vừa ăn khoai tây chiên vừa lấp liếm sự thật.
Strike nói tên cô gái, đánh vần từng chữ để nhân viên nhà xác và Wardle ghi lại chính xác trên bảng tên và sổ sách. Hắn khai luôn địa chỉ duy nhất của Rochelle mà hắn biết: Nhà trọ St Elmo dành cho người vô gia cư, Hammersmith.
"Ai tìm thấy cô ta vậy?”
"Cảnh sát tuần sông vớt được hồi khuya hôm qua," Carver lần đầu tiên lên tiếng. Ông ta nói giọng người phía Nam London, có gì đó rất hằn học. "Xác chết thường mất khoảng ba tuần mới nổi lên, đúng vậy không?" ông ta nói thêm, hướng câu hỏi như một lời bình luận đó về phía nhân viên nhà xác. Ông này khẽ hắng giọng cẩn trọng.
"Trung bình là vậy, nhưng tôi cũng không ngạc nhiên gì nếu thi thể này mới hơn. Có nhiều dấu hiệu…”
"Được rồi, bên pháp y sẽ lo vụ đó," Carver nói, không thèm để ý tới ông kia.
"Không thể là ba tuần được," Strike nói, ông nhân viên nhà xác thoáng mỉm cười, ra vẻ đồng ý.
"Vì sao không?" Carver hoạnh hoẹ.
"Vì cách đây đúng hai tuần một ngày tôi còn mua bánh burger và khoai tây chiên cho cô ta.”
"À," nhân viên nhà xác lên tiếng, gật đầu với Strike từ phía đối diện. "Tôi vừa định nói nếu trước khi chết mà ăn nhiều tinh bột thì sẽ có ảnh hưởng nhất định lên vẻ ngoài của tử thi. Rõ là có dấu hiệu trương phình…”
"Anh đưa danh thiếp cho cô ta lúc đó à?" Wardle hỏi Strike.
"Đúng vậy. Tôi không ngờ vẫn còn đọc được.”
"Danh thiếp để chung với thẻ Oyster đi tàu xe, ở trong ví kẹp bằng ni lông nhét túi sau quần jeans, vì vậy mà không bị nát.”
"Khi vớt lên cô ta mặc gì?”
"Áo khoác lông giả màu hồng. Trông giống con rối Muppet vừa bị lột da. Quần jeans, mang giày thể thao.”
"Cô ta mặc y như vậy khi gặp tôi.”
"Trong trường hợp đó, khám nghiệm mẫu dạ dày của thi thể có thể cho thấy chính xác…" Ông nhân viên nhà xác lại bắt đầu thao thao.
"Anh biết cô ta có gia đình bà con không?" Carver hạch hỏi Strike.
"Có một bà cô ở Kilburn. Tôi không biết tên gì.”
Mắt Rochelle khép hờ, lộ ra khe cầu mắt trắng lạnh, đúng kiểu tử thi chết đuối. Quanh nếp da gần hốc mũi có vết máu trào.
"Hai bàn tay tử thi như thế nào?" Strike hỏi nhân viên nhà xác, vì tấm vải che chỉ vừa kéo xuống ngang ngực Rochelle.
"Tay tiếc gì nữa," Carver nạt nộ rồi lớn giọng với nhân viên nhà xác "Xong việc ở đây rồi, cảm ơn," giọng ông cảnh sát dội khắp phòng. Ông ta quay sang Strike: "Tụi tôi muốn nói chuyện với anh. Xe đậu ngoài kia.”
Strike đang hỗ trợ công việc điều tra của cảnh sát. Hắn còn nhớ nghe được cụm từ đó trên bản tin lúc còn nhỏ xíu. Từ nhỏ Strike đã mê mẩn công việc của cảnh sát. Mẹ hắn luôn cho rằng chính anh trai bà, cậu Ted đã khiến Strike có sở thích kỳ quặc này. Cậu Ted là cựu quân cảnh, với Strike cậu còn là một kho tàng các câu chuyện ly kỳ về những nơi đây đó, các bí mật và những chuyến phiêu lưu. Hỗ trợ công việc điều tra của cảnh sát: lúc năm tuổi Strike hình dung ra một công dân vô tư, cao quý, hi sinh thời gian và công sức để giúp cảnh sát phá án, được trang cấp một chiếc kính lúp và dùi cui để hoạt động bí mật, thật hấp dẫn.
Nhưng thực tế là đây: một căn phòng thẩm vấn nhỏ xíu và một cốc cà phê pha bằng máy Wardle vừa đưa cho. Anh chàng cảnh sát này mặc dù thái độ không có sự hằn học như ứa ra từ mỗi lỗ chân lông như Carver, nhưng cũng chẳng còn thân thiện gì với Strike như trước. Strike ngờ rằng sếp của Wardle không biết hết mấy vụ qua lại trước đó giữa hắn và anh ta.
Trên mặt bàn trầy xước có một cái khay nhỏ màu đen chứa mười bảy xu toàn tiền lẻ, một chiếc chìa khoá Yale và một thẻ đi xe buýt bọc nhựa; danh thiếp của Strike đã phai màu và nhăn nheo nhưng vẫn còn đọc được.
"Túi xách tay của cô ta thì sao?" Strike hỏi Carver đang ngồi đối diện. Wardle đứng dựa vào tủ hồ sơ trong góc phòng. "Cái túi màu xám, trông rẻ tiền, giống như làm bằng nhựa. Không thấy đâu hả?”
"Chắc cô ta vứt ở cái xó xỉnh tạm bợ nào rồi chứ sao," Carver đáp, móc máy. "Không lẽ đi nhảy cầu tự tử mà mang theo xách tay.”
"Tôi không nghĩ cô ta tự tử," Strike đáp.
"Ồ, vậy sao, lại thế nữa?”
"Tôi muốn nhìn bàn tay của tử thi. Nạn nhân rất ghét nhúng mặt xuống nước, cô ta từng nói vậy với tôi. Khi người ta loay hoay chống chọi trong nước, vị trí bàn tay…”
"Hay ho quá hả, chuyên gia có khác," Carver nói tiếp, lớn giọng mỉa mai. "Tôi biết chú là ai rồi, Strike à.”
Ông ta ngồi dựa lưng xuống ghế, hai tay đan lại đặt sau đầu, để lộ mấy mảng mồ hôi đã ráo ngay dưới nách áo. Mùi mồ hôi chua loét, nồng nồng như củ hành từ bên kia bàn thoảng qua trước mũi hắn.
"Ảnh là cựu nhân viên SIB," Wardle đứng ở tủ đựng hồ sơ nói chen vào.
"Biết rồi," Carver nạt, nhướng hai hàng chân mày khô cứng, lấm tấm vảy. "Anstis ca nguyên bài về vụ chân cẳng vinh quang gì gì đó, rồi huy chương cứu người. Một bản lý lịch hơi bị đẹp.”
Carver rút hai bàn tay ra từ sau đầu, nghiêng người về phía trước rồi đan các ngón tay trên mặt bàn. Dưới ánh đèn tuýp nước da đỏ như thịt bò muối và bọng mắt thâm quầng của ông ta trông càng tối sầm sì.
"Tôi biết ông già anh là ai, biết hết.”
Strike đưa tay gãi cằm lún phún, chờ đợi.
"Cũng muốn giàu có nổi tiếng như tía chú em chứ gì? Hoá ra là vậy đó hả?"
Carver có cặp mắt màu xanh sáng quắc nhưng đầy những tia máu đỏ ngàu, luôn khiến Strike liên tưởng đến một bản tính bạo lực, nóng nảy (hắn từng biết một tay thiếu tá bên lính nhảy dù cũng có đôi mắt như vậy – tay này về sau bị sa thải vì tội cố ý gây thương tích nghiêm trọng).
"Rochelle không tự tử. Lula Landry cũng không.”
"Không cái con c*c!" Carver hét lên. "Mày đang nói chuyện với hai người đã có công chứng minh rằng Landry nhảy lầu tự tử. Tụi tao căng mắt coi hết từng chi tiết chứng cứ, không sót cái đếch gì. Tao biết mày đang giở trò gì rồi. Mày đang cố bòn tới xương tay Bristow ngu ngốc tội nghiệp. Cười cái đếch gì?”
"Tôi đang nghĩ tới chuyện trông anh sẽ ngớ ngẩn ra sao khi vụ này được đưa lên báo.”
"Đừng hòng lấy báo ra mà dọa tụi tao, đồ khốn.”
Gương mặt bành bạnh, cục mịch của Carver cau lại. Cặp mắt xanh trừng trừng trên nền da mặt đỏ tía.
"Mày gặp rắc rối lớn rồi, biết chưa nhóc. Ông già nổi tiếng, cái chân giả và thành tích chiến tranh gì gì cũng không đỡ nổi đâu. Làm sao tụi tao biết được mày không làm cho con ranh tội nghiệp đó sợ hãi tới mức đâm đầu nhảy xuống sông? Nó có bệnh tâm thần, không phải vậy sao? Biết đâu mày đã lải nhải vào tai nó rằng nó đã làm việc gì sai trái? Mày là người cuối cùng gặp nó. Thực tình, tao không muốn ở vào vị trí của mày lúc này chút nào.”
"Sau khi gặp tôi, Rochelle băng qua đường Grantley, vẫn sống nhăn răng như anh ngồi đây. Anh sẽ tìm ra ít nhất một người đã nhìn thấy cô ta sau khi cô ta gặp tôi. Không ai đã từng nhìn thấy cái áo khoác đó mà quên được.”
Wardle rời tủ đựng hồ sơ, kéo một chiếc ghế nhựa cứng lại rồi ngồi xuống cạnh bàn.
"Nói đi," anh ta đề nghị Strike. "Cho tụi tôi nghe giả thuyết của anh.”
"Cô ta đang tống tiền thủ phạm giết Lula Landry.”
"Dẹp đi!" Carver nạt ngay, còn Wardle thì cười khẩy, hơi bị kịch.
"Ngày hôm trước khi Landry chết," Strike nói, "cô ấy có gặp Rochelle khoảng mười lăm phút tại cái cửa hàng ở Notting Hill. Cô ấy lôi ngay Rochelle vào trong phòng thử đồ, rồi gọi điện nài nỉ ai đó tới gặp mình tại căn hộ lúc khoảng một hai giờ sáng. Một nhân viên cửa hàng đứng ở buồng bên cạnh, chỉ cách một tấm màn tình cờ nghe được cuộc nói chuyện đó. Cô này tên là Mel, tóc đỏ, có xăm mình.
"Đụng tới người nổi tiếng thì khối đứa chỉ chực thêu dệt vớ vẩn," Carver nói.
"Nếu Landry có gọi điện ở đó thật," Wardle lên tiếng, "thì hẳn cô ta gọi cho Duffield hay ông cậu. Danh sách cuộc gọi cho thấy trong chiều hôm đó cô ta chỉ gọi cho mỗi hai người đó thôi.”
"Vậy tại sao cô ta muốn Rochelle ở trong buồng thử đồ khi gọi điện?" Strike hỏi. "Tại sao phải lôi Rochelle vô đó?”
"Đàn bà hay làm vậy," Carver nói. "Đi tè còn đi thành bầy nữa mà.”
"Chịu khó động não chút đi: cô ta dùng điện thoại của Rochelle," Strike tức điên cả người. "Trước đó cô ta đã thử hết thảy mấy người thân quen, xem ai là người bán cô ta cho báo chí. Rochelle là người duy nhất biết ngậm miệng lại. Landry kết luận rằng cô gái này đáng tin cậy nên mua cho cô ta một cái điện thoại, đăng ký thuê bao lấy tên Rochelle nhưng trả tiền hết. Lula Landry từng bị nghe lén điện thoại, không phải vậy sao? Cô ta rất hoang mang về chuyện bị nghe lén rồi bị đưa lên báo, vậy là cô ta mua một con Nokia, lấy tên người khác đăng ký thuê bao để mà có phương tiện liên lạc hoàn toàn kín đáo khi cần.
"Ừ thì như vậy cũng không loại trừ người cô ta gọi là ông cậu, hay Duffield vì biết đâu họ đã tự đặt ra dấu hiệu nào đó bằng cách gọi với những số khác nhau. Hoặc cũng có thể cô ta dùng điện thoại của Rochelle để nói chuyện với một người khác; một người cô ta không muốn lộ ra với báo chí. Tôi có số của Rochelle ở đây. Các anh có thể xem cô ta dùng mạng nào, rồi kiểm tra lại hết những chuyện tôi vừa nói. Điện thoại của Rochelle là một con Nokia màu hồng, gắn đầy hột cườm, nhưng các anh sẽ không tìm ra đâu.”
"Vì nó đang nằm dưới đáy sông Thames," Wardle đáp.
"Tất nhiên không phải," Strike nói. "Tên giết người đã lấy đi rồi. Hắn đã tước từ tay Rochelle trước khi xô cô ta xuống sông.”
"Dẹp phứt mày đi!" Carver nhạo, Wardle lắc đầu nguầy nguậy, mặc dù không tin Strike nhưng rõ ràng vẫn bị cuốn vào.
"Vậy tại sao Landry muốn Rochelle ở đó khi cô ta gọi điện?" Strike lặp lại. "Tại sao không gọi trong xe? Tại sao, mặc dù vô gia cư, nghèo kiết xác, Rochelle vẫn chưa bán Landry cho báo cho ấm thân? Rochelle còn chờ gì nữa, Landry đã chết, còn ai làm gì được nữa?”
"Vì Rochelle là người tử tế?" Wardle gợi ý.
"Đó là một khả năng," Strike đáp. "Khả năng khác là cô ta đã kiếm đủ bằng việc tống tiền chính tên thủ phạm giết Lula.”
"Tống cái con c*c!" Carver gầm gừ.
"Anh nghĩ vậy sao? Cái áo khoác Muppet mà cô ta mặc lúc được vớt lên có giá một ngàn năm trăm bảng đó.”
Im lặng trong mấy giây.
"Chắc của Landry cho," Wardle lên tiếng.
"Nếu vậy Landry đã mua một món chưa hề ra cửa hàng hồi tháng Giêng.”
"Landry là người mẫu, hẳn quen biết nọ kia… mà liên quan quái gì," Carver lớn tiếng, cứ như vừa tự chuốc lấy bực bội.
"Tại sao," Strike nói tiếp, đặt hai cánh tay xuống bàn rồi rướn người về vùng xú khí quanh Carver, "tại sao Lula Landry chỉ ghé qua cửa hàng đó trong vòng có mười lăm phút?”
"Cô ta đang bận gì đó.”
"Vậy thì tại sao phải ghé?”
"Cô ta không muốn để Rochelle phải thất vọng.”
"Cô ta khiến Rochelle đi từ bên kia thành phố tới… Chính cô bạn gái bần cùng, vô gia cư mà cô ta thường cho quá giang về nhà trọ bằng xe có tài xế riêng chứ không phải ai xa lạ. Nhưng lần này Landry lôi Rochelle vào trong buồng thử đồ, rồi mười lăm phút sau bước ra, để Rochelle tự đi về nhà.”
"Thì kiểu tiểu thư hư hỏng quen được o bế mà.”
"Nếu vậy thì việc gì phải tới Vashti? Bởi vì cô ta đang cần làm một việc gì đó. Và nếu không phải vậy thì hẳn cô ta phải lo lắng hay giận dữ sao đó, nên hành động mà không suy nghĩ. Có nhân chứng vẫn còn sống từng nghe được Lula nài nỉ ai đó trên điện thoại đến gặp mình ở căn hộ, khoảng sau một giờ sáng. Còn có một tờ giấy màu xanh Landry cầm trước khi vào Vashti, mà không ai khai là đã nhìn thấy sau đó cả. Cô ta đã làm gì với tờ giấy? Tại sao lại viết ngay trong xe, trước khi gặp Rochelle?”
"Chắc là…" Wardle lên tiếng.
"Cóc phải giấy ghi mấy thứ cần mua," Strike tức tối nói trước khi Wardle kịp gợi ý, đập tay xuống bàn, "và không ai lại đi viết thư tuyệt mệnh trước khi tự tử đến tám tiếng đồng hồ, rồi đi nhảy nhót. Cô ta đang viết di chúc, anh không hiểu sao? Cô ta đem tới Vashti để Rochelle làm chứng…”
"Chứng cái con c*c!" Carver lại cảm thán, nhưng lần này Strike lơ hẳn ông ta, chỉ nói với Wardle.
"…khớp với chuyện cô ta nói với Ciara Porter là sẽ để lại mọi thứ cho ông anh, không phải vậy sao? Cô ta cần có người làm chứng để hợp thức hoá di chúc. Hôm đó Landry liên tục nghĩ đến việc này.”
"Tự dưng đi làm di chúc chi vậy?”
Strike ngập ngừng, rồi ngồi xuống trở lại. Carver liếc đểu hắn một cái.
"Trí tưởng tượng tới đó thôi hả?”
Strike thở dài ngao ngán. Một đêm uống như hũ chìm, rồi vụ vui vẻ quá đà tối hôm qua, rồi suốt nửa ngày trong bụng có mỗi nửa cái bánh mì kẹp phô mai và dưa góp. Hắn thấy mệt lả, trống rỗng.
"Nếu tôi có bằng chứng cụ thể, tôi đã mang đến đây rồi.”
"Anh có biết người gần gũi với nạn nhân tự tử cũng có có tỉ lệ tự tử rất cao hay không? Cái cô Raquelle này còn bị trầm cảm nữa. Hôm đó hẳn cô ta đang rất buồn, nhớ lại cách bạn cũ chết rồi bắt chước làm một cú như vậy. Quay lại với anh, chuyên truy bắt người ta, đẩy người ta…”
"… đến đường cùng" Strike nói. "Lại vậy nữa. Trong hoàn cảnh này thì ăn nói như vậy quá vô duyên. Còn bằng chứng của Tansy Bestigui thì sao?”
"Nữa hả Strike? Tụi tui đã chứng minh là bà ta không thể nghe được gì," Wardle nói. "Đã chứng minh chắc chắn rồi.”
"Không hề," Strike nói. Cuối cùng, hắn bất ngờ nổi nóng thật sự. "Anh rút ra kết luận về vụ án dựa trên một giả thuyết bậy bạ. Nếu anh nghe kỹ lời Tansy Bestigui, nếu anh phân tích rõ ràng và buộc bà ta phải nói ra sự thật, thì hẳn giờ Rochelle Onifade vẫn còn sống.”
Carver nổi trận lôi đình, giữ Strike ở lại thêm một tiếng nữa. Rồi trút giận cú cuối cùng bằng cách lệnh cho Wardle tiễn phức "Ngài Rokeby con" ra khỏi trụ sở, cấm lảng vảng.
Wardle đi theo Strike đến cửa trước, không nói năng gì.
"Tôi cần anh làm một chuyện," Strike nói, dừng ngay trước cửa, bên ngoài bầu trời đang tối sầm lại.
"Đủ rồi, bồ tèo" Wardle nói, cười gượng gạo. "Tôi sẽ phải chịu trận vụ đó," anh ta đưa ngón tay cái chỉ về sau vai, nơi có Carver và cơn thịnh nộ của ông ta, "trong nhiều ngày tới, tất cả chỉ vì anh. Tôi nói đã nói anh rồi, vụ đó là tự tử.”
"Wardle, trừ khi có ai mang tên khốn đó đem nộp cho anh, sẽ có hai người nữa lăm le bị giết.”
"Strike…”
"Nếu tôi mang cho anh bằng chứng rằng hôm đó Tansy Bestigui không ở bên trong căn hộ khi Lula ngã xuống? Rằng bà ta ở một nơi có thể nghe được hết?”
Wardle nhìn lên trần nhà, nhắm mắt trong giây lát.
"Nếu anh có bằng chứng…”
"Tôi chưa có, nhưng sẽ có trong hai ngày tới.”
Hai người đàn ông bước ngang qua mặt họ vừa đi vừa nói chuyện. Wardle lắc đầu, mặt cáu kỉnh, nhưng vẫn chưa bỏ đi.
"Nếu anh muốn nhờ vả gì bên cảnh sát thì gọi Anstis. Anh ta mới là người nợ nần anh."
"Anstis không thể giúp tôi vụ này. Tôi cần anh gọi cho Deeby Macc.”
"Để làm quái gì?”
"Anh nghe tôi nói rồi đó. Deeby Macc sẽ không nói chuyện với tôi. Nhưng anh ta sẽ nói với anh: anh là nhà chức trách, với cả hình như Deeby Macc rất khoái anh.”
"Không lẽ ý anh là Deeby Macc biết Tansy Bestigui ở đâu khi Lula Landry chết?”
"Không, đương nhiên anh ta biết thế quái nào được. Lúc đó anh ta còn đang ở Barrack. Tôi muốn biết anh ta nhận được món quần áo gì gởi từ Kentigern Gardens về khách sạn Claridges. Tức là, Guy Somé tặng anh ta những món gì.”
Strike không thèm phát âm tên của Somé là "ghi" trước mặt Wardle.
"Anh muốn biết… nhưng tại sao?”
"Bởi vì một trong hai người bỏ chạy trên đoạn băng từ camera an ninh mặc một cái áo ấm được gởi cho Deeby.”
Wardle căng mặt trong giây lát, rồi trở lại giận dữ.
"Áo đó ở đâu chẳng có," rồi nói tiếp. "Mấy cái đồ GS đó. Đồ bộ chống thấm, đồ thể thao nọ kia.”
"Nhưng cái áo thun dày liền mũ đó rất đặc biệt, được làm riêng cho Deeby Macc, trên thế giới chỉ có mỗi một cái. Cứ gọi cho Deeby, hỏi Somé gởi cho anh ta những món gì. Tôi chỉ cần vậy thôi. Nếu tôi đúng thật thì anh muốn đứng về phe ai hả Wardle?”
"Đừng có hù tôi, Strike…”
"Tôi không hù hiếc gì hết. Tôi đang nghĩ đến một tên giết người hàng loạt vẫn còn đang lởn vởn tính vụ tiếp theo… nhưng nếu anh còn lo chuyện báo chí, tôi nói thật, bọn chúng sẽ không nhẹ tay với bất cứ người nào còn khăng khăng giữ giả thuyết tự tử sau khi một nạn nhân mới xuất hiện. Gọi Deeby Macc đi Wardle, trước khi một người nữa bị giết chết.”
11
"Không được" Strike nói dứt khoát trên điện thoại tối hôm đó. "Càng lúc càng nguy hiểm. Đi theo dõi không phải là việc của thư ký.”
"Đi tới khách sạn Malmaison ở Oxford hay tới trường SOAS cũng có phải đâu." Robin chỉ ra, "nhưng anh vẫn để tôi làm cả hai việc đó.”
"Nhưng khi đó cô không theo dõi ai cả, Robin à. Tôi nghĩ Matthew cũng sẽ không vui nếu biết được.”
Thật buồn cười, Robin nghĩ thầm. Cô mặc áo choàng tắm ngồi trên giường, điện thoại áp sát tai. Strike nhớ tên vị hôn phu của cô, mặc dù chưa một lần gặp mặt. Robin thấy đàn ông thường không thèm nhớ những thông tin như vậy. Matthew thường xuyên quên tên người khác, thậm chí tên cháu gái mới sinh cũng không nhớ nổi; nhưng cô đoán là Strike đã được đào tạo để biết cách nhớ chi tiết như vậy.
"Tôi không cần xin phép Matthew," Robin nói. "Mà cũng sẽ không có gì nguy hiểm cả, anh không nghĩ là Ursula May đã giết ai đó chứ…”
(Robin lí nhí thêm mấy từ "phải vậy không?" cuối câu)
"Không, nhưng tôi không muốn có người nghĩ tôi đang chú ý tới bà ta. Vì như vậy có thể đánh động thủ phạm, tôi không muốn có ai bị xô chết nữa.”
Robin nghe tim mình đập thình thịch sau lớp vải áo choàng mỏng. Cô biết Strike sẽ không nói ra hắn đang nghĩ ai là thủ phạm. Thậm chí cô còn thấy hơi sợ phải nghe chuyện đó, mặc dù trong đầu không thể nghĩ đến chuyện gì khác lúc này.
Chính cô chủ động gọi cho Strike. Đã mấy tiếng đồng hồ trôi qua từ lúc hắn nhắn tin cho cô, báo là phải đi đến Trụ sở Cảnh sát London và nhờ cô khoá cửa văn phòng khi ra về. Robin đã rất lo lắng.
"Thì gọi cho anh ta đi, không thì trằn trọc mãi," Matthew nói vậy, không bực hẳn mà cũng không nói thẳng rằng mặc dù chưa biết mọi chi tiết, anh ta vẫn đồng ý với bên cảnh sát.
"Nghe này, tôi muốn nhờ cô làm một việc." Strike nói. "Gọi cho John Bristow ngay khi cô đến văn phòng sáng mai và báo với ông ta vụ Rochelle.”
"Được rồi," Robin đáp, mắt nhìn vào con voi nhồi bông to tướng mà Matthew tặng cô dịp Valentine đầu tiên, cách đây tám năm. Người tặng quà hiện đang ngồi xem bản tin Newsnight trong phòng khách. "Mai anh sẽ làm gì?”
"Tôi sẽ đến trường quay Pinewood để có vài lời với Freddie Bestigui.”
"Anh làm sao vào đó được?" Robin nói. "Họ sẽ không để anh tới gần ổng.”
"Được hết." Strike đáp.
Sau khi Robin dập máy, Strike ngồi im một lúc lâu trong văn phòng tối om. Vụ bữa ăn McDonald vẫn chưa tiêu hoá hết trong thi thể trương phình của Rochelle không hề làm Strike lợm giọng. Hắn vẫn ăn hết được cả hai cái Big Mac, một hộp khoai tây chiên lớn và một hộp kem McFlurry trên đường về văn phòng từ Trụ sở Cảnh sát London. Bụng hắn sôi ùng ục, hoà với tiếng bass thình thịch từ quán Bar Café số 12 dưới nhà mà giờ đây Strike hầu như không còn để ý nữa, cứ như đã trở thành mạch đập của hắn.
Căn hộ điệu đà, bừa bộn của Ciara, khuôn miệng mở rộng, rên rỉ, đôi chân dài trắng muốt quấn quanh lưng hắn, tất cả như đã lâu lắm rồi. Giờ đây hắn mãi nghĩ về chỗ trú thân tạm bợ, và Rochelle Onifade xấu số. Hắn nhớ lại cách cô ta nói ào ào trên điện thoại, chưa đầy năm phút sau khi rời quán Mc Donald, mặc y bộ đồ như khi được vớt từ dưới sông lên.
Hắn biết chắc chuyện gì đã xảy ra. Rochelle đã gọi điện cho thủ phạm để kể chuyện cô ta mới ăn trưa với một tay thám tử tư. Sau đó hai người hẹn gặp nhau. Tối hôm đó, sau một bữa ăn hay vài cốc bia, cả hai đi thơ thẩn trong bóng đêm, về phía bờ sông. Hắn nghĩ về cây cầu Hammersmith, cây cầu hai màu, xanh lá xô thơm và ánh vàng, gần nơi Rochelle vừa khoe là đã mua nhà, rồi nghĩ về dòng nước sông Thames chảy xiết dưới cầu. Cô ta không biết bơi. Trời tối: một cặp trai gái đang đùa giỡn gần đó, một chiếc xe chạy vụt qua, một tiếng hét rồi tiếng nước bắn lên. Liệu đã có ai nhìn thấy Rochelle?
Không ai cả, nếu thủ phạm có một thần kinh thép và liên tục gặp may. Yếu tố thứ nhất từng được thể hiện rõ ràng ở nạn nhân đầu tiên. Đúng là thủ phạm luôn ra tay táo tợn, cứ như biết mình sẽ luôn gặp may. Luật sư bên bị chắc chắn sẽ viện dẫn tâm lý bất ổn, vì kẻ thủ ác trong trường hợp này hành động quá liều lĩnh, khinh suất một cách khác thường và có lẽ, Strike nghĩ thầm, ở đây còn có cả vấn đề bệnh lý nữa, một chứng điên loạn nào đó. Nhưng lúc này hắn không quan tâm tới khoa tâm lý học. Cũng như John Bristow, hắn muốn đi tìm công lý.
Trong bóng tối, Strike suy nghĩ lan man. Dòng suy nghĩ ngược thời gian, đột ngột đọng lại ngay cái chết của người gần gũi nhất với Strike, dù chẳng liên quan gì. Cái chết mà Lucy luôn đinh ninh (một cách sai lầm) rằng đã ám ảnh mọi cuộc điều tra của hắn, ảnh hưởng đến mọi vụ án mà hắn tham gia. Cái chết đó đã chia cắt cuộc đời của hắn và Lucy thành hai chương rõ rệt, trước đó và sau đó. Lucy cứ nghĩ rằng hắn bỏ hết, quyết vào Quân cảnh Hoàng gia chỉ vì cái chết của bà Leda; vì hắn bất mãn sau khi không chứng minh được tội lỗi của ông cha dượng. Cô ta cho rằng mỗi xác chết mà hắn gặp trong khi làm việc hẳn đã làm Strike nhớ lại người mẹ, còn mỗi tên sát nhân hắn gặp hẳn nhắc Strike về ông chồng hờ của bà ta. Lucy tin rằng hắn lao vào điều tra những cái chết khác để bù đắp chuyện không thể đưa thủ phạm giết mẹ hắn ra ánh sáng.
Nhưng thực ra Strike đã chọn nghề này từ rất lâu, trước khi bà Leda tiêm mũi ma túy cuối cùng; trước cả khi hắn hiểu rằng mẹ hắn (và tất cả những người khác) đều sẽ phải chết, và những vụ án giết người không đơn giản chỉ là những câu đố chưa có lời giải. Lucy mới chính là người không thể quên chuyện cũ. Em gái hắn vẫn sống giữa mớ ký ức như đám ruồi nhặng bâu quanh xác chết. Lucy mới là người nhìn mọi cái chết bất thường với những xúc cảm mâu thuẫn từ sự ra đi đột ngột của mẹ hắn.
Tuy vậy, tối nay Strike lại làm cái việc mà hẳn Lucy nghĩ hắn luôn làm: hắn nhớ lại bà Leda và liên hệ với vụ án trước mặt. Leda Strike, fan nữ cuồng. Người ta luôn chú thích như vậy trong tấm ảnh nổi tiếng nhất của mẹ hắn, cũng là tấm ảnh duy nhất có cả cha lẫn mẹ của Strike. Ảnh trắng đen chụp mẹ hắn, với gương mặt trái tim, mái tóc sẫm màu mượt mà, đôi mắt mở to chăm chú. Đứng giữa mẹ hắn và Jonny Rokeby là một tay buôn nghệ thuật, một tay dân chơi quý tộc (về sau một người đã tự tử còn người kia chết vì AIDS) và người mẫu Carla Astofi, vợ thứ hai của Rokeby. Ngôi sao nhạc rock trông ái nam ái nữ, hoang dại, tóc dài gần bằng tóc của Leda. Ai cũng cầm ly martini và thuốc lá, khói thuốc vờn ra từ khoé miệng cô người mẫu nhưng mẹ hắn mới là người trông duyên dáng nhất.
Trừ Strike ra, tất cả đều cho rằng cái chết của Leda là hậu quả đáng tiếc nhưng không có gì bất ngờ của một lối sống phóng túng, vượt ra ngoài khuôn khổ xã hội. Đến cả những người thân quen lâu năm nhất của Leda cũng chấp nhận rằng chính bà ta tự chuốc ma tuý quá liều vào người. Tất cả đều đồng ý rằng Leda đã bước đến những ranh giới tội lỗi của cuộc sống; và chẳng có gì ngạc nhiên khi một ngày nào đó bước thêm một bước nữa, rơi xuống vực thẳm chết chóc, bất động và lạnh lẽo trên chiếc giường dơ dáy.
Không ai biết tại sao Leda làm việc đó, ngay cả cậu Ted cũng không (cậu chỉ đứng dựa vào chậu rửa bát trong bếp, lặng im đau đớn) hay mợ Joan ( mắt đỏ ngàu nhưng giận dữ, ngồi ở bàn ăn, choàng tay ôm Lucy lúc đó mới mười chín tuổi đang dựa đầu vào vai mợ nức nở). Chuyện chơi ma tuý quá liều hoàn toàn ăn khớp với lối sống của Leda lúc đó: ở nhà hoang tạm bợ, cặp kè với đám nhạc sĩ, tiệc tùng hư hỏng, rồi cuộc sống nghèo khó với ông chồng hờ cuối cùng. Chung quanh Leda lúc nào cũng có sẵn ma tuý, bà luôn muốn phê, muốn có những cảm xúc dữ dội. Chỉ có mỗi Strike tự hỏi mẹ hắn đã chuyển sang chích heroin từ khi nào. Chỉ mình Strike thấy lạ vì mẹ hắn vốn chỉ thích cần sa, mà lại đột ngột chết vì heroin. Một mình hắn có những câu hỏi bỏ ngỏ và nhận ra những tình tiết đáng nghi ngờ. Nhưng lúc đó hắn chỉ là cậu sinh viên hai mươi tuổi, chẳng ai thèm nghe hắn nói.
Sau phán quyết của tòa, Strike thu dọn hành lý và để lại sau lưng tất cả: vụ ồn ào ngắn ngủi trên báo chí, nỗi thất vọng của mợ Joan trước chuyện hắn bỏ học ở Oxford, Charlotte đau khổ giận dữ vì phải xa hắn nhưng cũng đã kịp ngủ với người khác, những màn khóc lóc gào thét của Lucy. Với sự ủng hộ duy nhất từ cậu Ted, Strike mất hút vào quân đội, tìm lại được cuộc sống mà Leda từng dạy cho hắn: một cuộc sống rày đây mai đó, sự tự lập và sức hấp dẫn vô tận của những thứ mới mẻ.
Tối nay, Strike cảm thấy bà Leda không khác gì một người chị tinh thần của hai cô gái đó. Một người xinh đẹp, yếu đuối và trầm cảm, cuối cùng tan xương nát thịt trên mặt đường giá băng. Một người xấu xí thô kệch vô gia cư, cuối cùng nằm trong nhà xác lạnh lẽo. Leda, Lula và Rochelle khác xa với Lucy hay mợ Joan. Cả ba đều không dè dặt trước bạo lực hay rủi ro. Họ không trói buộc mình vào cuộc đời bằng những thứ như nợ mua nhà trả góp, những công việc thiện nguyện, những ông chồng tốt bụng và những đứa con mặt mũi sạch sẽ. Vì vậy cái chết của họ không được xem là "bi thảm", như cái chết của các bà nội trợ đoan trang đáng kính.
Thật quá dễ dàng để phán xét một con người, để nói rằng chính họ tạo ra bi kịch của mình. Quá dễ dàng để khiến họ đi đến bước đường cùng, rồi bàng quan nhún vai đồng ý rằng đó chỉ là kết cục hoàn toàn biết trước của một lối sống suy đồi, hỗn loạn.
Gần như mọi chứng cứ vật chất trong vụ án của Lula đều đã bị xoá sạch từ lâu. Vết chân kẻ thủ ác đã bị dẫm đạp lên, hay bị tuyết rơi dày che phủ. Mẩu chứng cứ thuyết phục nhất mà Strike có được chỉ là đoạn phim trắng đen mờ mịt quay hình hai người đàn ông chạy khỏi hiện trường, mà cảnh sát chỉ xem cho có lệ rồi vứt qua một bên. Cảnh sát không tin có người đột nhập vào toà nhà, hoàn toàn bị thuyết phục rằng là Landry đã tự tử và cho rằng hai người trong đoạn phim chỉ là hai tên trộm đang lảng vảng chờ thời.
Strike bừng tỉnh, nhìn xuống đồng hồ. Mười giờ rưỡi nhưng hắn chắc người hắn đang muốn gọi điện vẫn còn thức. Hắn bật công tắc đèn để bàn, lấy điện thoại di động ra và bấm một số ở Đức.
"Oggy," một giọng lành lạnh ở bên kia đầu dây rống lên. "Sao rồi mậy?”
"Nhờ chút được không bồ tèo,”
Rồi Strike nhờ Trung uý Graham Hardacre cung cấp mọi thông tin có được về một người có họ Agyeman mà hắn còn không biết tên và cấp bậc, thuộc biên chế Kỹ sư Quân đội Hoàng Gia. Hắn đặc biệt quan tâm đến ngày tháng của những chuyến làm nhiệm vụ ở Afghanistan.
12
Đây là chiếc xe thứ hai Strike từng lái sau khi mất đi chân phải. Hắn từng cố lái chiếc Lexus của Charlotte, nhưng hôm nay, để tỏ ra thật mạnh mẽ lạnh lùng, hắn đã thuê một chiếc Honda Civic số tự động.
Từ văn phòng đến Iver Heath mất gần một tiếng đồng hồ. Strike vào được trường quay sau khi giở mọi ngón: nói thật nhanh, doạ dẫm và xẹt ra mấy thứ giấy tờ tuỳ thân không hề giả mạo nhưng đã hết hạn. Tay bảo vệ, ban đầu vô cùng nghiêm túc, đã bị thuyết phục hoàn toàn trước thái độ thản nhiên như không của Strike, cùng với cụm từ "Cục điều tra đặc biệt" và tấm thẻ có hình hắn.
"Anh có hẹn trước không?" Ông ta hỏi Strike, đứng cao hơn hắn ba tấc trong cabin ngay cạnh barrier điện, bàn tay ông ta chụp lên ống nghe điện thoại.
"Không.”
"Chuyện gì vậy?”
"Chuyện ông Evan Duffield," Strike đáp. Hắn thấy tay bảo vệ sưng sỉa mặt mày và lầm bầm gì đó vào điện thoại.
Khoảng một phút sau, Strike được chỉ đường và mở barrier cho vào. Hắn chạy xe dọc theo một con đường uốn thoai thoải quanh toà nhà trường quay, vừa đi vừa nghĩ mấy vụ tai tiếng của Duffield coi vậy mà cũng có thể dùng vào việc có ích.
Một chiếc Mercedes đậu ở khoảng riêng tại bãi, chỗ có gắn bảng tên ghi chữ GIÁM ĐỐC SẢN XUẤT FREDDIE BESTIGUI. Strike đậu xe ngay sau đó vài hàng, rồi lừng lững đi ra khỏi xe. Tay tài xế của Bestigui nhìn theo hắn qua kính chiếu hậu. Hắn đi qua một lớp cửa kính, đến một cầu thang trông tầm thường như ở những toà nhà công cộng. Một thanh niên đang chạy xuống cầu thang, anh này giông giống Khỉ Con, nhưng sạch sẽ gọn gàng hơn một chút.
"Ông Freddie Bestigui ở đâu?" Strike hỏi anh ta.
""Tầng hai, văn phòng thứ nhất bên tay phải.”
Bestigui xấu xí y như trong những tấm hình hắn từng xem, cần cổ trùng trục, mặt dày rỗ. Ông ta ngồi ở bàn đặt trong góc phòng, phía sau tấm kính ngăn với văn phòng ngoài, đang nhăn nhó nhìn vào màn hình máy tính. Văn phòng ở bên ngoài đông đúc và chật chội. Nhiều phụ nữ trẻ đẹp đang làm việc tại bàn. Poster quảng cáo film dán đầy lên mấy cây cột. Trên vách đầy hình chụp thú cưng với thời gian biểu quay phim. Một cô gái xinh đẹp ngồi ngay gần cửa, mang một bộ tai nghe và micro trực điện thoại. Cô ngẩng lên nhìn hắn, hỏi:
"Chào anh, tôi giúp gì được cho anh?”
"Tôi tới đây để gặp ông Bestigui. Cô khỏi lo, tôi tự đi vô được.”
Hắn đi vào trong phòng của Bestigui, trước khi cô ta kịp nói gì.
Bestigui ngước lên nhìn, hai mắt ti hí giữa những nếp thịt chảy xệ, da ngăm ngăm lốm đốm nốt ruồi.
"Anh là ai?”
Ông ta đã chống tay đứng lên, bàn tay chuối mắn giữ chặt mép bàn.
"Tôi là Cormoran Strike, thám tử tư. Tôi được...”
"Elena!" Bestigui đánh đổ cốc cà phê ra bàn, cà phê chảy tràn trên mặt gỗ bóng, ướt hết mớ giấy tờ. "Cút mẹ đi! Cút ra! CÚT”
"… anh trai của Lula Landry, John Bristow thuê để…”
"ELENA!”
Cô gái xinh đẹp mảnh khảnh vẫn đeo tai nghe chạy ngay vào, đứng run rẩy cạnh Strike. Trông cô ta hết cả hồn vía.
"Gọi cho bảo vệ đi, con ranh ngủ gục kia!”
Cô ta chạy ngay ra ngoài. Bestigui cao chừng một mét rưỡi là cùng. Lúc này ông ta đã đứng hẳn dậy, đi ra trước bàn. Ông nhìn Strike như một con chó Pitbull vừa phát hiện thấy lãnh địa mới bị một con chó Rottweiler xâm chiếm. Elena để cửa mở, nhân viên ở văn phòng bên ngoài lố nhố nhìn vào, vừa sợ hãi vừa tò mò không rời mắt được.
"Tôi đã cố bắt liên lạc với ông trong mấy tuần rồi, thưa ông Bestigui…”
"Mày gặp rắc rối to rồi con à," Bestigui nói, tiến lại gần hắn, miệng gầm gừ, cặp vai bệ vệ khom lại.
"… để nói chuyện hôm cô Lula Landry chết.”
Qua cửa kính, hắn thấy hai người đàn ông lực lưỡng, mặt mày căng thẳng, mặc áo sơ mi trắng, cầm theo bộ đàm đang chạy đến từ phía bên phải.
"Đem nó ra khỏi đây!" Bestigui gầm lên, chỉ tay về phía Strike. Hai người bảo vệ va vào nhau ở cửa rồi chen vào hết trong phòng.
"Cụ thể là," Strike nói tiếp, "về vị trí của vợ ông, bà Tansy, khi Lula ngã xuống…”
"Tống nó ra ngoài và gọi cảnh sát ngay! Làm quái nào mà nó vào đây được?”
“…bởi vì có người cho tôi xem mấy tấm hình chứng tỏ lời khai của bà nhà. Bỏ ra," Strike quay sang nói với tay bảo vệ trẻ hơn, tay này vừa níu cánh tay hắn lại, "nếu không tôi sẽ vứt anh qua cửa sổ.”
Tay bảo vệ không buông ra nhưng nhìn Bestigui, chờ lệnh.
Cặp mắt màu xanh đậm của Bestigui quắc lên, nhìn chằm chằm vào Strike. Ông ta nắm chặt bàn tay lại rồi thả ra. Một lúc lâu sau ông ta lên tiếng.
"Nói năng nhảm như cứt.”
Nhưng ông ta không ra lệnh cho hai người bảo vệ kéo Strike ra khỏi phòng.
"Người chụp hình đứng trên vỉa hè đối diện nhà ông lúc sáng sớm ngày Tám tháng Giêng. Anh ta không biết được bức hình đó có giá trị như thế nào. Nếu ông không muốn nói chuyện với tôi, cũng được thôi. Cảnh sát và báo chí sẽ vào cuộc. Đằng nào thì cũng vậy cả.”
Strike bước ra phía cửa. Hai người bảo vệ vẫn còn túm lấy cánh tay hắn bị bất ngờ, trong giây lát trông như đổi ý quyết giữ hắn lại.
"Cút ra," Bestigui đột ngột nói với đám thuộc hạ. "Khi cần tao sẽ gọi. Đóng cửa lại.”
Hai người đi ra. Khi cánh cửa đã đóng, Bestigui nói:
"Được rồi. Đồ khốn. Cho mày năm phút.”
Strike ngồi xuống chiếc ghế bọc da màu đen đối diện với bàn của Bestigui, mặc dù chưa được mời mọc gì. Nhà sản xuất phim trở lại chỗ ngồi cũ, vẫn nhìn Strike bằng cặp mắt lạnh lùng, cứng rắn, khác hẳn với cái nhìn của bà vợ ông ta. Bestigui có cặp mắt tính toán thận trọng của một tay cờ bạc chuyên nghiệp. Ông ta với tay lấy gói cigar cỡ nhỏ, kéo cái gạt tàn thuỷ tinh màu đen tới trước mặt và rút hộp quẹt vàng ra châm thuốc.
"Được rồi, vậy mấy cái hình giả định đó có gì," ông ta nói, nheo mắt nhìn qua lớp khói thuốc hăng hắc, đúng kiểu ông trùm điện ảnh.
"Chụp lại bóng đổ," Strike nói, "của một người đàn bà đang cúi người trên ban công, ngay bên ngoài cửa sổ phòng khách nhà ông. Trong hình bà ta dường như không mặc gì, nhưng cả tôi và ông đều biết, là có mặc đồ lót.”
Bestigui phả mạnh một hơi thuốc trong vài giây, rồi rút điếu cigar ra và nói:
"Vớ vẩn. Từ bên kia đường không thể thấy được. Nền ban công bằng đá nguyên khối, từ góc đó không thấy được gì cả. Hơi bị liều đó.”
"Trong phòng khách của ông lúc đó có bật đèn. Có thể thấy được bóng bà Tansy qua khe hở trên ban công. Có đủ chỗ cho bà ta ở đó, đương nhiên rồi, vì lúc đó làm gì có chậu cây cảnh, phải vậy không? Người ta thường bứt rứt không yên, phải làm méo mó hiện trường cho bằng được, mặc dù đã yên ổn." Strike nói thêm, thản nhiên như không. "Ông cố làm như trên ban công không có đủ chỗ cho ai đứng cả, đúng không? Nhưng ông không thể quay ngược thời gian để dùng Photoshop chỉnh sửa sự thật. Thực tế là Tansy lúc đó hoàn toàn có thể nghe được tất cả những gì xảy ra trên ban công tầng ba, ngay trước khi Lula Landry chết.
"Tôi cho là như thế này," Strike nói tiếp, trong khi Bestigui tiếp tục nheo mắt nhìn hắn qua làn khói từ điếu cigar. "Ông và bà nhà hẳn đã cãi nhau khi bà ta đang cởi áo ngoài chuẩn bị đi ngủ. Có lẽ vì ông tìm thấy vài tép trong nhà tắm, hay bắt quả tang bà đang phê. Vậy là ông quyết định phạt Tansy bằng cách tống cổ ra ngoài ban công, giữa cái lạnh dưới không độ.”
"Người ta chắc sẽ đặt câu tại sao một con phố đầy ắp paparazzi mà không ai nhìn thấy một người đàn bà gần như trần truồng vừa bị đuổi ra ngoài ban công ngay trên đầu họ. Nhưng đêm đó tuyết rơi rất dày. Còn đám thợ săn ảnh vừa phải liên tục dậm chân xuống đất để giữ ấm vừa phải tập trung nhìn về cuối đường vì Lula và Deeby có thể xuất hiện bất kỳ lúc nào. Tansy cũng không hề la hét đúng không? Bà ta cúi người xuống, nấp kín, không muốn lộ mặt ra trước báo giới, khi trên người chỉ có mỗi bộ đồ lót. Có thể ông đã tống cổ bà ta ra đó ngay lúc xe của Lula vừa về đến nơi. Không ai lại đi nhìn lên cửa sổ nhà ông khi Lula Landry vừa xuất hiện, mặc áo đầm mỏng manh.”
"Toàn nhảm nhí vớ vẩn," Bestigui nói. "Anh cóc có tấm hình nào cả.”
"Tôi chưa bao giờ nói là tôi có mấy tấm hình đó. Tôi chỉ nói là có người đã cho tôi xem.”
Bestigui rút điếu cigar ra khỏi miệng, rồi đổi ý không muốn nói nữa, ngậm lên trở lại. Strike đợi một lúc khá lâu nhưng khi đã rõ là Bestigui không nói năng gì, hắn tiếp:
“Tansy hẳn đã đập lên cửa ngay sau khi thấy Landry rớt xuống. Ông không ngờ bà ta lại đập cửa la lối đúng không? Sợ phải phơi bày bản tính vũ phu trước bàn dân thiên hạ, ông mở cửa ngay. Tansy vừa la hét vừa chạy vào, ngang qua mặt ông, chạy thẳng xuống nhà dưới để báo với Derrick Wilson.
"Lúc đó ông mới nhìn xuống lan can và thấy Lula Landry nằm chết trên mặt đường.”
Bestigui phả khói thuốc chậm rãi, mắt vẫn không rời khỏi gương mặt Strike.
"Bồi thẩm đoàn hẳn sẽ thấy chuyện ông làm ngay sau đó vô cùng mờ ám. Ông không gọi 999. Ông không chạy theo bà vợ bị lạnh cóng, còn đang hoảng loạn. Ông thậm chí còn không chạy vào toilet để phi tang hết chỗ ma túy vẫn còn vương vãi trong đó, dù nếu ông làm chuyện này thực thì bồi thẩm đoàn thấy còn có vẻ hợp lý.
"Không, ngay sau đó, trước khi chạy theo bà vợ hay gọi cảnh sát, ông lại đi lau cửa sổ thật sạch. Nên trên cửa sổ không hề có dấu tay của Tansy vịn vào từ bên ngoài, đúng vậy không? Ưu tiên hàng đầu lúc đó của ông là xóa sạch dấu vết vụ tống bà vợ ra ngoài ban công, trong khi bên ngoài âm mười độ. Ông đã sẵn tai tiếng bạo lực hiếp đáp, cộng thêm vụ lùm xùm với cô nhân viên cũ vẫn còn lơ lửng, dại gì mà cúng thêm bằng chứng cho báo chí hay công tố viên?
"Sau khi đã yên tâm rằng mọi dấu vân tay trên cửa kính đều bị xoá sạch, ông chạy xuống nhà dưới rồi bắt bà Tansy quay trở về căn hộ. Trong thời gian ngắn ngủi đợi cảnh sát đến, ông khống chế Tansy, buộc bà ta không được khai ra đã ở đâu khi Lula rơi xuống. Tôi không biết ông hứa hẹn hay hù doạ gì bà ta, nhưng rõ là có tác dụng.
"Nhưng ông vẫn chưa thấy yên tâm, vì lúc đó Tansy quá sốc và hoảng loạn, ông e là bà ta sẽ buột miệng nói ra hết. Vậy là ông cố đánh lạc hướng cảnh sát bằng cách lu loa về cái bình hoa bị bể, để Tansy có thời gian bình tĩnh lại và làm đúng theo lời ông.
"Mà đúng là bà ta giữ lời thật còn gì nữa? Có Chúa mới biết vụ này tốn của ông bao nhiêu, nhưng mặc cho báo chí bủa vây, mặc cho người ta gọi mình là một kẻ hoang tưởng thối trí vì cocaine, bà ta trước sau vẫn khăng khăng rằng đã nghe thấy tiếng Landry và kẻ sát nhân cãi vã, mặc dù ở cách hai tầng lầu và có cả kính cách âm.
"Nhưng nếu biết được đã có tấm ảnh này," Strike tiếp, "tôi nghĩ bà ta sẽ nhẹ nhõm mà khai hết. Bà vợ ông nghĩ mình mê tiền hơn tất cả những thứ khác trên đời nhưng cũng bị cắn rứt lương tâm lắm. Tôi tin chắc là chẳng bao lâu nữa bà ta sẽ khai hết thôi.”
Bestigui đã hút điếu cigar đến mẩu chót. Ông ta chậm rãi dụi đầu thuốc vào chiếc gạt tàn thủy tinh màu đen. Những giây tiếp theo dài dằng dặc, âm thanh ở văn phòng bên ngoài vọng vào qua cửa kính, tiếng người nói lao xao, rồi tiếng điện thoại đổ chuông.
Bestigui đứng dậy, kéo tấm rèm vải bạt xuống, che hết bức tường kính ngăn cách với bên ngoài, khuất mắt đám con gái tò mò hồi hộp. Ông ta ngồi xuống, ngón tay chuối mắn chậm rãi sờ soạng lên chiếc cằm sần sùi, nhìn Strike rồi nhìn ra ngoài, dán mắt vào tấm bạt màu kem trống trơn vừa được kéo xuống. Strike dường như thấy rõ ông ta đang cân nhắc từng lựa chọn, như đang lựa các lá bài, tính kế chơi tiếp.
“Màn cửa đã được kéo lại,” cuối cùng Bestigui lên tiếng. “Không có đủ ánh sáng chiếu ra để nhìn thấy một người đàn bà đang trốn trên ban công. Tansy sẽ giữ nguyên lời khai.”
“Chưa chắc,” Strike nói, duỗi chân ra; chiếc chân giả vẫn còn khó chịu. “Nếu tôi nói với bà ấy, đúng như ngôn ngữ của tòa, rằng việc hai người đã làm là ‘cản trở quá trình điều tra’. Nếu thành khẩn khai báo thì Tansy sẽ tránh được tù tội; cộng thêm sự thương hại chắc chắn của công chúng dành cho một nạn nhân bạo hành gia đình, rồi cả những lời mời mọc phỏng vấn độc quyền. Khi Tansy nhận ra rằng bà ta có quyền nói trước tòa, lần này người ta sẽ tin lời bà ấy, rồi có thể giúp lôi kẻ thủ ác ra ánh sáng, thì ông Bestigui à, tôi không nghĩ lúc đó ông có đủ tiền để Tansy ngậm miệng nữa đâu.”
Mép da sần sùi quanh miệng Bestigui giật khẽ. Ông ta cầm gói cigar lên nhưng không rút thêm điếu nào nữa. Một lâu sau đó ông ta chỉ im lặng, vờn gói thuốc qua mấy ngón tay.
Cuối cùng ông ta nói:
“Tôi không khai khiếc gì hết. Cút ra.”
Strike đứng im.
“Tôi biết ông rất muốn gọi cho luật sư,” hắn nói, “nhưng tôi nghĩ ông đã bỏ sót một cơ hội ở đây.”
“Đủ rồi. Tôi nói rồi, cút ra.”
“Có khó khăn đến đâu nữa thì thừa nhận sự thật đêm hôm đó vẫn còn hơn là trở thành nghi can số một trong một vụ án mạng. Từ lúc này trở đi ông chỉ có thể chọn phương án đỡ tệ hơn mà thôi. Nếu khai thật ông sẽ không bị dính gì đến vụ giết người nữa.”
Lúc này Strike đã có được sự chú ý của Bestigui.
“Ông không thể là thủ phạm được,” Strike nói, “bởi vì nếu ông xô Landry xuống từ hai tầng lầu phía trên, ông sẽ không có đủ thời gian mở cửa cho Tansy vào trong nhà, chỉ vài giây sau khi thi thể rơi xuống. Tôi nghĩ ông tống bà vợ ra ngoài, đi thẳng vào giường nằm một lúc – bên cảnh sát có nói trên giường chăn gối lộn xộn, như vừa có người nằm – nhưng lúc đó ông vẫn để mắt nhìn đồng hồ. Tôi nghĩ ông không muốn ngủ quên luôn, vì nếu Tansy bị nhốt ngoài ban công quá lâu mà chết cóng thì ông sẽ bị khép tội ngộ sát. Chẳng lạ gì khi Wilson nói rằng khi chạy xuống nhà bà ta run như cầy sấy. Có lẽ lúc đó bà ta đang bị hạ thân nhiệt giai đoạn đầu rồi.”
Lại im lặng. Chỉ nghe được tiếng mấy ngón tay cục mịch của Bestigui gõ nhè nhẹ trên cạnh bàn. Strike rút cuốn sổ tay ra.
“Bây giờ ông trả lời vài câu hỏi được không?”
“Đồ khốn!”
Cơn giận dữ của Bestigui bị kiềm chế nãy giờ đã bùng nổ. Ông ta nghiến hàm, vai gồng lên ngang lỗ tai. Hắn hình dung lúc nạt nộ bà vợ gầy gò, đang phê trắng mắt chắc ông ta trông cũng như vậy, thêm hai bàn tay co vuốt toan bóp cổ.
“Ở đây nói thẳng ra là ông đang ngập bùn tới mũi rồi,” Strike nói thản nhiên như không, “nhưng chìm tới đâu nữa là tùy ở ông. Ông có thể phủ nhận tất cả, rồi đấu đá với bà vợ tại tòa và trên mặt báo, rồi ngồi tù vì tội khai man và cản trở người thi hành công vụ. Hoặc ông có thể bắt đầu hợp tác, ngay lúc này đây để có được sự biết ơn và thiện ý của gia đình Lula. Như vậy sẽ được coi là thành khẩn khai báo, sẽ rất có ích khi xin giảm tội. Nếu thông tin mà ông cung cấp giúp tìm ra thủ phạm, tôi nghĩ cùng lắm ông chỉ bị khiển trách. Trong vụ này, cảnh sát mới là chỗ sẽ hứng trọn đòn của dư luận và báo chí.”
Bestigui thở nặng nhọc, nhưng dường như đang cân nhắc lời của Strike. Cuối cùng, ông ta gầm gừ:
“Đếch có tên sát nhân nào cả. Wilson chẳng thấy ai trên đó cả. Landry nhảy lầu,” ông ta nói, đầu giật giật, ra ý phủ nhận, “Cô ta cũng chỉ là một đứa nghiện ngập điên khùng, như mụ vợ khốn nạn của tôi.”
“Có một tên sát nhân,” Strike nói ngắn gọn, “và ông đã giúp hắn ta thoát tội.”
Dường như ở vẻ mặt Strike có gì đó khiến Bestigui không tiếp tục bỉ bai hắn được nữa. Khi ngẫm ngợi về những lời Strike vừa nói, cặp mắt Bestigui nheo lại, chỉ còn như hai sợi chỉ đen.
“Tôi nghe nói ông muốn mời Lula đóng phim?”
Bestigui có vẻ lúng túng khi Strike thay đổi chủ đề.
“Chỉ mới định vậy thôi,” ông ta lầm bầm. “Bình hoa di động, nhưng quá đẹp.”
“Ông muốn đưa cô ấy và Deeby Macc vào cùng một phim?”
“Hai đứa đó đứng chung thì hái ra tiền.”
“Còn bộ phim ông định làm sau khi cô ấy chết nữa – kiểu dựa theo chuyện có thật, phải vậy không? Tôi nghe nói Tony Landry không được vui lắm.”
Strike ngạc nhiên khi thấy một nụ cười dâm dật hiện dần lên trên gương mặt phì nộn của Bestigui.
“Ai nói với anh vậy?”
“Không đúng à?”
Dường như mãi đến lúc này Bestigui mới làm chủ lại được tình thế.
“Không, sai bét. Anthony Landry đã nhăm nhe trước với tôi là sau khi phu nhân Bristow chết, ông ta sẽ sẵn sàng nói chuyện với tôi.”
“Lúc gọi cho ông về chuyện đó ông Landry không tức tối gì à?”
“Chỉ nói miễn là làm sao phải tế nhị, đừng thô quá, vân vân…”
“Ông có quen biết Tony Landry không?”
“Tôi có biết ông ta.”
“Trong hoàn cảnh nào?”
Bestigui gãi cằm, mỉm cười một mình.
“À, đương nhiên rồi, Landry là luật sư của vợ ông trong vụ ly dị.”
“Hiện thời là như vậy,” Bestigui nói.
“Ông nghĩ Tansy sẽ thôi mướn Landry à?”
“Có thể,” Bestigui nói, nụ cười trở nên đểu cáng tự đắc. “Có mâu thuẫn quyền lợi. Để rồi xem.”
Strike nhìn xuống cuốn sổ, tính toán rủi ro, lạnh lùng như một tay chơi bài poker chuyên nghiệp. Hắn tự hỏi nếu khai thác hết hướng điều tra này thì có liều quá không, thực tế vẫn chưa có chứng cứ.
“Ý ông là,” hắn nói, ngẩng lên nhìn Bestigui, “ông đã nói với Landry rằng ông biết tay này đang ngủ với vợ của Cyprian May?”
Bestigui sững lại trong giây lát, rồi phá ra cười, thô lỗ và dữ dằn, rất đắc chí.
“Biết vụ đó hả?”
“Làm sao ông biết được?”
“Tôi thuê một thằng như anh vậy. Tôi cứ tưởng Tansy đang mèo mỡ, nhưng hóa ra là mụ ta bao che cho con em khốn nạn, trong khi Ursula ăn nằm với Tony Landry. Vui bỏ mẹ đi được nếu hai vợ chồng đó dắt nhau ra tòa. Cả hai bên đều có luật sư sừng sỏ. Công ty luật gia đình lâu đời sẽ giữa đường đứt gánh. Cyprian May coi vậy mà không vừa đâu. Ông ta đại diện cho mụ vợ thứ hai của tôi. Tôi sẽ sướng kinh người khi xem vụ đó. Dễ gì có dịp bọn luật sư vặt cổ lẫn nhau.”
“Như vậy ông đã thủ sẵn được một đòn trong vụ ly dị?”
Bestigui cười đểu qua làn khói thuốc.
“Chưa đứa nào biết là tôi biết cả. Tôi vẫn đang chờ đúng lúc mới nói.”
Nhưng rồi Bestigui dường như đột ngột nhớ ra là hiện giờ trong tay Tansy còn có một thứ vũ khí còn mạnh hơn, nụ cười của ông ta nhạt dần thành vẻ chua chát trên khuôn mặt sần sùi.
“Cuối cùng,” Strike nói. “Đêm Lula chết, sau khi ông chạy theo bà vợ xuống dưới sảnh để kéo bà ta quay trở lên, ông có nghe được gì bên ngoài căn hộ không?”
“Chứ không phải anh đang cố chứng minh là đếch nghe được gì trong nhà tôi nếu đóng cửa sổ hả?” Bestigui bật lại.
“Không phải từ ngoài đường; ý tôi là tiếng động ngay bên ngoài cửa căn hộ. Lúc đó hẳn Tansy còn la lối, nhưng lúc hai người đã vào trong nhà, khi ông cố ý làm bà ấy bình tĩnh lại? – Lúc đó có tiếng động gì ở bên ngoai không? Hay Tansy la to quá?”
“Mụ ta ồn ào bỏ mẹ,” Bestigui nói. “Tôi không nghe gì cả.”
“Hoàn toàn không có gì hết?”
“Không có gì đáng ngờ. Chỉ là Wilson chạy ngang qua cửa.”
“Wilson.”
“Đúng vậy.”
“Lúc nào?”
“Lúc anh nói đó. Khi vừa quay lại trong nhà."
“Ngay sau khi đóng cửa?”
“Ừ.”
“Nhưng lúc ông xuống dưới sảnh thì Wilson đã chạy lên lầu rồi, phải không?”
“Đúng thế.”
Những nếp nhăn trên trán và ở khóe miệng Bestigui trở nên sâu hơn.
“Vậy lúc ông vào lại trong nhà thì Wilson đã đi quá xa?”
“Ờ…”
“Nhưng ông nghe có tiếng bước chân trên cầu thang, ngay sau khi đóng cửa lại?”
Bestigui không trả lời. Lần đầu tiên Strike thấy ông ta đang khớp mọi thứ trong đầu lại.
“Tôi có nghe… đúng vậy… tiếng bước chân. Chạy ngay qua. Từ cầu thang xuống.”
“Được rồi,” Strike hỏi tiếp. “Ông có nhớ được là bước chân của một người hay hai người không?”
Bestigui nhướng mày, mắt ông ta giãn ra, không nhìn Strike nữa mà hồi tưởng lại ký ức lờ mờ cách đây ba tháng. “Hình như… một người. Vì vậy mà tôi nghĩ là Wilson. Nhưng không lý nào… Wilson vẫn còn ở trên tầng ba, kiểm tra căn hộ của Lula… vì sau đó tôi có nghe tiếng ông ta đi xuống trở lại… lúc sau… sau khi tôi gọi cảnh sát, tôi nghe tiếng chân ông ta chạy ngang cửa…”
“Tôi quên mất,” Bestigui nói, trong giây lát, ông ta có vẻ yếu đuối lạ kỳ. “Tôi quên mất. Lúc đó ồn ào quá. Tansy thì la hét.”
“Và, đương nhiên, ông còn bận nghĩ cho cái thân mình nữa” Strike nói gọn, đút cuốn sổ và cây viết vào túi rồi đứng lên. “Được rồi, tôi sẽ không làm mất thì giờ của ông nữa, hẳn ông đang muốn gọi điện cho luật sư. Ông đã giúp tôi rất nhiều. Hẹn gặp nhau ở tòa.”
13
Ngày hôm sau Eric Wardle gọi cho Strike.
“Đã gọi Deeby,” anh ta báo cáo cụt ngủn.
“Sao nữa?” Strike hỏi, ra dấu nhờ Robin chuyển cây viết và tờ giấy. Hai người vừa ngồi ở bàn của Robin, uống trà ăn bánh qui và nói về bức thư dọa giết gần đây nhất từ Brian Mathers. Trong thư hắn ta hứa, không phải là lần đầu tiên, sẽ rạch bụng Strike và tè một bãi vô đó.
“Deeby nói và Somé gởi một cái áo thun dày liền mũ thiết kế riêng. Trước áo có đính khuy xếp hình khẩu súng còn sau lưng có vài dòng lời bài hát.”
“Chỉ một cái thôi hả?”
“Ừ.”
“Còn gì nữa không?” Strike hỏi.
“Anh ấy nhớ là có một cái dây thắt lưng, một cái mũ tròn và một bộ măng-sét.”
“Không có găng tay sao?”
Wardle dừng lại, có lẽ là kiểm tra trong ghi chép.
“Không, anh ấy không nhắc gì tới găng tay hết.”
“Vậy là rõ rồi,” Strike đáp.
Wardle không nói gì nữa. Strike đợi xem anh chàng cảnh sát sẽ dập máy hay nói thêm gì nữa.
“Điều tra chính thức bắt đầu từ thứ Năm này.” Wardle đột ngột nói. “Vụ Rochelle Onifade.”
“Vậy à.” Strike đáp.
“Anh không quan tâm sao?”
“Không.”
“Tôi tưởng anh chắc chắn vụ đó là án mạng?”
“Tôi chắc chứ, nhưng điều tra sẽ không rút ra kết luận gì cả. Có biết tang lễ lúc nào không?”
“Không,” Wardle nói, có vẻ bực bội. “Để làm gì vậy?”
“Tôi tính tới dự.”
“Để làm gì?”
“Cô ta có một bà cô, nhớ không?” Strike đáp.
Wardle dập máy, Strike ngỡ là vì anh cảnh sát hết chịu nổi hắn nữa.
Bristow gọi Strike ngay trong buổi sáng hôm đó, cung cấp thời gian và địa điểm đám tang Rochelle.
“Alison tìm ra được hết mấy thông tin đó,” ông ta nói với tay thám tử trên điện thoại. “Cô ấy thật là lanh lợi.”
“Rõ là vậy.” Strike đáp.
“Tôi sẽ đến dự. Thay mặt Lula. Đáng ra tôi phải giúp đỡ Rochelle mới phải.”
“Chuyện này cũng khó tránh khỏi, John à. Alison có đi cùng anh không?”
“Cô ấy cũng muốn đi,” Bristow nói, nghe giọng không tha thiết gì lắm.
“Gặp anh ở đó vậy. Tôi mong sẽ nói chuyện được với cô của Rochelle, nếu bà ta có đến dự.”
Khi Strike nói với Robin rằng bạn gái của Bristow vừa tìm ra thời gian và địa điểm tổ chức tang lễ, trông cô hơi thất vọng. Cô cũng đã cố tìm kiếm những thông tin đó theo yêu cầu của Strike. Robin có cảm giác như Alison vừa thắng “một-không” với mình.
“Tôi không biết là cô ganh đua tới vậy đó,” Strike nói, thấy tức cười. “Đừng lo. Chắc vì bả có lợi thế đi trước cô thôi.”
“Đi trước sao kia?”
Nhưng Strike lại đang nhìn cô, ra vẻ tính toán.
“Gì kia?” Robin hỏi lại, hơi bị tự ái.
“Tôi muốn cô đi cùng tôi tới đám tang Rochelle.”
“Ồ.” Robin ngạc nhiên. “Được thôi. Nhưng tại sao?”
Cô tưởng Strike muốn đi thành cặp để trông tự nhiên hơn, như hồi đi Vashti. Nhưng hắn lại nói:
“Có một chuyện tôi muốn nhờ cô làm ở đó.”
Sau khi hắn giải thích, rõ ràng và cụ thể việc mà hắn muốn nhờ làm, trông Robin vô cùng hoang mang.
“Nhưng tại sao?”
“Tôi không nói được.”
“Tại sao không?”
“Tôi cũng không nói được luôn.”
Robin không còn nhìn Strike bằng con mắt của Matthew như hồi đầu, không còn nghi ngờ rằng hắn đóng kịch hay ba hoa chích chòe hay làm ra vẻ thông minh. Nên cô không cho là hắn đang cố tỏ ra bí hiểm một cách không cần thiết. Robin lẩm bẩm lặp lại, như thể sợ nghe nhầm:
“Brian Mathers.”
“Đúng vậy.”
“Thằng cha chuyên gởi thư dọa giết.”
“Đúng thế.”
“Nhưng,” Robin nói, “Cha đó thì dính gì đến án mạng của Lula?”
“Không dính gì hết,” Strike đáp, nghe cũng thành thật. “Chưa dính.”
Ba ngày sau, đám tang của Rochelle được cử hành ở nhà hỏa táng ở phía Bắc London, một nơi lạnh lẽo, không tên tuổi và nhuốm màu phiền muộn. Mọi thứ đều trung dung, trôi tuồn tuột qua mất, từ những dãy ghế gỗ sẫm màu và những bức tường trống trơn, không hề có một dấu hiệu tôn giáo nào cả; đến tấm tranh kính màu trừu tượng ghép từ những hình vuông nhỏ xíu như hạt cườm trên cửa sổ. Strike ngồi trên băng ghế cứng. Người chủ lễ giọng eo éo liên tục đọc nhầm tên Rochelle là “Roselle”. Mưa bụi rơi lấm tấm đầu khung cửa sổ lòe loẹt ngay trên đầu hắn. Giờ đây hắn mới thấy hết tác dụng của những bức tượng tiểu thiên sứ mạ vàng, các thể loại thần thánh tạc bằng thạch cao, những máng xối hình thù kỳ dị, những thiên thần trong Kinh Cựu Ước rồi những cây thập giá vàng đính đá quý. Tất cả những thứ đó tạo ra không khí uy nghiêm hoành tráng, như lời hứa hẹn chắc chắn về nước Chúa, cũng như làm cho người đi đưa đám phải nghĩ đến phẩm giá của người đã khuất. Rochelle, cô gái xấu số đã từng được nếm mùi thiên đường trên mặt đất, thiên đường có những món hàng hiệu, những người nổi tiếng để mà cô dè bỉu sau lưng và các anh lái xe đẹp trai để cợt đùa chút đỉnh. Rochelle từng khao khát thế giới đó, và đây là kết cục của cô ta: bảy người đưa đám và một vị chủ lễ còn không đọc đúng tên của cô.
Đám tang của Rochelle lạnh lùng đến mức trơ tráo. Người đi đưa có vẻ hơi ngượng ngùng, lúng túng tránh không nói gì về cuộc đời của Rochelle. Dường như không ai cảm thấy mình có quyền ngồi ngay hàng ghế đầu. Đến cả người đàn bà da đen béo phì mang kính dày và đội mũ len, mà Strike đoán là cô của Rochelle, cũng chọn ngồi cách miệng lò hỏa thiêu đến ba hàng ghế, tránh xa chiếc quan tài rẻ tiền. Ông nhân viên hói đầu mà Strike gặp ở nhà trọ St Elmo cũng đến dự, mặc áo sơ mi không cài nút cổ và áo khoác da. Ngồi sau là một gương mặt xa lạ - một thanh niên châu Á mặc complet gọn gàng, Strike đoán hẳn đây là bác sĩ tâm thần ở khu ngoại trú nơi Rochelle đi chữa bệnh.
Strike mặc complet màu xanh đen. Robin mặc váy đen và áo khoác hôm đi phỏng vấn. Hai người ngồi ở hàng ghế phía sau. Ở hàng ghế đối diện với bên kia lối đi là John Bristow, tái nhợt và rầu rĩ, ngồi cùng với Alison. Bà ta mặc một chiếc áo khoác đi mưa màu đen cổ bẻ, mấy giọt nước mưa đọng trên áo ánh lên dưới ngọn đèn lạnh lẽo.
Tấm màn đỏ rẻ tiền được kéo ra, rồi cỗ quan tài biến mất đằng sau đó, cô gái chết đuối giờ đây bị ngọn lửa thiêu trụi. Những người khách lặng lẽ gượng gạo mỉm cười khách sáo với nhau sau khi ra khỏi khu hỏa táng, nán lại thêm một chút để lễ tang vốn dĩ đã sơ sài không tàn cuộc quá nhanh đến bẽ bàng. Cô của Rochelle trông lập dị, gần như bất bình thường, tự giới thiệu tên là Winifred rồi lớn giọng tuyên bố, nghe như dọa nạt:
“Bên quán xẵng bánh mì kẹp rồi đó. Tui cứ tưởng có nhìu ngừ hơn.”
Bà ta dẫn đường đi ra ngoài, như thể không chấp nhận sự phản đối nào cả, ngược lên quán Red Lion. Sáu người còn lại đi theo sau, hơi cúi đầu tránh mưa.
Món bánh mì kẹp trông khô khốc và chẳng ngon lành gì sắp sẵn trên khay bằng giấy nhôm, có bọc ni lông kín, đặt trên một chiếc bàn nhỏ trong góc quản rượu cũ kỹ. Trên đường đến quán Red Lion, Cô Winifred đã kịp nhận ra John Bristow là ai. Khi vào trong quán bà ta kè kè đi theo ông luật sư, giữ ông ta đứng mãi ở quầy bar và nói liên tu bất tận. Bristow cố trả lời mỗi khi bà ta cho phép xen vào, nhưng thỉnh thoảng ông ta lại liếc nhìn Strike cầu cứu. Hắn vẫn đang nói chuyện với bác sĩ điều trị của Rochelle. Càng về sau Bristow càng liên tục liếc về phía hắn, trông vô cùng thống thiết.
Anh chàng bác sĩ tâm thần khéo léo né tránh mọi nỗ lực của Strike khi hắn cố moi thông tin về nhóm bệnh nhân ngoại trú. Cuối cùng trược một câu hỏi về Rochelle, anh ta lịch sự nhưng cứng rắn từ chối trả lời hắn, nhắc lại nguyên tắc bảo mật thông tin bệnh nhân.
“Anh có ngạc nhiên khi nghe tin Rochelle tự tử không?”
“Không, không ngạc nhiên mấy. Cô ấy có rất nhiều vấn đề, anh biết rồi đó. Rồi vụ Lula Landry cũng làm Rochelle bị sốc nặng.”
Không lâu sau đó anh ta chào tạm biệt rồi ra về.
Robin cố bắt chuyện với Alison ở bàn nhỏ cạnh cửa sổ, nhưng bà ta cứ trả lời nhát gừng. Cô bỏ cuộc, đi vào nhà vệ sinh.
Strike đi qua sảnh nhỏ, ngồi vào ghế Robin vừa đi khỏi. Alison nhìn hắn, không lấy gì làm thân thiện, rồi quay lại dán mắt về phía Bristow vẫn đang bị bà cô của Rochelle thuyết giáo. Alison không mở nút áo đi mưa. Một ly rượu nhỏ, có vẻ là rượu port đặt trên bàn ngay trước mặt bà ta. Miệng Alison thoáng cười khinh khỉnh, vẻ như mọi thứ xung quanh toàn là rơm rác. Strike vẫn còn đang nghĩ cách bắt chuyện thì bà ta đột ngột lên tiếng trước:
“Đáng ra sáng nay John phải đi họp với đại diện Conway Oates chứ. Ông ấy để Tony đi một mình. Tony giận lắm.”
Giọng bà ta như ám chỉ rằng Strike có trách nhiệm trong vụ này. Và hắn phải biết được hắn đã gây rắc rối như thế nào. Bà ta nhấp một ngụm port. Tóc Alison đổ xuống vai, đôi bàn tay to của bà ta khiến cái ly trông nhỏ xíu. Vẻ ngoài tầm thường thô kệch không khiến Alison chìm lẫn giữa đám đông, mà lại làm toát lên ở bà ta vẻ trịch thượng.
“Chị không nghĩ John đến dự đám tang vậy cũng là tử tế hay sao?” Strike hỏi.
Alison hừ một tiếng, cười nhạt.
“Có phải như ông ấy thân thiết gì con bé này đâu.”
“Thế tại sao chị lại đi cùng?”
“Tony muốn tôi đi.”
Strike để ý thấy vẻ lúng túng nhưng trìu mến trong cách bà ta gọi tên ông sếp.
“Tại sao vậy?”
“Cần để mắt đến John.”
“Tony nghĩ cần phải trông chừng John à?”
Bà ta không trả lời.
“John và Tony cùng dùng chị phải không?”
“Anh nói gì?” Bà ta hỏi, gay gắt.
Strike thấy nhẹ nhõm vì đã phá được cái vỏ bình tĩnh của bà ta.
“Ý tôi là họ cùng dùng chị làm thư ký đó?”
“À, ờ, không phải vậy. Tôi làm việc cho Tony và Cyprian; tôi là thư ký của thành viên cấp cao.”
“Ra vậy. Tại sao tôi cứ nghĩ chị cũng là thư ký của John nhỉ?”
“Tôi làm việc ở mảng hoàn toàn khác,” Alison nói. “John dùng tổ thư ký chung của công ty. Tôi không dính gì đến ông ấy trong công việc cả.”
“Vậy mà tình yêu nảy nở xuyên qua phòng ban và các tầng lầu?”
Bà ta đáp lại câu bông lơn rẻ tiền của hắn bằng cách im lặng, tiếp tục tỏ thái độ khinh khỉnh. Dường như Alison chỉ coi Strike như một tên ưa gây sự, du thủ du thực, không đáng phải giữ phép tắc trước mặt hắn.
Ông nhân viên nhà trọ đứng một mình trong góc, ăn bánh mì, rõ là đang cố giết thời gian cho đến lúc có thể cáo lui một cách lịch sự. Robin đi ra khỏi nhà vệ sinh, ngay lập tức bị Bristow cầu cứu. Có vẻ như ông ta chịu hết nổi Cô Winifred.
“Vậy chị với John được bao lâu rồi?” Strike hỏi.
“Vài tháng.”
“Hai người bắt đầu quen nhau trước khi Lula chết, phải không?”
“Không lâu sau đó ông ấy ngỏ lời với tôi,” bà ta nói.
“Chắc lúc đó ông ấy buồn lắm nhỉ?”
“Suy sụp.”
Giọng bà ta chẳng có gì là cảm thông, mà hơi khinh thường.
“Trước đó ông ấy tán tỉnh chị có lâu không?”
Hắn nghĩ bà ta sẽ từ chối trả lời. Nhưng hắn sai. Mặc dù cố làm ra vẻ thản nhiên, câu trả lời của Alison tỏ rõ sự thỏa mãn, tự đắc không lẫn vào đâu được.
“Ông ấy đi lên lầu gặp Tony. Tony đang bận, nên John đứng chờ trong văn phòng của tôi. Rồi bắt đầu nói về cô em gái, rồi bị xúc động mạnh. Tôi đưa khăn giấy cho ông ấy, rồi ông ấy mời tôi đi ăn tối.”
Mặc dù Alison có vẻ chẳng tha thiết gì với Bristow, Strike vẫn cảm thấy bà ta hãnh diện trước lời mời ấy, như vừa được trao giải gì đó. Strike tự hỏi không biết trước Bristow đã có người nào mời bà ta đi ăn tối hay chưa. Một sự giao thoa giữa hai con người có nhu cầu không bình thường: Tôi đưa khăn giấy cho ông ấy, rồi ông ấy mời tôi đi ăn tối.
Ông nhân viên nhà trọ bắt đầu cài nút áo khoác. Bắt gặp ánh mắt của Strike, ông ta vẫy tay chào rồi ra về mà không nói gì với ai.
“Vậy ông sếp lớn thấy sao khi cô thư ký hẹn hò với cháu trai của mình?”
“Tony không có quyền ý kiến về chuyện riêng tư của tôi,” bà ta nói.
“Cũng đúng,” Strike nói tiếp, “Dù sao thì, Tony lấy tư cách gì mà lên án chuyện lẫn lộn giữa làm ăn và bồ bịch, phải vậy không? Nhất là khi ổng đang ngủ với vợ của Cyprian May.”
Giọng thản nhiên của Strike khiến trong giây lát Alison không kịp để ý thấy hắn vừa nói gì, toan mở miệng đáp trả. Và khi nhận ra ý nghĩa của câu nói, sự tự tin của Alison hoàn toàn bị bóp vụn.
“Không đúng!” Bà ta giận dữ nói, mặt bừng bừng. “Ai nói với anh vậy? Dối trá. Đặt điều. Không đúng. Không đúng tí nào cả.”
Trong sự phản đối của Alison có cả nỗi sợ hãi của một đứa trẻ.
“Vậy sao? Vậy thì tại sao Cyprian May lại sai chị đi xuống Oxford để tìm Tony vào ngày Bảy tháng Giêng?”
“Chuyện đó… chỉ vì… ông ấy quên đưa Tony ký mấy thứ giấy tờ quan trọng, có vậy thôi.”
“Và ông May không dùng máy fax hay chuyển phát nhanh bởi vì…?”
“Giấy tờ nhạy cảm.”
“Alison,” Strike lên tiếng, thích thú trước sự bối rối của bà thư ký, “cả hai chúng ta đều biết lý do chị đưa ra rất vớ vẩn. Cyprian nghi là Tony đã chuồn đi đâu với Ursula ngày hôm đó, không phải vậy sao?”
“Không phải! Không có chuyện đó!”
Ở quầy bar, Cô Winifred vừa nói vừa hăng hái vẫy tay như hai cánh quạt cối xay gió về phía Bristow và Robin. Hai người cười gượng chịu trận.
“Chị gặp Tony ở Oxford đúng không?”
“Không, bởi vì…”
“Chị tới nơi lúc mấy giờ?”
“Khoảng mười một giờ, nhưng ông ấy đã…”
“Hẳn là chị vừa đến công ty thì Cyprian sai đi ngay, đúng không?”
“Giấy tờ đó rất khẩn.”
“Nhưng chị không gặp được Tony ở cả khách sạn và trung tâm hội thảo?”
“Tôi lỡ mất ông ấy,” bà ta nói, tức tối bất lực, “vì ông ấy vừa quay lại London để thăm phu nhân Bristow.”
“À,” Strike đáp. “Đúng rồi. Ổng không nói với chị hay Cyprian là đang trên đường về London à, kể cũng hơi lạ nhỉ?”
“Ừ,” bà ta đáp, cố lấy lại vẻ trịch thượng lúc nãy. “Nhưng tôi liên lạc được. Ông ấy không tắt điện thoại. Có gì đâu.”
“Chị có gọi vào máy di động của ông ta không?”
Alison không trả lời.
“Chị gọi mà không ai bốc máy hả?”
Bà ta im lặng nhấp rượu port, mặt mày sưng sỉa.
“Thì cũng đúng thôi, khi đang hành sự mà phải nghe điện thoại của thư ký thì mất hứng quá còn gì.”
Hắn đoán bà ta sẽ thấy xúc phạm nặng nề. Hắn không phải thất vọng.
“Anh là cái đồ gớm ghiếc. Thật quá thể.” Giọng bà ta ồm ồm, gò má đỏ sẫm, xấu hổ nhưng vẫn cố khoác cái vẻ cao kỳ.
“Chị sống một mình à?” Hắn hỏi.
“Chuyện đó thì liên quan gì?” Bà ta hỏi lại, lúc này Alison đã hoàn toàn mất bình tĩnh.
“Hỏi vậy thôi. Vậy chị không thấy có gì kỳ lạ sao, Tony nhận phòng khách sạn ở Oxford trong đêm, rồi sáng hôm sau lái xe về London, rồi trở lại Oxford, chỉ vừa kịp trả phòng khách sạn ngày hôm sau?”
“Ông ấy trở lại Oxford để dự hội thảo buổi chiều,” Bà ta vẫn khăng khăng.
“Ồ, vậy sau? Chị có ở lại gặp ổng ở đó không?”
“Ông ấy có ở đó,” bà ta trả lời, lẩn tránh.
“Chị có bằng chứng à?”
Bà ta không nói gì cả.
“Vậy thì,” Strike nói, “chị thấy chuyện nào nghe được hơn, Tony lên giường với Ursula cả ngày hôm đó, hay bận về nhà hoạnh họe cô cháu gái?”
Ở quầy bar, Cô Winifred đưa tay vuốt chiếc mũ len và siết lại thắt lưng. Có vẻ như bà cô đang chuẩn bị ra về.
Trong vài giây Alison bình tĩnh lại. Và rồi, như giải tỏa một nỗi lòng bị kiềm nén lâu ngày, bà ta nói, giọng vẫn thì thầm nhưng bốc khói:
“Họ không có bồ bịch gì. Tôi biết là không có chuyện đó. Không thể được. Ursula chỉ quan tâm tới tiền, chỉ có vậy thôi, mà Tony thì không giàu có bằng Cyprian. Ursula đời nào cặp với Tony. Đời nào.”
“Ồ, nhưng biết đâu được. Nhục cảm cũng có thể lớn hơn lòng tham tiền chứ,” Strike nói, quan sát kỹ lưỡng Alison. “Cũng có thể lắm. Tôi là đàn ông thì hơi khó nhận xét, nhưng Tony trông cũng đâu đến nỗi nào, phải không?”
Hắn thấy sự đau đớn, giận dữ lộ rõ trên gương mặt Alison. Giọng bà ta nghèn nghẹn:
“Tony đã nói đúng… anh chỉ có lợi dụng thôi… chạy theo la liếm… John thì không bình thường… Lula nhảy lầu. Cô ta tự tử. Cô ta đã mất thăng bằng từ lâu. John rất giống mẹ, dễ bị kích động, tưởng tượng ra đủ chuyện. Lula dùng ma túy, cô ta là loại người như vậy, mất kiểm soát, lúc nào cũng gây chuyện để gây sự chú ý. Hư hỏng. Ném tiền qua cửa sổ. Cô ta muốn gì mà chẳng được, muốn ai mà không xong, nhưng bao nhiêu cũng không đủ cả.”
“Tôi không biết là chị rành Lula như vậy.”
“Tôi… Tony có nói.”
“Ông ấy không ưa gì Lula cả, đúng vậy không?”
“Ông ấy chỉ thấy đúng bản chất Lula thôi. Cô ta chẳng tốt đẹp gì. Nhiều người đàn bà,” bà ta nói, thở gấp gáp dưới chiếc áo khoác thùng thình, “chẳng ra gì.”
Một cơn gió lạnh thổi vào phòng, ngay khi cô của Rochelle vừa đẩy cửa đi ra. Bristow và Robin giữ nụ cười gượng gạo cho tới khi cánh cửa đóng hẳn, rồi nhẹ nhõm nhìn nhau.
Nhân viên quầy bar đã đi đâu mất. Trong phòng chỉ còn lại có bốn người. Strike nhận ra bản nhạc ballad thập niên 80 đang bật trong quán: bài The Power of Love của Jennifer Rush. Bristow và Robin tiến tới bàn của hai người.
“Tôi tưởng anh muốn nói chuyện với cô của Rochelle?” Bristow hỏi, trông tiu nghỉu như vừa phải chịu trận mà chẳng được gì.
“Không tới mức phải chạy theo gợi chuyện,” Strike hồ hởi trả lời. “Anh kể lại với tôi cũng được mà.”
Vẻ mặt của cả Robin và Bristow cho thấy cả hai đều nghĩ thái độ thờ ơ của Strike thật khó hiểu. Alison lục lọi gì đó trong túi xách, cúi mặt xuống.
Mưa đã tạnh, vỉa hè trơn trượt. Bầu trời ảm đạm như hứa hẹn sắp thêm một trận mưa xối xả nữa. Hai người phụ nữ đi đằng trước trong im lặng, trong khi Bristow thuật lại kỹ càng cuộc trò chuyện với Cô Winifred cho Strike. Tuy nhiên. Strike không nghe gì cả. Hắn mải nhìn tấm lưng của hai người phụ nữ đi đằng trước, đều mặc đồ đen – mới nhìn thoáng qua thì giống hệt nhau. Hắn nhớ đến chi tiết chạm trổ hình con hươu ở hai bên cổng Queen’s Gate vào công viên Hyde Park: không hề giống nhau, mặc dù con mắt lười quan sát sẽ thấy vậy. Một bên đực, một bên cái, cùng thuộc một loài nhưng khác nhau một trời một vực.
Khi Alison và Robin dừng bước bên cạnh một chiếc xe BMW mà hắn đoán là xe của Bristow, Strike cũng đi chậm lại, ngắt lời Bristow còn đang thao thao kể lại mối dây nhợ đầy sóng gió giữa Rochelle và gia đình cô ta.
“John, tôi muốn hỏi lại một chi tiết này với anh.”
“Anh cứ nói.”
“Anh nói là có nghe tiếng ông cậu đi vào nhà mẹ buổi sáng trước khi Lula chết?”
“Vâng, đúng vậy.”
“Anh có chắc người đó là Tony không?”
“Đương nhiên rồi.”
“Nhưng anh không thấy mặt, đúng không?”
“Tôi…” Gương mặt thỏ của Bristow trông như bị đánh đổ. “… không, tôi… tôi không nghĩ là có gặp cậu. Nhưng tôi nghe tiếng cậu đi vào. Tôi nghe tiếng cậu từ phòng khách.”
“Có khi nào, vì anh đang đợi Tony đến, nên anh cứ nghĩ người đó là Tony không?”
Lại im lặng.
Rồi, Bristow lạc giọng:
“Ý anh là Tony không có ở đó?”
“Tôi chỉ muốn biết anh có chắc người đó là Tony không.”
“Thì… cho tới bây giờ, tôi hoàn toàn chắc chắn. Ngoài Tony ra, không ai khác có chìa khóa vào nhà mẹ tôi. Không thể là ai khác ngoài Tony cả.”
“Vậy là anh nghe có người bước vào nhà. Anh nghe một giọng đàn ông. Người này nói chuyện với mẹ anh, hay với Lula?”
“Ơ…” Hai cái răng thỏ của Bristow lộ hẳn ra khi ông ta ngẫm nghĩ câu hỏi của Strike, “Tôi nghe tiếng ông ấy đi vào. Tôi nhớ là nghe ông ấy nói chuyện với Lula…”
“Anh có nghe tiếng ông ấy đi về không?”
“Có, tôi nghe tiếng ông ấy bước ngoài sảnh, nghe tiếng cửa đóng lại.”
“Khi Lula tạm biệt anh, cô ấy có nhắc gì đến Tony không?”
Lại im lặng. Bristow đặt tay lên miệng suy nghĩ.
“Tôi… nó ôm tôi tạm biệt, chỉ có vậy thôi… Tôi… Đúng rồi, tôi nhớ là nó nói có nói chuyện với Tony. Có không ta? Hay tôi cứ tưởng là nó đã nói chuyện với Tony vì tôi nghĩ…? Nhưng nếu người đó không phải là cậu tôi thì còn là ai được nữa?”
Strike chờ đợi. Bristow nhìn lên vỉa hè, suy nghĩ.
“Nhưng chắc phải là Tony. Lula ắt hẳn đã thấy có người vào, và thấy không có gì lạ thường, như vậy thì có thể là ai khác ngoài Tony? Còn ai nữa có chìa khóa?”
“Có bao nhiêu chìa khóa tất cả?”
“Bốn cái. Ba cái dự phòng.”
“Nhiều vậy.”
“Thì Lula, Tony và tôi mỗi người một cái. Mẹ tôi muốn tất cả tụi tôi đều có thể tự mở cửa ra vào được, nhất là khi mẹ tôi bị ốm.”
“Hiện giờ anh có biết tất cả các chìa khóa ở đâu không?”
“Biết chứ… tôi nghĩ vậy. Tôi đoán là chìa của Lula hẳn đã được trả lại cho mẹ tôi, cùng với tất cả đồ đạc của nó. Tony vẫn còn chìa của ông ấy, tôi có chìa riêng đây còn chìa của mẹ tôi… Tôi nghĩ chắc ở đâu đó trong nhà.”
“Vậy anh không nghĩ là có chìa nào bị lạc mất?”
“Không.”
“Và không ai trong số bốn người có cho người ngoài mượn chìa khóa?”
“Lạy Chúa, tại sao lại làm vậy?”
“Tôi chỉ nhớ lại file hình ảnh bị xóa từ máy tính của Lula lúc đã mang về nhà mẹ anh. Nếu có một chìa khóa nữa nằm ở đâu đó…”
“Không thể được,” Bristow nói. “Chuyện này… Tôi… tại sao anh lại nói là Tony không có ở đó? Ông ấy hẳn đã ghé qua. Chính ông ấy nói đã nhìn thấy tôi trong thư phòng kia mà.”
“Anh đi đến công ty sau khi rời nhà Lula đúng không?”
“Đúng vậy”
“Để lấy giấy tờ?”
“Đúng thế. Tôi chạy ào vào lấy. Cũng nhanh thôi.”
“Vậy anh trở lại nhà mẹ lúc…”
“Chắc chắn là chưa quá mười giờ.”
“Và cái người đi vào sau anh đó, ông ta tới đó lúc mấy giờ?”
“Chắc là… chắc là khoảng nửa tiếng sau? Thực tình tôi không nhớ rõ. Tôi không nhìn đồng hồ. Nhưng tại sao Tony lại nói là có ghé qua nếu không ghé?”
“Nếu ông ấy biết trước hôm đó anh làm việc ở nhà, ông ấy có thể dễ dàng nói rằng có ghé qua, không muốn quấy rầy anh, nên chỉ đi thẳng xuống nhà để nói chuyện với mẹ anh. Mẹ anh chắc đã xác nhận như vậy với cảnh sát rồi hả?”
“Tôi nghĩ vậy.”
“Nhưng anh không chắc?”
“Tôi không nghĩ là mẹ tôi có nhắc tới chuyện này với tôi. Lúc đó mẹ tôi rất mệt mỏi, đau đớn và mê man. Rồi sáng hôm sau thì có tin Lula…”
“Nhưng anh chưa bao giờ thấy lạ là Tony không ghé vào thư phòng để chào anh một tiếng sao?”
“Chẳng có gì lạ cả.” Bristow đáp. “Ông ta vẫn còn cay cú vụ Conway Oates. Nếu ông ta xởi lởi hơn thì mới đáng ngạc nhiên.”
“John, tôi không muốn làm anh sợ, nhưng tôi nghĩ cả anh và mẹ anh đều đang gặp nguy hiểm.”
Tiếng cười căng thẳng của Bristow nghe rất yếu ớt và không hề thuyết phục. Strike thấy Alison đang đứng cách đó khoảng bốn lăm mét, bà ta khoanh tay lại, phớt lờ Robin, tập trung quan sát hai người đàn ông.
“Anh… anh đùa à?” Bristow nói.
“Tôi nói rất nghiêm túc.”
“Nhưng… Cormoran, ý anh là anh đã biết ai giết Lula?”
“Tôi nghĩ thế - nhưng tôi vẫn cần nói chuyện với mẹ anh, trước khi kết luận chính thức.”
Vẻ mặt của Bristow như muốn đọc hết những suy nghĩ trong đầu Strike. Cặp mắt cận của ông ta nhìn khắp mặt Strike, trông ông ta nửa sợ hãi, nửa tha thiết nài nỉ.
“Tôi phải có mặt ở đó,” ông ta nói. “Mẹ tôi yếu lắm rồi.”
“Đương nhiên rồi. Sáng mai được không?”
“Tony sẽ tức điên lên nếu tôi lại vắng mặt trong giờ làm việc.”
Strike chờ đợi.
“Được rồi,” Bristow nói. “Được rồi. Mười giờ rưỡi sáng mai vậy.”
14
Sáng hôm sau trời trong mát, nắng đẹp. Strike đi tàu điện đến khu Chelsea hiền hòa, nhiều cây cối. Mặc dù từng sống lang thang khắp London, hắn hầu như không bao giờ bén mảng đến đây. Mẹ Strike chưa bao giờ với tới nổi một tấc đất gần Bệnh viện Hoàng Gia Chelsea, ngay trong những giai đoạn bà phung phí tiền bạc mạnh tay nhất. Dưới ánh nắng mùa xuân, tòa nhà bệnh viện hiện lên trầm mặc và nền nã.
Trước mặt Strike là con phố Franklin Row xinh đẹp với những dãy nhà gạch đỏ, hàng cây tiêu huyền và một bãi cỏ rộng lớn có hàng rào bao quanh. Một đám học sinh tiểu học đang chơi thể thao trên bãi cỏ, mặc áo thun Aertex và quần short màu xanh sẫm, xung quanh có các thầy cô mặc đồ thể thao đứng trông chừng. Tiếng cười đùa của bọn trẻ làm ngắt quãng sự yên lặng tĩnh tại ở khu phố vốn dường như chỉ có tiếng chim hót. Strike sải bước trên vỉa hè, hai tay đút túi quần. Đường phố không một bóng xe chạy qua.
Phía trên bốn bậc cấp bằng đá trắng là một cánh cửa lắp kính. Kế đó là bảng chuông cửa bằng nhựa Bakelite kiểu cũ xưa gắn trên tường. Strike kiểm tra lại có đúng là tên của phu nhân Yvette Bristow nằm bên cạnh dòng chữ Căn hộ E hay không rồi quay xuống vỉa hè, đứng đợi trong ánh nắng ấm áp dìu dịu, thỉnh thoảng nhìn về hai phía đầu đường.
Mười giờ rưỡi. John Bristow vẫn chưa đến. Khu phố không một bóng người, trừ khoảng hai mươi đứa trẻ con bên kia hàng rào bãi cỏ. Chúng đang chơi đến trò chạy qua những vòng tròn và cột mốc đủ màu.
Mười giờ bốn mươi lăm phút, điện thoại của Strike rung lên trong túi. Robin nhắn tin:
Alison vừa gọi để báo rằng JB bận không tới được. JB không muốn anh nói chuyện với bà mẹ mà không có mặt ông ấy.
Ngay lập tức Strike nhắn tin của Bristow:
Anh còn bận bao lâu nữa? Vẫn gặp hôm nay được chứ?
Hắn chưa kịp gởi tin nhắn thì điện thoại đổ chuông.
“A lô?” Strike nói.
“Oggy?” Giọng lành lạnh của Graham Hardacre vang lên, từ tận nước Đức. “Tao có thông tin về Agyeman rồi.”
“Mày thiêng quá xá.” Strike rút cuốn sổ ra. “Nói đi.”
“Anh chàng này là Trung úy Jonah Francis Agyeman, Kỹ sư Quân đội Hoàng gia. Hai mươi mốt tuổi, chưa kết hôn, đợt làm nhiệm vụ gần đây nhất bắt đầu từ ngày Mười Một tháng Giêng, kết thúc vào tháng Sáu tới. Người thân gần nhất là mẹ. Không anh chị em, không con cái.”
Strike hí hoáy viết hết vào sổ, điện thoại kẹp giữa cằm và bả vai.
“Tao nợ mày vụ này rồi, Hardy,” hắn vừa nói vừa cất cuốn sổ. “Không có hình ảnh gì hả?”
“Để đó tao email cho một cái.”
Strike đọc cho Hardacre địa chỉ email của văn phòng. Sau vài màn hỏi thăm thông thường về cuộc sống và chúc tụng lẫn nhau, hắn dập máy.
Mười một giờ kém năm. Strike vẫn đứng đợi giữa khu phố hiền hoà, xanh tươi, điện thoại cầm trong tay. Đám trẻ con vẫn mải chơi với mấy cái vòng và túi hạt xốp. Một chiếc máy bay màu bạc bé xíu vạch một đường trắng dày trên nền trời xanh nhàn nhạt. Cuối cùng, điện thoại phát ra tín hiệu báo tin nhắn, nghe rất rõ trên con phố vắng lặng. Bristow trả lời:
Hôm nay không được rồi. Tôi phải đi Rye có việc. Hay ngày mai vậy?
Strike thở dài.
“Xin lỗi nhé John,” hắn lẩm bẩm rồi leo lên bậc tam cấp và bấm chuông nhà phu nhân Bristow.
Sảnh đón khách yên tĩnh, rộng rãi và sáng sủa, nhưng vẫn có vẻ gì đó ảm đạm của những nơi công cộng, mặc dù có đặt thêm bình hoa trông như cái xô cắm đầy hoa khô, thêm thảm lót màu xanh mờ và tường sơn vàng nhạt, chắc chủ nhân cố ý chọn toàn những thứ nhẹ nhàng dễ chịu như vậy. Giống với toà nhà chung cư Kentigern Gardens, ở đây cũng có thang máy, nhưng cửa bằng gỗ. Strike quyết định đi cầu thang bộ. Toà nhà trông hơi cũ kỹ nhưng vẫn lặng lẽ toát lên vẻ giàu có.
Cô y tá Macmillan[1] người Caribe ra mở cửa, mỉm cười thân thiện. Cô cũng chính là người bấm nút mở cửa vào sảnh ở tầng dưới cho Strike sau khi hắn bấm chuông.
[1. Một tổ chức chuyên chăm sóc người bệnh ung thư ở Anh quốc.]
“Tôi cứ tưởng là anh Bristow,” cô ta nhanh nhẹn nói.
“Không, tôi là Cormoran Strike. John vẫn đang trên đường đi.”
Cô y tá cho hắn vào. Hành lang dẫn vào phòng khách nhà phu nhân Bristow ấm cúng dễ chịu. Giấy dán tường màu đỏ phai, trên tường treo nhiều tranh màu nước lồng khung mạ vàng cũ xưa. Giá để dù đi mưa đựng đầy các loại gậy chống. Mấy chiếc áo khoác được treo lên một hàng móc áo ngay ngắn. Strike liếc qua phải, thoáng thấy thư phòng ở cuối hành lang, bên trong có một chiếc bàn gỗ nặng nề và chiếc ghế xoay, lưng ghế quay ra phía cửa.
“Phiền anh đợi trong phòng khách. Tôi đi xem phu nhân đã sẵn sàng gặp anh chưa nhé.”
“Vâng, được.”
Hắn bước qua cánh cửa cô y tá vừa chỉ, vào một phòng khách trang nhã với tường sơn màu hoa anh thảo, đầy kệ sách và khung ảnh. Một chiếc điện thoại quay số kiểu cổ đặt trên chiếc bàn con, cạnh đó là ghế sofa bọc vải hoa. Strike đợi cô y tá đi ra hẳn, rồi nhấc ống nghe điện thoại lên, khéo léo gác kênh máy, nhìn lướt qua khó nhận ra.
Gần cửa sổ lớn là chiếc bàn mặt tủ kiểu cọ, trên bàn có một tấm ảnh lớn lồng khung bạc, chụp đám cưới của Ngài Alec Bristow và phu nhân. Chú rể trông già hơn nhiều so với cô dâu. Ngài Alec phốp pháp, râu ria, đang mỉm cười rạng rỡ bên cô dâu mảnh khảnh, tóc vàng, xinh đẹp kiểu nhàn nhạt. Giả vờ đang chiêm ngưỡng bức ảnh, Strike đứng quay lưng về phía cửa và nhanh tay mở ngăn kéo nhỏ ngay dưới mặt chiếc bàn gỗ xoan đào tinh tế. Bên trong là giấy viết thư màu xanh nhạt và bì thư cùng màu. Hắn đóng ngăn kéo lại ngay.
“Anh Strike? Anh có thể vào gặp phu nhân được rồi.”
Hai người trở ra hành lang có giấy dán tường đỏ rồi đi một đoạn ngắn đến một phòng ngủ rộng lớn với hai màu chủ đạo trắng và xanh trứng sáo. Mọi thứ trong phòng toát lên vẻ thanh lịch, trang nhã. Bên trái là hai cánh cửa đang khép hờ, một mở vào buồng tắm, một mở vào tủ áo quần siêu lớn. Bàn ghế trong phòng tinh tế, mang hơi hướm phong cách Pháp. Bình truyền nước gắn trên giá đứng bằng thép, bộ vệ sinh sạch sẽ sáng bóng đặt trên tủ ngăn kéo cùng với vô số thuốc men. Những món đạo cụ của bệnh tật lạc lõng trong căn phòng thanh nhã như những kẻ trà trộn không mời.
Người đàn bà đau yếu mặc áo khoác len dày màu trắng ngà, nằm lọt thỏm trên chiếc giường gỗ chạm trổ, đỡ lưng bằng những chiếc gối màu trắng. Vẻ đẹp thanh xuân của phu nhân Bristow đã hoàn toàn biến mất. Dưới làn da mỏng manh, trong suốt, và đã bắt đầu bong vảy, những đốt xương lộ rõ, gầy guộc và góc cạnh. Đôi mắt của phu nhân trũng sâu, mờ đục. Mái tóc bạc trắng lơ thơ như tóc trẻ con, lộ cả lớp da đầu hồng nhạt. Hai cánh tay xương xẩu đặt hờ trên lớp chăn, trên tay gắn kim truyền dịch. Cái chết đã hiện diện trong căn phòng, chừng như đang lịch sự và kiên nhẫn đứng chờ ngay sau lớp màn cửa.
Mùi hoa chanh thoang thoảng trong không khí, nhưng vẫn không át được mùi thuốc sát trùng và bệnh tật, khiến Strike nhớ đến mấy tháng dai dẳng nằm viện. Cửa sổ lớn thứ hai đã được nâng lên khoảng vài tấc, hứng lấy chút không khí ấm áp trong lành và tiếng trẻ con chơi đùa từ xa vọng vào, nhìn ra những cành cao nhất trên hàng cây tiêu huyền xanh mát trong nắng.
“Anh là thám tử à?”
Giọng của phu nhân Bristow mỏng manh, khàn và hơi nhịu. Trước đó Strike vẫn còn băn khoăn không biết liệu Bristw đã nói thật với mẹ ông ta về hắn chưa. Hắn mừng là phu nhân đã biết trước.
“Vâng, tôi là Cormoran Strike.”
“John đâu rồi?”
“Anh ấy bận việc ở văn phòng.”
“Lại bận nữa à,” bà ta lẩm bẩm, rồi nói tiếp, “Tony bắt John làm việc cực khổ quá. Không công bằng chút nào.” Bà ta cố nheo mắt nhìn hắn, rồi khẽ đưa ngón tay lên chỉ một chiếc ghế nhỏ. “Ngồi xuống đi.”
Hai mống mắt đã bạc màu của phu nhân Bristow có những đường trắng đục viền quanh. Khi ngồi xuống Strike để ý trên bàn con cạnh giường có thêm hai khung ảnh bạc nữa. Một luồng điện chạy qua người Strike khi hắn nhìn vào đôi mắt của Charlie Bristow trong ảnh. Gương mặt tròn trịa, đuôi tóc hơi dài, Charlie dừng lại mãi ở tuổi lên mười trong chiếc áo sơ mi đồng phục có cổ áo chìa ra và nút thắt cà vạt to tướng. Trông Charlie y hệt như lúc vẫy tay tạm biệt Cormoran Strike, cậu bạn thân nhất, ríu rít hẹn gặp nhau sau kỳ nghỉ Phục Sinh.
Bên cạnh ảnh của Charlie là một tấm ảnh nhỏ hơn, chụp một cô bé xinh lạ thường, tóc đen dài xoăn từng lọn, đôi mắt to màu nâu, mặc đồng phục màu xanh sẫm. Lula Landry trong ảnh chắc chỉ độ sáu tuổi.
“Mary,” phu nhân Bristow gọi khẽ, cô y tá chạy ngay đến. “Cô có thể lấy cho anh Strike đây ít cà phê? Hay anh dùng trà nhỉ?” bà ta quay sang hỏi hắn. Trong giây lát, Strike như quay trở về khoảnh khắc cách đây hai thập kỷ rưỡi, trong khu vườn rực nắng ở nhà Charlie với người mẹ tóc vàng duyên dáng tay cầm bình nước chanh mát lạnh.
“Cho tôi một tách cà phê vậy, cảm ơn cô nhiều.”
“Xin anh bỏ quá cho vì tôi không tự pha được,” phu nhân Bristow nói, sau khi cô y tác đã đi ra ngoài, bước chân vội vã, “nhưng anh thấy đó, giờ tôi phải nương nhờ lòng tốt của kẻ khác. Như Blanche Dubois[2] tội nghiệp.”
[2. Nhân vật chính trong tác phẩm nổi tiếng A streetcar named desire của Tennessee Williams, từng được dịch ra tiếng Việt với tựa Chuyến tàu mang tên dục vọng (NXB Trẻ, 2011) - ND]
Bà nhắm mắt lại trong giây lát, như để tập trung cảm nhận sự đau đớn bên trong cơ thể. Hắn không biết phu nhân Bristow đã uống bao nhiêu thuốc và còn tỉnh táo tới đâu. Đằng sau phong thái nền nã đó, Strike vẫn thấy vương vấn chút chua chát trong từng lời nói, tựa như mùi hoa chanh không thể át hết mùi bệnh tật trong phòng. Hắn thấy ngạc nhiên, chẳng phải Bristow gần như lúc nào cũng túc trực cạnh bên để tận tình chăm sóc bà mẹ đó sao?
“Tại sao John không tới?” phu nhân Bristow lại hỏi, mắt vẫn nhắm.
“Anh ấy bận việc ở văn phòng,” Strike lặp lại.
“À, đúng rồi. Anh có nói.”
“Thưa phu nhân, tôi muốn hỏi bà một vài câu. Tôi xin bà lượng thứ nếu câu hỏi quá riêng tư, hoặc làm bà phải phiền lòng.”
“Nếu anh đã gặp những chuyện mà tôi phải trải qua,” bà ta lặng lẽ nói, “thì chẳng còn gì có thể gây đau đớn được nữa. Cứ gọi tôi là Yvette.”
“Cảm ơn phu nhân. Bà không phiền nếu tôi ghi chép lại chứ?”
“Không, không sao cả,” bà ta trả lời, nhìn hắn lấy cây viết và cuốn sổ ra, vẻ hơi tò mò.
“Nếu bà không phiền, tôi muốn bắt đầu từ việc Lula đã đến với gia đình như thế nào. Khi nhận nuôi bà có biết gì về gốc gác của cô ấy không?”
Phu nhân Bristow giờ đây như hiện thân của sự bất lực và thụ động, hai cánh tay vẫn hờ hững đặt trên lớp chăn.
“Không,” bà ta trả lời. “Tôi chẳng biết gì cả. Chắc Alec biết, nhưng nếu có đi nữa thì ông ấy cũng không bao giờ kể với tôi.”
“Tại sao bà nghĩ Alec biết gì đó?”
“Alec luôn tìm hiểu tường tận mọi thứ,” bà ta trả lời, dịu dàng mỉm cười hoài niệm. “Ông ấy là người làm ăn giỏi, anh biết đó.”
“Nhưng ông ấy chưa bao giờ nói gì với bà về gia đình đầu tiên của Lula?”
“Ôi không, ông ấy không nói những chuyện đó đâu.” Có vẻ như phu nhân Bristow thấy câu hỏi thật kỳ lạ. “Tôi muốn con bé chỉ là của tôi, của riêng tôi mà thôi, anh hiểu không. Alec nếu có biết gì thì vẫn muốn che chở cho tôi. Tôi không thể chịu được cái ý nghĩ rằng ai đó sẽ tìm đến và đòi lại nó. Tôi đã mất Charlie; tôi rất muốn có một đứa con gái; ý nghĩ sẽ mất nó thật…”
Cô y tá quay trở lại cầm theo một chiếc khay với hai cái tách và một đĩa bánh qui sô cô la.
“Một cà phê,” cô ta vui vẻ nói, đặt cái tách bên cạnh Strike trên chiếc bàn con gần hắn, và “một trà hoa cúc.”
Rồi cô ta lại vội vã bước ra. Phu nhân Bristow khép mắt lại. Strike uống một ngụm cà phê đen, rồi hỏi tiếp:
“Năm ngoái Lula bắt đầu đi tìm bố mẹ ruột, có phải vậy không thưa bà?”
“Đúng thế,” phu nhân Bristow trả lời, mắt vẫn nhắm. “Lúc đó tôi vừa phát hiện ung thư.”
Cả hai im lặng. Strike khẽ đặt tách cà phê xuống. Tiếng trẻ con hò hét từ xa vọng vào qua ô cửa sổ đang mở.
“John và Tony rất giận nó,” phu nhân Bristow nói tiếp. “Cả hai đều thấy nó không nên đi bắt đầu đi tìm mẹ đẻ trong khi tôi ốm đau như vậy. Khi phát hiện thì khối u đã tiến triển. Tôi phải làm hoá trị ngay. John rất ngoan; nó lái xe chở tôi đi về bệnh viện, đến ở cùng tôi những ngày tệ hại nhất. Đến Tony cũng hay ghé qua. Vậy mà Lula dường như chỉ biết có…” Bà ta thở dài, mở đôi mắt mờ, nhìn mặt Strike. “Tony luôn nói con bé được chiều quá hoá hư. Lỗi tại tôi cả. Tôi từng mất Charlie, anh thấy đó, tôi yêu con bé bao nhiêu cũng không đủ.”
“Bà có biết được Lula đã tìm ra những gì về gia đình ruột thịt của cô ấy không?”
“Không, tôi không biết gì cả. Tôi nghĩ nó cũng biết chuyện đó làm tôi rất phiền. Nó không kể gì nhiều. Tôi biết nó đã tìm ra mẹ ruột, đương nhiên rồi, vì báo chí ồn ào kinh khủng sau đó. Bà ta đúng như những điều Tony đoán. Bà ta còn không muốn sinh ra Lula. Một người đàn bà chẳng ra gì, chẳng ra gì cả.” phu nhân Bristow thì thầm. “Nhưng Lula cứ đi gặp bà ta mãi. Trong lúc tôi vẫn còn hoá trị. Tôi bị rụng hết tóc…”
Giọng bà ta yếu dần đi. Strike thấy mình thật thô lỗ (mà có lẽ bà ta cũng thấy vậy) khi vẫn phải tiếp tục hỏi:
“Còn người cha ruột thì sao? Cô ấy có bao giờ kể gì về ông ta không?”
“Không,” phu nhân Bristow đáp, giọng yếu ớt. “Tôi không hỏi. Tôi có cảm giác nó không thiết tha gì nữa sau khi tìm ra bà mẹ khủng khiếp đó. Tôi không muốn nói chuyện đó với nó, không muốn chút nào cả. Quá đau lòng. Tôi nghĩ nó cũng biết vậy.”
“Cô ấy không nói gì về người cha ruột khi gặp bà lần cuối sau?” Strike vẫn hỏi tiếp.
“Ôi không có,” bà ta trả lời, giọng nhẹ nhàng. “Không nói gì. Nó cũng chẳng ở lâu, anh biết đó. Tôi còn nhớ vừa vào đến nơi nó đã nói là không ở được lâu. Nó phải đi gặp Ciara Porter bạn nó.”
Strike nhận ra chút tủi thân phảng phất trong giọng nói của bà ta, tựa như mùi đau ốm lâu ngày vương vấn trong phòng: có chút gì ẩm mốc, chết chóc. Phu nhân Bristow làm hắn nhớ đến Rochelle, mặc dù hai người nhìn bên ngoài thật như một trời một vực. Cả hai đều có cái hờn tủi của những người nghĩ mình bị người khác quay lưng, bỏ rơi.
“Bà có nhớ là hôm đó bà và Lula nói những chuyện gì không?”
“Anh biết đó, tôi uống rất nhiều thuốc giảm đau. Tôi vừa phải chịu một ca phẫu thuật lớn. Tôi không nhớ hết được.”
“Nhưng bà nhớ Lula có ghé vào thăm?” Strike hỏi.
“Có chứ,” bà ta nói. “Nó đánh thức tôi dậy vì trước đó tôi vẫn còn ngủ.”
“Bà có nhớ hai người nói chuyện gì không?”
“Chuyện ca phẫu thuật, đương nhiên rồi,” bà ta nói, thoáng sự khó chịu. “Sau đó có nói một chút về anh của nó.”
“Anh của cô ấy…?”
“Charlie,” phu nhân Bristow trả lời, giọng buồn bã. “Tôi kể lại ngày Charlie chết. Trước đó tôi chưa bao giờ nói chuyện đó với Lula cả. Ngày tồi tệ nhất, kinh khủng nhất trong đời tôi.”
Strike có thể hình dung cảnh phu nhân Bristow vừa mệt mỏi kiệt sức nhưng cũng không kém phần ai oán, cố giữ cô con gái đang miễn cưỡng ngồi lại bằng cách nói về sự đau đớn hành xác, rồi về đứa con trai đã chết.
“Làm sao tôi biết được đó lại là lần cuối cùng tôi thấy con bé?” bà ta nói, thở nặng nhọc. “Khi đó tôi không biết sẽ lại mất thêm một đứa con nữa.”
Đôi mắt phu nhân Bristow đỏ ngàu, ngấn nước. Bà ta khẽ chớp mắt, hai giọt nước mắt tròn mẩy lăn dài trên gò má hốc hác.
“Phiền anh mở ngăn kéo,” phu nhân Bristow thì thào, chỉ ngón tay gầy guộc về chiếc bàn con cạnh giường, “lấy cho tôi mấy viên thuốc?”
Strike mở ngăn kéo bàn. Bên trong có nhiều hộp trắng, đủ loại thuốc men được dán nhãn khác nhau.
“Thuốc nào…”
“Loại nào cũng được. Như nhau cả,” bà ta nói.
Hắn lấy ra một chiếc hộp trắng có dán nhãn ghi chú rõ ràng là Valium. Chỗ thuốc trong hộp đủ cho bà ta uống quá liều mười lần.
“Anh cho tôi vài viên được không?” bà ta nói. “Tôi sẽ uống với trà, nếu đã nguội bớt.”
Hắn đưa mấy viên thuốc và tách trà cho phu nhân Bristow. Đôi bàn tay bà ta run rẩy, hắn phải đưa tay đỡ lấy cái đĩa tách. Hắn tự dưng (thật vô duyên) thấy mình như một vị linh mục đang cử hành thánh lễ.
“Cảm ơn anh,” bà ta thì thào, ngả người lên gối khi hắn đặt tách trà xuống bàn, rồi lại não nùng nhìn hắn. “Hình như John có nói với tôi là anh biết Charlie?”
“Vâng, đúng thế.” Strike đáp. “Tôi không bao giờ quên được anh ấy cả.”
“Đương nhiên rồi. Nó là đứa trẻ đáng yêu nhất. Ai cũng nói thế. Đứa trẻ xinh xắn, dễ thương nhất mà tôi từng biết. Không ngày nào mà tôi không nhớ nó cả.”
Bên ngoài cửa sổ, đám trẻ con vẫn đang hò hét, hàng cây tiêu huyền lao xao. Strike nghĩ đến một sáng mùa đông vài tháng trước. Khi đó hẳn hàng cây đã rụng lá, chỉ còn trơ trụi cành khô, còn Lula đang ngồi ngay chỗ hắn đây, đôi mắt xinh đẹp dán vào tấm hình của Charlie quá cố, trong khi bà mẹ mê man kể lại một câu chuyện khủng khiếp.
“Trước đó tôi chưa bao giờ kể chuyện Charlie cho Lula cả. Tôi còn nhớ, hôm đó Charlie và John đạp xe ra ngoài chơi. Rồi chúng tôi nghe thấy tiếng John gào thét, và tiếng Tony la hét, rồi la hét…”
Strike vẫn chưa đặt bút viết. Hắn mải quan sát gương mặt người đàn bà hấp hối đang kể chuyện.
“Alec không để tôi nhìn thấy cảnh đó, không cho tôi tới gần mỏ đá. Khi ông ấy kể lại, tôi ngất xỉu. Tôi tưởng tôi chết mất thôi. Tôi muốn chết. Tôi không hiểu tại sao Chúa có thể để chuyện đó xảy ra được.
“Nhưng sau đó tôi nghĩ rằng có lẽ tôi đáng chịu tất cả,” phu nhân Bristow mơ hồ nói, mắt dán lên trần nhà. “Tôi luôn tự hỏi phải chăng mình đang bị trừng phạt. Vì tôi yêu thương cả ba quá mức. Tôi nuông chiều chúng. Tôi không biết nói không Charlie, Alec rồi cả Lula. Tôi nghĩ ắt hẳn đó phải là sự trừng phạt bởi vì nếu không thì quá độc ác, phải vậy không? Chúa khiến tôi phải chịu đau đớn đến ba lần.”
Strike không biết nói sao. Dường như bà ta muốn tìm kiếm chút thương hại, một sự thương hại vượt ra ngoài khả năng của hắn. Phu nhân Bristow nằm đó, quấn trong lớp áo choàng vô hình của một vị thánh tử vì đạo, mang thêm sự bất lực và thụ động như những món đồ trang sức. Nhưng khi nhìn bà ta, Strike vẫn thấy không quý mến nổi.
“Tôi rất muốn có Lula,” phu nhân Bristow nói, “nhưng tôi không nghĩ nó… Nó là một đứa bé đáng yêu. Rất xinh đẹp. Vì nó tôi có thể làm tất cả. Nhưng nó không yêu tôi như Charlie và John yêu tôi. Có lẽ đã quá trễ. Có lẽ vì chúng tôi nhận nuôi nó quá trễ.
“Khi nó mới về John ghen tị lắm. Thằng bé rất đau khổ sau khi Charlie… nhưng rồi hai đứa trở nên rất thân thiết. Thân lắm.”
Một cái nhướng mày khiến lớp da mỏng như giấy trên trán bà ta nhăn lại.
“Vậy nên Tony đã nói sai.”
“Ông ấy nói sai chuyện gì?” Strike khẽ hỏi.
Ngón tay phu nhân Bristow co lại trên tấm chăn. Bà ta nuốt nước bọt.
“Tony nghĩ chúng tôi không nên nhận nuôi Lula.”
“Tại sao không?” Strike hỏi.
“Tony không thích đứa nào trong đám con tôi cả” Yvette Bristow trả lời. “Em trai tôi là người rất nghiệt ngã. Rất lạnh lùng. Cậu ấy nói những lời thật khủng khiếp sau khi Charlie chết. Alec xông vào đánh cậu ấy. Những chuyện Tony nói không hề đúng sự thật. Không đúng tí nào cả.”
Đôi mắt mờ đục của bà ta nhìn mặt Strike, hắn thoáng nhận ra người đàn bà của ngày trước, khi hãy còn nhan sắc: một chút quyến luyến, một chút trẻ con, xinh đẹp, thích phụ thuộc vào người khác. Một người đàn bà cực kỳ nữ tính, được nâng niu, bảo vệ trong vòng tay Ngài Alec; mọi ước ao, mọi ý thích tình cờ đều được thoả mãn.
“Tony nói gì vậy?”
“Những điều khủng khiếp về John và Charlie. Rất kinh khủng. Tôi không…” bà ta nói, yếu ớt, “… muốn lặp lại. Rồi khi nghe rằng chúng tôi sắp nhận nuôi một bé gái, cậu ấy gọi ngay cho Alec để ngăn cản. Alec giận lắm," bà ta thì thào. “Sau đó ông ấy cấm cửa Tony”.
“Hôm đó bà có kể hết chuyện này cho Lula không?” Strike hỏi. “Về Tony, về những điều ông ấy nói sau khi Charlie chết, rồi cả khi bà sắp nhận nuôi cô ấy?”
Câu hỏi đó với phu nhân Bristow dường như một lời quở trách. Bà ta khống chế:
“Tôi không nhớ chính xác đã nói gì với nó. Khi đó tôi vừa phải chịu một ca phẫu thuật lớn. Nhiều thuốc men quá nên tôi hơi buồn ngủ. Tôi không nhớ rõ lắm…”
Và rồi, phu nhân Bristow bất ngờ đổi chủ đề:
“Anh chàng đó khiến tôi nhớ đến Charlie. Bạn trai của Lula ấy. Một cậu rất đẹp trai. Tên gì nhỉ?”
“Evan Duffield?”
“Đúng vậy. Anh ta có đến thăm tôi. Cũng mới đây thôi. Tôi không biết chính xác… tôi không còn nhớ ngày tháng nữa. Nhiều thuốc men quá. Nhưng anh ta có đến thăm tôi. Thật là tử tế. Anh ta muốn nói chuyện về Lula”.
Strike nhớ Bristow từng nói mẹ anh ta không biết Duffield là ai. Hắn tự hỏi phải chăng phu nhân Bristow đã vờ vĩnh với ông con trai, kiểu như cố tỏ ra đãng trí để được Bristow chú ý chăm sóc hơn.
“Charlie mà còn sống hẳn cũng sẽ đẹp trai như thế. Hẳn nó phải thành ca sĩ, hay diễn viên. Nó rất thích trình diễn, anh có nhớ không? Tôi thấy thương Evan quá. Anh ta ngồi đây khóc với tôi. Anh ta nói cứ tưởng Lula có người khác”.
“Người khác là ai?”
“Tay ca sĩ ”, phu nhân Bristow nói mơ hồ. “Tay ca sĩ viết bài hát về Lula. Khi còn trẻ và đẹp như vậy người ta dễ cư xử tàn nhẫn. Tôi thấy tội Evan. Anh ta nói rằng anh ta rất ân hận. Tôi nói anh ta không có việc gì phải ân hận cả”.
“Tại sao anh ta ân hận?”
“Vì đã không theo nó vào nhà. Vì đã không có ở đó, để ngăn nó lại”.
“Nếu bà có thể nhớ lại thêm một chút, ngay hôm trước khi Lula mất…?”
Bà ta tỏ vẻ hơi trách móc.
“Tôi e là tôi không nhớ gì nữa. Tôi đã kể với anh tất cả những gì tôi còn nhớ. Lúc đó tôi vừa ra viện. Tôi không tỉnh táo. Nhiều thuốc giảm đau quá”.
“Tôi hiểu. Tôi chỉ muốn biết hôm đó Tony có ghé thăm bà không?”
Im lặng một lúc. Gương mặt yếu ớt của phu nhân Bristow đanh lại.
“Không, tôi không nhớ là Tony ghé qua”, cuối cùng bà ta lên tiếng. “Tôi biết cậu ấy nói là có ghé qua thăm, nhưng tôi không nhớ. Có lẽ khi đó tôi đang ngủ”.
“Ông ấy nói lúc đó Lula cũng đang ở đây”, Strike nói.
Phu nhân Bristow khẽ nhún đôi vai gầy gò yếu ớt.
“Có lẽ vậy”, bà ta nói tiếp, “nhưng tôi không nhớ”. Rồi bà ta nói to hơn một chút. “Cậu ấy đã dễ chịu hơn với tôi, vì biết tôi gần đi rồi. Cậu ấy hay ghé thăm lắm. Đương nhiên là lúc nào cũng nói xấu John. Xưa nay cậu ấy vẫn thế. Nhưng John rất hiếu thảo với tôi. Nó đã đỡ đần tôi rất nhiều khi ốm đau…làm cả những việc mà đáng ra con trai không phải làm. Những việc đó nếu Lula làm thì hợp lý hơn… nhưng con bé được chiều quá. Tôi yêu nó lắm, nhưng nhiều khi nó khá ích kỷ. Rất ích kỷ”.
“Vậy vào cái ngày cuối cùng đó, lần cuối cùng bà gặp Lula…” Strike cố tìm cách trở lại chuyện chính, nhưng phu nhân Bristow đã ngắt lời hẳn.
“Sau khi nó ra về, tôi rất buồn”, bà ta nói. “Buồn quá đỗi. Mỗi khi nhắc chuyện Charlie tôi đều cảm thấy như thế. Con bé thấy tôi đang rất buồn, nhưng vẫn đi gặp bạn. Lúc đó tôi phải uống thuốc, rồi tôi thiếp đi. Không, tôi không hề gặp Tony; cũng không hề gặp ai khác. Tony nói cậu ấy có ghé qua, nhưng tôi không nhớ gì nữa, cho đến khi John đánh thức tôi dậy để ăn tối. John rất giận. Nó còn rầy tôi nữa”.
“Tại sao vậy?”
“Nó nói tôi uống nhiều thuốc quá”, phu nhân Bristow trả lời, bối rối như một bé gái. “Tôi biết nó chỉ muốn tốt cho tôi, tội nghiệp John, nhưng nó không nhận ra rằng… nó không thể… Đời tôi đã quá nhiều đau đớn. Đêm đó nó ngồi với tôi rất lâu. Chúng tôi nói về Charlie. Nói đến tận sáng sớm. Và trong khi chúng tôi nói chuyện”, bà ta hạ giọng, thì thào, “ngay đêm đó, Lula ngã xuống… từ ban công.
“John phải làm cái việc là báo tin cho tôi biết, ngay sáng hôm sau. Cảnh sát đến trước nhà khi trời vừa sáng. Sau đó John vào phòng ngủ để nói với tôi và…”
Bà ta nghẹn ngào, khẽ lắc đầu chậm chạp, dường như không còn sinh khí.
“Vì vậy mà ung thư tái phát, tôi biết mà. Người ta chỉ chịu được chừng đó đau đớn”.
Giọng bà ta càng lúc càng nhịu. Hắn tự hỏi không biết bà ta uống bao nhiêu Valium rồi. Hai mắt phu nhân Bristow nặng trĩu, khép lại.
“Yvette, tôi dùng nhà vệ sinh của bà được không?” hắn hỏi.
Bà ta cho phép bằng cái gật đầu thiêm thiếp.
Strike đứng dậy, nhanh nhẹn và nhẹ nhàng di chuyển thân hình bệ vệ. Hắn đi thẳng vào tủ quần áo siêu lớn.
Những cánh cửa gỗ gụ trong tủ chạm đến trần nhà. Hắn mở một cánh ra, thấy những giá treo đầy nhóc các loại áo đầm và áo khoác, bên trên có kệ đựng túi xách và mũ. Mùi âm ẩm của giầy cũ và vải vóc khiến hắn cảm giác như đang đứng trong cửa hàng từ thiện bán đồ cũ, mặc dù đám đồ đạc ở đây hẳn cực kỳ đắt đỏ. Hắn khẽ mở hết cánh cửa này đến cánh cửa khác, đến cánh thứ tư, hắn thấy mấy cái túi xách còn mới nguyên, đủ màu sắc, tất cả được nhồi nhét trên kệ.
Hắn lấy xuống chiếc túi màu xanh, mới cứng, sáng bóng. Chiếc túi có logo GS và lớp vải lót bên trong bằng lụa có dây kéo. Hắn cho tay vào bên trong chiếc túi, miết ngón tay khắp các góc rồi khéo léo đặt vào chỗ cũ.
Tiếp đến hắn chọn chiếc túi màu trắng có lớp lót in hoa văn cách điệu kiểu châu Phi. Hắn lại miết ngón tay trong túi. Rồi hắn mở khoá kéo, tháo lớp vải lót.
Y như Ciara đã mô tả, lớp vài lót rời ra thành một chiếc khăn quàng cổ có viền là dây khoá kéo, để lộ phần da nham nhám màu trắng bên trong túi. Vẫn không thấy gì cả, cho tới khi hắn nhìn thật kỹ. Một đường màu xanh nhạt lộ ra dọc theo tấm bìa cứng bọc vải hình chữ nhật ở đáy túi. Hắn nhấc tấm bìa lên. Bên dưới là một tờ giấy màu xanh nhạt đã được gấp lại. Chữ viết trên tờ giấy khá cẩu thả.
Strike nhanh tay nhét lớp vải lót trở lại túi rồi đặt vào chỗ cũ. Hắn rút từ trong túi áo ra một cái bao ni lông, bỏ tờ giấy xanh vẫn chưa kịp đọc vào đó, rồi đóng cánh cửa lại và tiếp tục mở các cánh khác. Đằng sau cánh cửa gần cuối là một cái két sắt có khoá mã số.
Strike lấy ra thêm một bao ni lông nữa, lồng tay vào và bắt đầu bấm mã số. Nhưng trước khi hắn kịp thử thì bên ngoài có tiếng động. Hắn vội vàng nhét bao ni lông vào trong túi áo, đóng cửa tủ không một tiếng động và quay trở lại phòng ngủ. Cô y tá Macmillan đang cúi xuống bên phu nhân Bristow. Khi nghe tiếng bước chân hắn cô ta ngẩng lên nhìn quanh.
“Tôi đi nhầm”, Strike nói. “Tôi cứ tưởng là nhà vệ sinh”.
Rồi hắn đi vào nhà vệ sinh, đóng cửa lại. Trước khi bấm xả bồn cầu và vặn vòi nước để cô y tá có thể nghe được, hắn đọc bản di chúc cuối cùng của Lula Landry, viết tháu trên tờ giấy lấy từ thư phòng của phu nhân Bristow. Người làm chứng là Rochelle Onifade.
Khi hắn trở ra, Yvette Bristow vẫn nằm đó, mắt nhắm nghiền.
“Bà ấy thiếp đi rồi”, cô y tá dịu dàng nói. “Bà ấy dạo này hay ngủ như vậy lắm”.
“Vâng”, Strike nói, hai tai nóng bừng. “Khi phu nhân tỉnh dậy, phiền cô nhắn lại là tôi xin phép ra về. Tôi phải đi đây”.
Hai người cùng đi ra, dọc theo hành lang ấm cúng.
“Phu nhân Bristow trông rất yếu”, Strike bình luận.
“Ồ vâng, đúng vậy”, cô y tá đáp lời. “Bà ấy có thể đi bất cứ lúc nào. Bà ấy yếu lắm rồi”.
“Tôi nghĩ hình như tôi để quên…” Strike băng quơ nói rồi rẽ trái vào căn phòng khách sơn vàng lúc hắn mới đến. Hắn cúi người trên chiếc sofa, che tầm nhìn của cô y tá và cẩn thận đặt ống nghe điện thoại ngay ngắn trở lại lên giá đỡ.
“À đây rồi”, hắn nói, giả vờ nắm lấy một vật rất nhỏ trong bàn tay rồi bỏ vào túi. “Cảm ơn cô đã mời cà phê”.
Tay cầm nắm cửa, hắn quay lại hỏi cô y tá.
“Phu nhân vẫn lạm dụng Valium như xưa, nhỉ?”
Không hề nghi ngờ gì cả, cô y tá mỉm cười độ lượng.
“Vâng, thì vậy, nhưng bây giờ cũng không thể hại gì nữa. Mà nói thật”, cô ta tiếp, “phải tay tôi, tôi mắng cho mấy tay bác sĩ đó một trận. Bà ấy có tới ba bác sĩ chuyên kê đơn cho bà mua Valium từ bao năm nay, nhìn trên nhãn dán hộp thì biết”.
“Thật chẳng ra gì”, Strike nói. “Một lần nữa cảm ơn cô. Tạm biệt”.
Hắn gần như chạy xuống cầu thang, điện thoại đã cầm sẵn trong tay. Hắn phấn chấn đến nỗi không nhìn lối đi, hụt chân trên cầu thang. Chiếc chân giả bị lệch về một bên, hắn rống lên đau đớn. Đầu gối trật ra khiến hắn ngã rầm xuống sáu bậc thang, nằm nguyên một đống. Khớp gối và mỏm chân cụt của hắn đau đớn kinh hoàng như lúc vừa mới bị cưa, lớp da non còn đang kéo lại.
“Mẹ kiếp! Đau quá!”
“Anh không sao chứ?”, cô y tá Macmillan gọi hắn từ trên lan can, từ dưới nhìn lên gương mặt của cô ta lộn ngược trông rất buồn cười.
“Tôi ổn… Không sao cả!” hắn hét ngược trở lại. “Trượt chân thôi! Đừng lo! Chó chết, khốn nạn, mẹ kiếp”, hắn rên rỉ, thở hồng hộc rồi vịn tay vào trụ cầu thang gần nhất để đứng dậy, rón rén không dám đứng thẳng trên chiếc chân giả đã bị lệch.
Hắn đi cà nhắc xuống phần cầu thang còn lại, cố dựa vào lan can; vừa đi vừa nhảy lò cò qua sảnh đón khách rồi bám vào cánh cửa dày để lết xuống bậc tam cấp trước toà nhà.
Đám trẻ con học thể dục đang chuẩn bị về lại trường để kịp bữa trưa, đi thành hàng rồng rắn xanh xanh ở phía xa. Strike đứng dựa lưng vào bức tường gạch ấm áp, vừa chửi thề liên tục, vừa tự hỏi rằng không biết chân cẳng mình đã hư hại đến đâu. Hắn thấy đau đớn kinh khủng, cảm giác như lớp da mỏm chân đang sưng tấy bị rách ra, rát buốt trong lớp lót bảo vệ. Viễn cảnh đi bộ về trạm tàu điện ngầm trở nên vô cùng thê thảm.
Hắn ngồi ở bậc tam cấp và gọi taxi. Trong khi chờ xe đến hắn gọi cho Robin, rồi Wardle, rồi văn phòng công ty luật Landry, May, Patterson.
Chiếc xe taxi đen đỗ xịch ở góc đường. Lần đầu tiên hắn nhận ra xe taxi ở London trông giống hết như những cỗ xe tang nhỏ. Hắn gượng đứng dậy, lê lết xuống vỉa hè, mỏm chân đau buốt.
